Gửi: Văn Kỳ Chương
Trời
Chicago cuối tháng Tư vẫn còn lạnh. Tuy thế anh em đi dự buổi họp
điều-trị-tâp-thể đông hơn thường lệ. Nhiều anh em sĩ quan ở các nhóm
khác, không phải họp hôm nay, họ cũng đến. Phòng họp dành cho buổi
điều-trị-tập-thể của các anh em sĩ quan H.O. tại Asian Human Services
-Chicago rộng rãi và tươm tất, được trang hoàng trang nhã với những bức
tranh ấn tượng của Claude Monet, màu sắc hàì hòa gợi nhớ về một thuở
thanh bình. Các anh chia từng nhóm nhỏ chuyện vãn với nhau. Hôm nay có
hai hội viên mới. Hai anh chủ động tự giới thiệu. Các anh cũ và mới nhận
ra nhau. Họ kể cho nhau nghe những ai mất, ai còn, những đắng cay lao
khổ tủi nhục trong lao tù cải tạo cũng như những buồn tủi cho thân phận
đến Mỹ thuộc diện từ thiện H.O (Humanitarian Operation).
Họ cùng nhau ôn lại chắt chiu từng lời những kỷ niệm chiến đấu bên
nhau, nhắc lại những con đường, những xóm làng trong chiến tranh, họ
cùng nhau đã đi qua. Anh hội viên mới, vừa nhìn thấy Trung tá Đồng, anh
liền chạy đến, anh nói lớn:
- “Đại Bàng” cũng có mặt ở
đây nữa sao? Như vừa sực nhớ điều gì, anh đứng thẳng người, nghiêm túc
chào Trung Tá Đồng đúng theo quân phong. Trung tá Đồng chào lại. Cả
phòng họp im phăng phắc. Gần 20 cặp mắt nhìn nhau, xúc động. Tiếng giới
thiệu của Trung tá Đồng đánh tan sự yên lặng:
- Các anh em, đây là Đại úy Phúc, trưởng tóan viễn
thám của Trung Đòan 2, Sư Đòan 1. Hành quân Lam sơn 719, Đại úy Phúc là
người vào Tchépone sớm nhất và anh dẫn 4 toán viễn thám ra khỏi Tchépone
an tòan.
- Thưa các anh, tôi là Đại úy Phúc. Vâng, chúng tôi
vào Tchépone rất sớm, vì chúng tôi là viễn thám. Chúng tôi vào Tchépone
trước ngày 6/3/71 rồi sau đó thì đại bộ phận của ta mới vào. Khi tôi vào
Tchépone, thì thị trấn Tchépone hòan toàn bỏ ngõ, quân đội Công sản rút
ra khỏi Tchépone lâu rồi. Tôi linh cảm, mình bị trúng kế. Vô sớm và vào
Tchépone sâu hơn ai hết, nhưng rất may được lịnh rút ra khỏi Tchepone
sớm nhất. Chậm chân một tí là lãnh đủ. Chúng tôi rút ra khỏi Tchépone về
hướng Bắc sau khi ở lại Tchépone hơn hai ngày. Vừa ra khỏi Tchépone vài
ba cây số, cả rừng núi dưới chân chúng tôi rung chuyển. Pháo đài B52
đang trút cả căm hờn xuống đầu thù, diệt sạch Tchépone. Nghe đến đây có
nhiều anh em thật sự xúc động vì hành quân Lam Sơn-719 gây tai hại cho
anh em cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa nhiều quá. Đất nước ta mất mát
nhiều quá. Hàng ngàn chiến sĩ Việt Nam kể cả hai chiến tuyến đã bị pháo
đài B52 cày nát trong lúc giao tranh.
Bất thần, trong đám anh em, có người vừa la lớn:
- Thôi dẹp cái chuyện Lam Sơn 719 đi, quí vị ơi, nhức đầu quá rồi!
Đại úy Phúc xoe tròn đôi mắt nhìn ngưồi bạn vừa la lớn. Trung tá Đống nhắc anh Phúc:
- Nhớ, anh đang tham gia buổi điều trị tâm thần tập
thể, có tên là “Câu Lạc Bộ 309.81”. Nhóm số ‘309.81’ là ước số quốc tế,
để chỉ bịnh tâm thần “Hội Chứng Hậu Chiến”, nói theo tiếng Mỹ là “Hội
Chứng Tâm Thần Sau Chấn Thương và Stress” (Post Traumatic Stress Disorder Syndromes). Trong nhóm điều trị tập thể này có nhiều anh em mất phần nào khả năng tri thức, họ bị triệu chứng mê sản và ác mộng.
- Vâng, anh Phúc trả lời, chính em cũng bị triệu chứng mê sảng trong lúc ngủ. Vừa chợp mắt
là thấy ác mộng. Thức dậy, nhức đầu không làm sao ngủ
lại được, thao thức mệt mỏi, chán chường. Vợ em bảo có đêm, em thức
dậy, ngồi một mình, mở mắt thao láo nhìn vào bóng đêm. Có lúc em mê sản,
dẫy dụa, đạp nhầm phải vợ. Nhiều lúc nhớ lại anh em nằm xuống cho tự
do, dân chủ, cho độc lâp. Mình cảm thấy hổ thẹn và tội lỗi trong sư sống
còn nhục nhã của mình. Nhiều lúc lên cơn giận dữ vô cớ, tánh tình nóng
nảy bất thường, không sao kiềm chế được. Hướng về các anh em, anh Phúc
nói:
- Nhiều lúc tôi mất cả lòng tin ở tôi, mất cả lòng
tin vào nền tảng đạo đức xã hội hiện tại. Trời, Phật, Thương Đế có thật
không? Hay chỉ có con người gian ác? Người giết người. Người hành hạ đầy
ải người. Tại sao dân tộc ta triền miên đau khổ vì chiến tranh chống áp
bức, chống xâm lăng. Tại sao Cộng sản Việt Nam lại tù đày lao cải hàng
triệu công dân Việt Nam yêu nước? Tại sao dân tộc ta chấp nhận nhiều thử
thách đớn đau đến như vậy?...
- À…đó cũng là tâm thức chung của các anh em đây,
Trung tá Đồng đỡ lời anh Phúc, vì chúng ta cùng có chung một quá khứ, ai
cũng là nạn nhân của chiến tranh cả. Anh Phúc, tôi nói cho anh biết
người vừa la lớn “thôi dẹp cái chuyện Lam sơn 719 đi” là người sĩ quan
trẻ nhất trong Câu Lạc Bộ. Năm 75, anh ta là Trung úy “Dù”, anh ấy
chuyển sang “Dù” từ Không quân…Ngừng một chập, Trung tá Đống gọi người
sĩ quan trẻ nhất đó:
- Anh Cảnh, sao anh lại đau đầu trong lúc này? Anh có thể cho anh em biết anh gia nhập Câu Lạc Bộ trong trường hợp như thế nào?
- Tôi được giới thiệu gia nhập Câu Lạc Bộ từ bịnh viện tâm thần Chicago Read.
- Nhưng làm sao người ta đưa anh vào Chicago Read?
- Tôi đã nói với các anh em rồi, là đêm hôm đó tôi
ngủ không được, đến 2 giờ sáng mà vẫn còn nhức đầu ray rức, nằm đứng
không yên, đi lại trong phòng. Tết nhất đến nơi. Đất khách quê người,
một thân một mình, buồn. Buồn lắm! Nhớ lại hồi sáng hôm đó, đến văn
phòng xã hội xin được tiếp tục trợ cấp xã hội, nghe nữ cán bộ xã hội
người Mỹ phóng vấn một phụ nữ Việt Nam bà ấy đang có thai, nhưng không
có chồng, không có job. Cũng như mình, bà ta đăng ký xin trợ cấp xã hội.
Nghe nó hỏi bà ta những câu thật là mất dạy:
- Mày nói thật cho tao nghe…Mày ngủ với bao nhiêu thằng đàn ông rồi mày mới được cái thai đó?
Vừa nói dứt câu, anh Cảnh bất thần đứng dậy chỉ vào
mặt thiếu tá Trường đang ngồi trước mặt, anh quát lớn bằng giọng Phú
cam, Huế:
- Mi là con đĩ… Mi khinh khi bạo ngược cư xử với
người khác như là con đĩ, chính mi trước hết phải là con đĩ. Phải không
các anh hỉ?
Người bạn ngồi bên cạnh anh Cảnh, kéo anh ngồi xuống, và hỏi nhỏ anh:
- Cô ấy nói tiếng Mỹ mà anh nghe cũng được sao?
- Ở đời nhiều cái bất công lắm, anh Cảnh nói, khốn
nạn lắm. Năm 1970 tôi là sinh viên sỹ quan Không quân, phi công. Thầy
dạy tôi, các sỹ quan không quân Mỹ, tôi bay với họ, tôi học lái với họ,
dĩ nhiên chúng tôi trao đổi với nhau bằng tiếng Mỹ, không một vấp váp.
Năm 71 tôi được đi học khóa bổ túc lái trực thăng tại Clark Field - Phi
Luật Tân. Trước 75 với các sĩ quan Mỹ, tôi
nói tiếng Mỹ thế nào họ cũng nghe, cũng hiểu, đối đáp
tường tận. Nhưng khi đến Mỹ với thân phận tỵ nạn, mình nói tiếng Mỹ
chỉnh đốn cách mấy đi nữa cũng bị họ “Quát”.(What you say.
Đến Mỹ tôi biết trước, sau 6 tháng họ cắt trợ cấp xã hội, mình phải tự
sanh nhai. Điều đó cũng đúng thôi, không ai có thể cổng mình mãi trên
lưng họ, mình cũng không muốn ngồi mãi trên lưng ai, hay sống bám vào
ai. Đến Mỹ việc đầu tiên là tôi lo đi tìm job. Có công ăn việc làm, mới
hy vọng còn có ngày ‘đứng lên’ chớ. Nhưng oái oăm thay, không ai chịu
nhận tôi. Họ bảo tôi không biết tiếng Mỹ hay nói tiếng Mỹ ngọng. Có
“ông” chủ nhà hàng ăn uống, lên mặt thầy đời bảo tôi:
- Mày về học tiếng Mỹ thêm vài ba năm nữa, rồi trở
lại đây tao sát hạch thử nếu được thì tao cố gắng vì nhân đạo cho một
chân rửa chén để mà sống.
Nghe nó nói thế tôi phát điên lên, tôi quát thẳng vào mặt nó:
- Ngày xưa trước 75, tại Việt Nam, tao nói tiếng Mỹ
thế nào đi nữa, những thằng sĩ quan Mỹ ngay cả cấp Tá ngon lành hơn mày
nhiều, đều biết và hiểu tao nói những gì, đều “Yes Sir”. Bây giờ tao đến Mỹ, tao nói tiếng Mỹ đứa nào cũng vặn vẹo, cũng ‘quát’ (what you say), ngay cả những thằng cà bơ như mày…
Nó cũng không vừa gì, nó cũng điên tiết, quát thẳng vào mặt tôi:
- Ngày xưa tại Việt Nam tao cần mày. Bây giờ tao mướn
mày có lợi gì cho tao? Tất cả chỉ vì lợi nhuận. Tại Việt Nam tao cần
mày chỉ vì lợi nhuận cho tao…
Thế là mộng rửa chén của tôi không thành.
Nói đến đây anh Cảnh dừng lại để thở… Anh nói tiếp:
- Không phải chỉ vì sự kiện đáng buồn của buổi sáng
hôm đó thôi đâu. Đêm hôm đó lúc nào tôi cũng nghe tiếng gào thét của bọn
Việt Cọng vây quanh nhà tôi lúc nửa đêm hồi năm 76, sau khi tôi vượt
khỏi nhà tù cải tạo ở Trảng lớn: “Thằng ‘giặc lái’ trốn về đây mau ra
đầu hàng, nếu không thì đền tội. Đền tội bằng cái chết của mày chưa đủ
đâu nếu mày đầu hàng trễ ”. Tôi nghe tiếng thét, tiếng gào như vậy suốt
hơn ba tháng rồi, nhất là lúc chiều tối.
Tối hôm ấy vì nhiều vấn đề dồn dập đến như vậy
cho nên đến 3 giờ sáng tôi vẫn không ngủ đựơc. Lúc đó mắc tiểu, nên tự
động mở cửa nhà ra đứng giữa đường xõng cu mà đái. Bỗng, đèn vàng chiếu
thẳng vào mặt tôi, rồi đèn đỏ đèn xanh chớp nhoáng lia lịa, xe cúu
thương hụ còi. Hình như một cánh tay nào đó trùm lên người tôi một cái
mền ấm. Lúc đó thì tôi hết biết gì nữa…Khi tôi tỉnh dậy mở mắt ra, đã 9
giờ sáng, tôi thấy bác sĩ Trọng đứng bên cạnh giường tôi. Bác sĩ Trọng
chào tôi và cho tôi hay là trong đêm qua tôi mê sảng chạy ra ngòai đường
lúc nửa khuya, trần truồng dưới lạnh không độ F. Tôi được cảnh sát cấp
cứu và tôi đang nằm tại bịnh viện tâm thần Chicago Read. Vài hôm sau bác
sĩ Trọng nhận tôi về đây. Ngày tôi trình diện bác sĩ Trọng tại đây đúng
vào ngày mùng một Tết ta…
Có tiếng ai nói ở đầu bàn họp:
- Nghe sao giống anh Bằng vậy? Hình như anh Bằng cũng
bị cảnh sát lượm lúc nửa đêm, họ chở anh vào nhà thương điên và cũng
bác sĩ Trọng lãnh anh về đây phải không?
Bị hỏi bất ngờ anh Bằng có vẻ giận. Anh trả lời bằng giọng nói trầm trầm của người già miền biển. Anh sanh tại Hải phòng:
- Trường hợp của tôi khác với anh Cảnh. Mỗi người một
phần số riêng, không ai giống ai cả! Anh Cảnh là Không quân và Dù. Tôi
thì ngược lại. Tôi là Hải quân. Tôi là Hạ sĩ quan, chuyên về
cơ khí. Tôi là lính của Công Xưởng Hải Quân VNCH tại
Cầu đá Nhatrang. Năm 1961, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm tôi được
gửi đi tu nghiệp 1 năm tại công xưởng hải quân Mỹ, tại Philadelphia. Năm
1975 tôi là Trung úy. Cộng sản vì biết tôi có tu nghiệp tại Mỹ mà lại
từ hạ sĩ quan tôi ngoi lên được Trung úy, họ nghi tôi làm tình báo cho
Mỹ. Cộng sản bắt tôi đi tù cải tạo tận ngòai Bắc, Quảng ninh. Tàu đổ
chúng tôi xuống cảng Hải phòng. Trong lúc chở đợi xe lửa bồc đi Quảng
ninh, tôi nhìn lại Hải phòng, nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, thiên đường
của tuổi thơ, bây giờ đổ nát, cũ kỹ trông như một thành phố hoang phế.
Nói thật với anh em, tôi khóc.
Sau tám năm đi tù cải tạo tận ngòai Bắc, Quảng Ninh
rồi Nghệ Tỉnh, Lý Bá Sơ, tôi về lại nhà tại Phước hải, Nhatrang. Bây giờ
mình nhìn sự đổ nát của gia đình mình: vợ già hẳn đi còm cỏi, ngồi bán
thuốc lá ở đầu hẻm. Còn con, đứa lớn đạp xích lô, đứa nhỏ chạy rong chôm
chỉa, hay còm lưng trên chiếc bôm xe đạp mà kiếm cơm độ nhật. Người
người ăn độn. Nhà nhà ăn độn. Đi ỉa đồng thấy tòan vỏ khoai tím đỏ. Đến
năm 1992 tôi biết mình được đi Mỹ theo diện H.O. như các anh. Lúc đó tôi
vừa ngòai 60. Các con tôi có gia đình. Vợ chồng tôi có cháu nội, cháu
ngọai. Vợ tôi nhất định thương con thuơng cháu không chịu đi. Thằng Cả
nhà tôi nó cũng khuyên tôi không nên đi. Nó tố giác cái tâm địa hắc ám
của Cộng sản: “lại một lần nữa họ lợi dụng những chiến sĩ VNCH như một
mặt hàng để họ trả giá lẫn nhau! Tất cả chỉ vì lợi nhuận cho họ!”
Chợt trên hàng ghế phía sau, có người cầm cú đấm giơ cao, phát biểu:
- Nói thật lúc đó chúng ta ai cũng biết sự thật bỉ ổi
như vậy. Nhưng ai cũng quyết tâm bất cứ giá nào cũng phải thoát khỏi
kềm kẹp của Chuyên Chính Vô Sản. Lúc ấy chúng ta đang sống thiếu dưỡng
khí và người Mỹ mang bình dưỡng khí cấp cưú lại cho chúng ta đúng lúc.
Chúng ta vô cùng nhớ ơn người Mỹ. Còn vấn đề chính phủ Mỹ và Cộng sản
làm ăn với nhau như thế nào trên số phận của chúng ta, chúng ta không
cần biết đến. Không có vấn đề luân lý hay đạo đức trong hành vi chính
trị. Lợi nhuận của họ là trên hết. Nghĩ cho cùng, sở dĩ chúng ta bỏ nước
ra đi cũng chỉ vì Chuyên Chính Vô Sản. Chỉ vì tự do và dân chủ. Chúng
ta cần một thể chế đa nguyên. Nếu người Cộng sản Việt Nam biết giác ngộ,
từ bỏ Chuyên Chính Vô Sản, chấp nhận một thể chế đa nguyên thì hay biết
chừng nào, không phải riêng cho dân tộc mà cho cả bản thân đảng Cộng
sản Việt Nam.
- Vâng, anh Bằng nói tiếp, lúc ấy thật sự tôi cũng
lấn cấn chưa biết tính sao nhưng điều chắc chắn là phải ra đi. Cộng sản
vùi dập tôi dữ dội quá, mỏi mòn quá rồi. Không chịu nỗi nữa. Tôi thuộc
diện đặc biệt: không những là Ngụy quân mà còn là “Bắc Kỳ Công giáo Di
cư của Diệm”. Tôi phải giải bày cho cả gia đình tôi nghe, nhất là bà nhà
tôi. Tôi qua Mỹ vài ba năm tôi sẽ về thăm nhà, thăm bà, thăm con cháu.
Như ai cũng thấy, biết bao người vượt biên đã về thăm quê hương. Tôi
cũng giữ lời hứa với vợ tôi, tôi cũng vừa về thăm bà hồi năm ngóai.
Có điều hồi khi đến Mỹ, cũng như anh Cảnh, sau 6
tháng ‘nó’ cắt hết tiền trợ cấp xã hội và phiếu thực phẩm. Ban đầu, cứ
tưởng mình già, “nó” chỉ hâm he vậy thôi, đâu ngờ nó làm thiệt. Lúc đó
tôi phải quơ quào kiếm ăn vì tôi chưa đầy 65 tuổi. Tôi cực lực đi tìm
việc làm nhưng không có người nào chịu mướn tôi, ngay cả công việc chùi
nhà rửa chén. Họ chê tôi già, không biết nói tiếng Mỹ.
Đến đây anh Trần Sáu lên tiếng phân trần:
- Già như anh, như tôi, dù cho mình có nói tiếng Mỹ
hay đi nữa nó cũng không mướn. Nó hỏi những câu hỏi quái dị, những đòi
hỏi ngoan cố, phi lý, thái quá, của kẻ thắng thế, của kẻ mạnh hơn y như
bọn Cộng sản. Tôi xin việc chùi nhà, làm vệ sinh, nghĩa là lao công chùi
cầu tiêu đấy, thằng Mỹ phỏng vấn tôi, nhìn tôi từ đầu đến chân, thiếu
điều nó bảo mình nhe răng cho nó xem, như người ta xem răng bò răng ngựa
vậy. Nó hỏi: “mày 60 rồi hả? Mày có bằng hành nghề lao công chùi nhà
không?”. Các anh xem! Câu hỏi vô lý chưa? Mình mới tới Mỹ chưa đầy sáu
tháng, làm sao mình có bằng cắp hành nghề đươc. Thằng Mỹ sau đó, nói với
tôi: “mày không có bằng hành nghề, làm sao tao dám mướn mày”. Rồi nó ca
tụng tôi nào là tao biết mày là sĩ quan QĐVNCH, nào là mày đánh giặc
hay, mày xứng đáng cái job tốt hơn. Nó cảm ơn tôi. Tôi ghê tởm cái lịch
sự giả dối bề ngoài của tụi nó. Cái job chùi nhà, chùi cầu tiêu, rửa hố
xí đâu có liên quan gì đến việc đánh giặc hay, đánh giặc dỡ. Đúng là
thằng xỏ lá...Và anh Trần Sáu đi đến kết luận:
- Mong các anh em thông cảm cảnh ngộ những người đến Mỹ tuổi trên 60 như anh Bằng và tôi…
Anh Bằng nói tiếp:
- Vì thế tôi mới làm nghề tự do, đi lượm lon nhôm về
bán lại, là bạn thân với những đống rác, với cống rãnh. Thùng rác nào
tôi cũng dí mũi vào. Cũng nhiều khó khăn lắm. Trên nước Mỹ này cái lũ
yêu nghề tự do như tôi không phải là ít. Nước Mỹ, nghề nào cũng có cạnh
tranh cả. Có thế nước Mỹ mới tiến bộ. Cho nên nhiều hôm chỉ ‘đổi’ được
5,7 đồng, tháng nào cũng ăn đói, hụt tiền trả tiền nhà làm phiền toái
mấy người ở chung. Mùa Đông! Lại mùa Đông! Tôi đi lượm lon nhôm mù cả
mắt mà chẳng được mấy cái. Trời lạnh câm câm đói lã người. Tôi không
biết gì nữa và cứ đi như một phản xạ. Đến khi hòan hồn thì thấy đã 2 giờ
sáng mà cũng không biết mình đang ở nơi đâu, đâm ra hoảng hốt, ngồi
xuống vệ đường giữa trời khuya lạnh. Cảnh sát tưởng tôi là tên vô gia
cư, homeless, nó nhào đến hỏi. Thấy tôi ú..a..ú..â... nó tưởng tôi điên
và vô gia cư, cho nên nó đưa tôi vào nhà thương điên. Mấy hôm sau, bác
sĩ Trọng đến nhận tôi và đưa về đây. Vì thế mới gặp và biết các anh em
hôm nay. Chuyện đó đã mấy năm rồi! Nói đến đây anh Bằng mặt cúi xuống.
Không ai dám hỏi gì anh ấy câu nào nữa…
Lúc này vừa có một nhóm anh em đến trễ. Trong nhóm này có anh Hậu. Anh Hậu nhìn ra anh hội viên mới, anh Quân. Anh Hậu nói:
- Sao qua trễ vậy?
Anh Hậu hỏi anh Quân trong một giọng thân mật như người anh cả hỏi thằng em út. Rồi anh Hậu quay lại nói với anh em:
- Anh Quân đi học tập chung với tôi, ở cùng chung một
trại với tôi từ Tân hiệp ra Phú quốc về Giao long, chuyển sang Long
khánh, tất cả 8 năm 3 tháng chẳng rời nhau, đã từng ăn cháo cứt với nhau
tại Phú quốc! Nói đến đây anh Hậu cười ngất, đó là sự thật chứ không
phải là chuyện thần tiên. Trung úy Quân là lính kiển, truyền tin, bộ
binh. Thật sự anh là một nghệ sĩ. Anh là nhà nặn tượng.
Có người vừa hỏi anh Hậu và anh Quân:
- Các anh học tập cải tạo tại Phú quốc, các anh lại ăn cháo cứt, nghĩa là làm sao?
Sau đó Trung tá Đồng yêu cầu anh Hậu và anh Quân nói rõ thêm về việc các anh “ăn cháo cứt tại Phú quốc.”.
Anh Hậu nguyên là Đại úy cảnh sát Saigòn, Trưởng
Phòng Nghiên Cứu Tội Ác Cộng Sả. Anh sinh quán tại Sàigòn. Anh học chưa
xong cấp hai. Trứơc 75 anh có tánh uống rượu. Anh uống rất đúng cữ. Mỗi
ngày ba cữ. Mỗi cữ một xị. Anh được cái tánh xuề xòa, dễ dãi, cái gì
cũng xa-va. Các thuộc cấp rất thích anh và họ gọi anh là anh “Ba Xị”.
Mặc dầu là người lớn tuổi trong nhóm, nhưng tánh tình vui vẻ. Anh em
trong nhóm có gì cũng thích bàn bạc với anh vì anh thẳng thắng không câu
nệ, trừ phi anh lên cơn nhức đầu. Anh Hậu nhắc lại chuyện cũ. Tôi gặp
anh Quân tại Trung Tâm 3 Nhập Ngũ, vào ngày trình diện 26/6/75, cùng với
khỏang 3000 anh em khác. Ở đó 4 ngày, sau khi ‘thanh lọc’, họ đưa vào
khỏang 2000 người trong đó có chúng tôi lên Tân hiệp, Biên hòa. Ở Tân
hiệp được 6 tháng thì họ chuyển chúng tôi xuống bến Tân Cảng Saìgòn. Khi
họ lùa cả ngàn người nhốt dưới hầm tàu, có thể nói anh em chúng tôi
biết được ‘cay đắng mùi đời’ từ thuở đó. Các anh có thể tưởng tượng mọi
chuyện kỳ lạ, quái dị rùng rợn ở trên đời, nhưng các anh cũng không thể
tưởng tượng nỗi Cộng sản có thể nhồi bẹp cả mấy trăm người trong cái hầm
tàu nhỏ như cái bàn tay của con tàu cũ kỹ han rỉ, của Hải quân ta chê,
bỏ lại. Lúc đầu chúng tôi nghĩ đây là vụ thủ tiêu tập thể, khỏi cần dùng
đến hơi ngạt. Các anh có thể tưởng tượng mỗi người được 4 tấc vuông,
ngước cổ lên là đụng phải nóc hầm tàu. Ăn cũng ở đó. Ỉa đái cũng ở đó.
Lon đựng nước đái cũng là lon đựng nước uống. Nói thật họ cũng để một
dãy thùng phuy cho anh em đi ỉa. Ban đầu còn có người đi, nhưng sau
không còn ai đi nữa, vì ai cũng đuối sức, mệt lả người. Cộng sản bỏ mặc
các thùng phuy ở đó. Có cái cứt đái tràn ngập, không ai đem đi đổ hay
điều động người đi dộ. Chỉ có 8 tiếng đồng hồ sau khi rời bến, hơi người
ở dưới hầm tàu bay ra ngòai hiên tàu gặp gió mát biển biến thành hơi
nước nhỏ giọt ngay trên hiên cửa sổ của hầm tàu.. Như vậy trong hầm tàu
oi bức biết chừng nào. Ngày thứ hai mình mẩy ai cũng dính cứt, cũng thối
cứt, ai ai cũng cứt, đâu đâu cũng cứt. Ngay cả khẩu phần lương khô của
Trung quốc khi đến tay mình cũng bay mùi cứt. Dòi bò trên khắp người,
trong tóc, sợ nhất nó chui vào lỗ tai. Khó thở ngột ngạt, ngất xĩu.
Không ai cưú ai được. Cộng sản dĩ nhiên họ lờ. Nhưng có một điều Cộng
sản họ không ngờ được là sức chịu đựng của anh em ta rất phi thờng. Sau
ba ngày hai đêm chúng tôi vẫn sống nhăn răng. Người Cộng sản Việt Nam cư
xử với anh em tệ quá, dã man quá, không tình không nghĩa. Đúng 5 giờ
chiều thứ ba thì tàu cặp bến. Anh em hải quân trong đám, nhận ra ngay đó
là đảo Phú quốc. Chúng tôi được lệnh tẩy uế. Tàu vừa há mồm là chúng
tôi nhào đại xuống biển chẳng kể cạn sâu. Sau đó họ đem các thùng phuy
đựng cứt và nước đái trong các ngày qua đem xuống biển rửa qua loa. Ngay
chiều tối hôm đó họ nấu cháo. Họ mang cháu nóng đổ vào thùng phuy đó,
có thùng còn dính cứt, cho chúng tôi ăn. Lúc đầu tôi với Quân hai thằng
không thấy đói, không ăn. Nhưng sau rồi cũng phải ăn. Bát cháo chúng tôi
là cháo đáy thùng, cháo đứa nào cũng lợn cợn cứt. Đại để “ăn cháo cứt
tại Phú quốc” là vậy.
Có người hỏi:
- Các anh ở Phú quốc bao lâu? Công an hay bộ đội quản giáo các anh?
Anh Quân nói:
- Cái may mắn của chúng tôi ở Phú quốc là do Bộ đội
quản giáo. Dù sao cũng là lính với nhau, họ không hắc ám như Công an.
Như các anh biết đảo Phú quốc, một đảo lớn trong nhiều đảo của tỉnh Kiên
giang. Đảo này có nguồn lợi về hải sản, cá cơm, cá mòi. Nước mấm Phú
quốc rất nổi tiếng. Trong lòng đất của đảo Phú quốc có mỏ đá đen Huyền
làm đồ trang sức rất đẹp. Rừng Phú quốc còn có gỗ Dênh, chịu được nước
mặn và hà, thích hợp cho việc đóng tàu bè di biển. Vì loại gỗ này mà
trong lúc chúng tôi đi tù cải tạo tại Phú quốc xảy ra một chuyện buồn
cười ra nước mắt như sau…
Ngừng một chập, như để mọi lại trong trí nhớ của mình, anh Quân tiếp tục
- Chúng tôi ở Phú quốc 7 tháng, lao động chiếu lệ…
Đất hẹp, người đông, vì ngòai chúng tôi còn có một sư đoàn quản giáo.
Đến tháng thứ năm thì có một tai biến xảy ra. Vào khỏang xế chiều, chúng
tôi đang ngồi trong lều học tập chính trị, chúng tôi nghe tiếng chửi
thề oang oang. Nhìn ra thấy hai anh bộ đội Cộng sản đang khiêng một ông
bạn Ngụy của ta trên cán cứu thương. Hai anh bộ đội vừa khiêng vừa chạy
cho nhanh không muốn cho ai nghe ông sĩ quan Ngụy ta chửi, vì anh ây
chửi độc địa lắm. Anh gọi Hồ Chí Minh là thằng Cộng sản, ác ôn, sát hại
đồng bào; Ngô Đình Diệm là thằng độc tài, anh ta còn chua thêm tiếng Tây
là Dépotiste absurd. Gọi Nixon-Kissinger là tội phạm chiến tranh ác ôn
nhất của loài người. Một anh sĩ quan cộng sản đi bên cạnh chiếc cáng cốt
giử anh sĩ quan Ngụy nằm im, đừng nhảy ra khỏi cáng. Anh sỉ quan Cộng
sản, giận dữ hỏi:
- Anh chửi lắm thế? Ai anh cũng chửi! Anh chửi Bác,
chửi Ngô Đình Diệm, chửi Nixon, chửi Kissinger, tại sao anh không chửi
bọn Thiệu, Kỳ, Khiêm?
- Bọn Thiệu, Kỳ, Khiêm, hả? Ông sĩ quan Ngụy vặn hỏi
lại. Bọn đó là bọn Việt gian, tay sai hạng bét của Nixon, không xứng
đáng được chửi.
Việc đó xảy ra chớp nhoáng không đầy 10 phút mà
sau đó thành đề tài cho chúng tôi âm thầm lo lắng cả tháng. Anh ấy chửi
Hồ Chí Minh đôc địa quá, sợ tánh mạng anh ấy không an toàn. Ngay chiều
tối hôm ấy, cán bộ quản giáo tập hợp anh em chúng tôi và cho hay là anh
ấy cùng 5 anh em khác đi lao động đốn gỗ dềnh theo yêu cầu của lãnh đạo.
Trong lúc hạ cây dềnh các anh sơ ý, bị cây dênh ngã đè, khiến một anh
gẫy kín xương đùi. Mặc dầu được bất động ngay khi cấp cưú, để cho nạn
nhân bớt đau, nhưng khi di chuyển nạn nhân đau ghê lắm, có người ngất
xĩu, hoặc la hoảng, chửi rủa.
Anh Hậu giải thích:
- Khi chuyện đó xảy ra tôi không hay biết gì hết vì lúc đó chúng tôi đi kiếm củi cùng các anh
em khác. Chiều tối về, tôi nghe cán bộ quản giáo nói
mới hay. Mãi về sau này tôi mới biết người bị gẫy kín xương đùi, đó là
thằng Chiến, Trung úy Cảnh Sát Đặc Biệt Sàigòn, Chợ lớn. Có thời nó về
làm việc với tôi trước 75. Nó là thuộc cấp cũ của tôi. Hồi ấy tôi cũng
lo tánh mạng của nó thật. Thằng đó chửi ẩu.
Không muốn dài dòng nói về chuyện trên, anh Hậu tự động kể tiếp:
- Ở Phú quốc 7 tháng họ chuyển chúng tôi về Long giao
(Đắc lộ). Chúng tôi ở Long giao 18 tháng. Ở Long giao chúng tôi làm
ruộng, phá rừng làm rẫy. Sau cùng họ chuyển chúng tôi về Gia rây, Long
khánh. Đến năm 1983 hai thằng chúng tôi được lệnh tha. Tại Gia rây, công
an quản giáo hắc ám hết chịu nổi.
Năm 1982, vào khoảng tháng năm, trời nóng, lúc
xế chiều, sau giờ lao động, anh em xuống lạch nước sông tắm rửa. Tôi mò
bắt được một ít vọp (sò) khá lớn. Tôi mãi mê bắt vọp, công an gọi tập
hợp tôi đến trễ. Thằng công an, tay cầm đòn gánh, nó bảo tôi có ý trốn
trại, nó dùng cây đòn gánh đánh tôi. Tôi tức quá tôi đánh lại nó. Thằng
công an nó kinh hải, ngạc nhiên tôi dám đánh lại nó. Hơn nữa tôi có võ,
trên cơ nó, tôi tước đoạt cây đòn gánh của nó tôi vụt thật xa, tôi đánh
nó bằng tay. Tôi đánh nó sưng mặt, bầm tím con mắt trái. Bọn công an
nhào vô 4, 5 thằng, đè tôi xuống, lột hết quần áo tôi, buộc tay buộc
chân khiêng tôi nhét vào connex. Tôi phản kháng, tôi chửi bọn nó là quân
thô bạo, thú vật, vô luân, và tôi bảo tụi nó: “Bắn tao chết đi. Tao
không muốn sống dưới sự áp bức của tụi mày nữa”. Bọn Công an không nói
gì hết. Bọn nó tiếp tục nhét tôi vào connex. Tụi nó bảo “nhốt truồng” cho đáng tội.
Tôi bị nhốt truồng 28 ngày trong connex. Không tắm
rửa. Ăn uống, đái, ỉa gì cũng trong connex. Connex làm bằng kim loại,
dùng để tải tiếp liệu vũ khí của Mỹ. Mỹ bỏ lại, được Việt cộng tận dụng
trong nhiều việc khác nhau. Cộng sản thích nhất nhất là dùng nó như là
xà lim (cellule) nhốt tù cải tạo trong trường hợp như tôi. Connex có
nhiều cỡ khác nhau. Cái connex nhốt tôi thuộc loại connex trung bình: có
bề cao vào khoảng 1 mét rưỡi, chiều ngang vào khỏang 2 mét và dài vào
khoảng 2 mét rưỡi. Phía dưới cách mặt đất vào khoảng 3 tất, họ đục 2 lỗ
lớn bằng bàn tay để đưa cơm nước vào và cũng để đổ phân và nước tiểu ra
ngoài. Phía trên họ đục một hàng lỗ nhỏ có đường kính bằng 1-2 cm. cho
thóang, tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi lầm. Chính nhờ hàng lỗ nhỏ ấy mà ban đêm
muỗi nó đánh hơi người nhào vô, đốt tôi nát người, thành sẹo, chai tím
đen, lỗ chỗ dày như bịnh sởi. Khi ngồi trong connex, tôi tự an ủi mình,
so với những ngày sống dưới hầm tàu trên đường ra Phú quốc hồi 75,
connex vẫn là thiên đường. Sống trong connex, ngày thì nóng hơn hỏa lò,
đêm thì lạnh. Mình mẫy bị muỗi cắn sần sù đen đúa trông không giống ai.
Đói khát, nhớp nhúa, sức khỏe hao gầy, nghĩ tới 28 ngày và đêm dài hơn
thề kỷ. Nhiều lúc xuống tinh thần, muốn đập đầu vào connex mà tự vận.
Nhưng nghĩ lại, mình chết ai nuôi vợ con mình. Với lại nếu mình đập đầu
vào connex mà chết tức là mình làm theo ý họ muốn, theo quỉ kế của họ.
Nên lại thôi.
Tôi có chuyện này muốn nói cho anh em nghe. Có
buổi xế chiều, trong connex, trời nóng thật nóng, mệt lã người, cứ tưởng
mình hết nhuệ khí. Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Tự nhiên tôi
thấy trong cơn mơ sản khoái lạ thường. Có cái gì châm chích ở dầu dương
vật. Tôi tĩnh dậy, thấy dương vật mình cương cứng lên và đang bắn tinh
một cách sản khoái cao tận nóc connex. Nhìn kỹ, lúc đó trên đầu dương
vật có một chú muỗi đỏ tươi, đang say mê hút máu. Tôi nhớ lại câu chuyện
của ông giáo Trần Văn Hương. Nghĩ mà thương ông cụ. Cũng giống mình,
ông đứng đầu danh sách nhóm Caravelle phán đối cụ Ngô độc tài, gia đình
trị, nên bị cụ Ngô bỏ tù. Ở trong tù, uất hận, cụ giáo Hương có viết câu
thơ tự thán lưu lại cho hậu thế: “ngồi tù gãi háng giái lăn tăn”…Không
ngờ trong hoàn cảnh bi thương cùng cực dưới sụ áp bức của chuyên chính
vô sản và một con muỗi hút máu mình như vậy, lại có thể làm cho tôi cao
hứng đến thế...
Nghe tới đây các anh em đều cười rộ lên. Có người hỏi:
- Sau đó đúng 28 ngày bọn nó có thả anh ra không?
- Đúng 28 ngày sau, họ thả tôi ra khỏi connex. Các
anh em mình, có cả anh Quân đến dìu tôi đi. Sau 28 ngày ngồi bó gối, đói
khát, tôi đi không vững, lạng quạng. Có nhiều anh em, không nhìn ra tôi
vì tôi ốm teo, da như da cóc, muỗi đốt sần sùi. Chính anh Quân và một
vài anh em khác tắm rửa, kì cọ và mặc quần áo cho tôi. Sau khi về trại
bồi dưỡng được một ngày, tôi phải ra hầu tòa xét xử vì tôi dám đánh cán
bộ quản giáo. Chủ tọa phiên tòa là ông phó trưởng trại. Dĩ nhiên là tôi
lỗi và phải biết ăn năn, hối cải và tự nguyện không bao giờ dám tái
phạm. Tội phạt: “nhốt trong xà lim connex 28 ngày” và tôi đã thi hành
bản án, cho về trại! Chủ tọa phiên tòa cũng không quên nhắc tôi: “hãy
tập trung lao động tốt thì cũng có ngày được lệnh tha”. Đúng vậy, sau
đó, giáp đúng một năm tôi được lệnh tha. Cũng như ai, giấy lệnh tha ghi
rõ:“ học tập cải tạo tốt”. Họ quên tội trạng “đánh cán bộ quản giáo”.
Về nhà, tôi bị bọn công an địa phương, phường khóm
quản chế cay nghiệt. Nhìn vợ con đói quá, nhưng không biết làm sao
được. Hai năm sau, vừa được “xã chế”, tôi liều, nhảy ra bán chợ
trời kiếm chát để nuôi vợ con. Tôi gặp mấy thằng đệ tử cũ của tôi, không phải đi tù cải tạo, ở nhà mánh mung làm ăn, tụi nó chỉ “đường-đi-nước-bước” cho tôi sống. Trong việc “bán chợ trời”
tôi mới tiếp xúc với “họ” với đồng bào, với con buôn. Tôi mới biết được
bộ mặt thật sự của mấy “Ông Cách Mạng”. Họ cũng ‘vật chất’, họ cũng ăn
cắp đồ trong cửa hàng quốc doanh, hợp tác xã ra đưa cho chúng tôi bán
chia lời. Những ‘tên này’, rất thực tế, không hề phân biệt Cách mạng và
Ngụy, tiền ‘đô’ thơm hơn ‘tiền Bác Hồ’! Nhiều lúc thấy mấy ‘ông Cách
mạng Bắc kỳ’ đứng trả giá một cô gái điếm Sàigòn giữa chợ trời mà tôi
tởm! Chẳng khác gì những thằng lính Tây thực dân, những thằng lính Mỹ đế
quốc, xâm lăng miền Nam Việt Nam thuở xa xưa…
Một hôm, vào khoảng sau 12 giờ trưa, tôi tìm đến
quán cóc, sau Tổng Ngân Khố Sàigòn cũ, kiếm tí gì lót long. Tôi kêu một
tô bún ốc ngồi nhâm nhi với đế, hút một điếu thuốc lá thơm Sàigòn, và tự
cảm thấy mình còn một tí phong lưu. Chợt, một tên, chân đi khập khiểng
đến kéo ghế ngồi chung bàn, đối diện với tôi, đầu đội mũ casquette, kéo
sụp xuống theo kiểu “Anh Ba Hà nội”. Nó cũng ăn bún ốc. Nghe nó húp xì
xà xì xụp theo kiểu nông dân mà phát giận. Tôi nép đầu sát mặt bàn cố
nhìn cho ra mặt nó vì tôi nghĩ nó là thằng cốm nào đang theo dõi tôi.
Đột nhiên, tôi nghe nó hỏi tôi:
- Anh Ba! Anh quên thằng em này rồi hả?
Tôi giật mình nhìn kỹ, tôi vụt la lớn:
- Mày! Thằng Chiến? Mày còn mạnh giỏi sao mày? Tụi nó thả mày sao? Mày về hồi nào?
Nó rất thản nhiên trả lời:
- Không ai thả ai hết. Tại hồi hôm anh ‘xĩn’ sớm quá, mới một xị mà anh quệnh quạng, cho nên anh em bảo thằng Út chở anh vế.
- Ừ, dạo này tao cũng già rồi. Yếu quá rồi…
- Tụi này ngồi lại tiếp tục, đến khuya mới tan hàng…
Lúc đó tôi nhìn chung quanh, tôi giật mình, chung
quanh chúng tôi có nhiều công an chìm. Sau đó nó cho tôi hay là nó được
lệnh tha thuộc diện sức khỏe, từ năm 1980!
Và anh Hậu kết luận:
- Cũng lạ, phải không các anh?
Anh Đạt châm chú nghe anh Hậu kể chuyện. Có lúc anh
cười thích thú. Có lúc anh nhăn mặt bất mãn. Anh Hầu vừa dứt câu chuyện,
anh Đạt đặt ngay vấn đề:
- Các anh có biết đi học tập cải tạo như các anh theo
diện Ngụy quân, Ngụy quyền, có qui chế hẳn hoi, sướng hơn anh em chúng
tôi nhiều. Đánh cán bộ quản giáo mà vẫn được lệnh tha! Chửi Hồ Chí Minh
mà vẫn sống nhăn răng! Các anh chưa qua các cửa ngục: Sở Công An đô
thành, Đề lao Gia định, Khám Lớn Chí hòa…các anh chưa thấm nhuần đạo lý
Cộng sản…
Hướng về các anh em, anh Đạt tiếp tục:
- Nếu các anh em đã một lần kinh qua khám lớn Chí Hòa
thì không bao giờ các anh có thể kể chuyện tội ác của thằng Cộng sản
với giọng khôi hài lãng mạn được. Ở khám lớn Chí Hòa có một lằn mức rõ
ràng: Thằng Tù và Cai ngục. Thằng tù ở đây đủ loại. Nói theo giáo sư
Vương Hổng Sển, nó là “Sàigòn-Tạp-pín-lù”: Đạo tặc, sát nhân, thường
phạm, hình sự, chính trị phạm, cũ có, mới có. Hình như, ‘Nội các của ông
Cẩn’ mới toanh cũng được ‘bợ’ vào đây hết, trừ những tên co giò chạy
thóat vào giờ thứ 25, với điều kiện Chú Sam chịu bốc. Thiên chúa cũng
như Phật giáo đều có “đại diện” ở đây. Sau biến cố ngày 1/4/76 vụ nổ tại
công trường Duy Tân, trước Viện Đại Học Sàigòn, các ông Văn nghệ sĩ,
nhà văn, nhà thơ, hàng hàng lớp lớp đi vào khám lớn Chí hòa. Văn nghệ
miền Nam có lắm thứ: Văn nghệ Biệt kích, Văn nghê Đặc công, Văn nghệ
Quốc gia. v.v…Các nhà Xuất bản, các nhà báo, các nhà trí thức Phật giáo,
Thiên chúa giáo, cũng tuần tự đi vào...Oái oăm thay, mấy đời Giám đốc
Khám lớn Chí hòa đều có mặt. Nghiệp báo vay trả, trả vay...
Vào một buổi sáng, đúng 11 trưa, chúng tôi được
điều động ra cái sân rộng của khám Chí hòa, có sân khấu được trang trí
cẩn thận và uy nghiêm. Cán bộ chấp pháp, trưởng trại của chúng tôi, xuất
hiện, đứng trên bục, nói lớn:
- Trong chốc lác, các anh sẽ nghe Đồng chí Chỉnh ủy
nói về đường lối và chính sách của Đảng, của Chính phủ Cách mạng đối với
các anh.
Một lác sau, tên Chỉnh ủy đến cùng một đoàn tùy
tùng: cần vụ, trợ lý, bảo vệ…Hắn mặc đồ dạ, áo đại cán 4 túi. Trên ngực
đầy những huy chương. Hắn xuất hiện, đứng trên bục cao, mặt hắn đanh lại
lạnh như máu cá. Cái cầm của hắn kéo ngược lên, cái vành nón cối của
hắn, phía trước kéo chùi xuống chân mày. Hắn nhìn chúng tôi với đôi mắt
nheo lại chẳng khác nào một tên phát- xít Đức nhìn lũ Do thái trong các
trại tập trung.
Nó hất hàm, lớn giọng:
- Các anh là những binh lính Ngụy, những viên chức Ngụy, nghĩa là Ngụy quân và Ngụy quyền!
Lập lại hai chữ Ngụy quân và Ngụy quyền, mặt anh Đạt tái lại. Anh quát lớn:
- Ông là Ngụy! Ông là Ngụy! Biết rồi, khổ lắm....
Đoạn anh cười chua chát, anh tiếp tục:
- Rồi…nó bảo: “nào các anh đưa tay phải lên! Đưa cao
lên! Cao lên nữa...Các anh tự xóa tóc mình bằng tay phải...Các anh có
thấy gì không? Nhất định là có...Phải không? Cái đầu của các anh! Sở dĩ
cái đầu của các anh còn đó là nhờ sự khoan hồng của Đảng, và của Nhà
Nước Cách mạng…Tội của các anh đúng ra phải chém đầu…”
Trong phòng họp vang lên tiếng ‘ồ’! Có người nói lớn:
- Nó “chơi cha” thiệt!
Anh Đạt, mặt anh căng ra, châm bẩm nhìn vào mặt mọi người ngồi đối diện anh, anh quát lớn:
- Tao mà biết trước đến nước này thi tao không đã tha
tụi mày đâu. Nếu toàn thể Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, quyết tâm mỗi
viên đạn là một thằng Việt Cộng, đụng trận là cứ nhắm thẳng vào đầu tụi
mày mà bắn, thì chính mày cũng đi “Đức” từ lâu rồi. Bọn mày một lũ ăn
cháo đái bát. Biết bao nhiêu “Bà Mẹ Miền Nam” trải thân ôm bọn mày vào
lòng, nuôi dưỡng, đùm bộc, che chở. Bọn mày lợi dụng lòng yêu nước của
họ mà hưởng thụ, sanh con, đẻ cái. Bây giờ bọn mày gọi họ là Ngụy: Mẹ
Ngụy! Vợ Ngụy! Anh vụt đứng dậy thộp cỗ Thiếu tá Dũng:
- Tao không khoan nhượng nữa đâu… Quân lạc hậu của loài người, giờ mà còn cai trị đất nước bằng Chuyên Chính Vô Sản.
Hai anh ngồi bên cạnh liền kéo anh Đạt ngồi xuống.
Anh Đạt tay bưng mặt khóc. Thiếu tá Dũng cũng nước mắt, đưa hai bàn tay
nắm chặt bàn tay anh Đạt...
Ngòai trời, Chicago vắng lặng. Một vài mảng tuyết
còn đọng lại trên nóc phố, như dấu hiệu của mùa Đông sắp tàn. Có ai nói
ở cuối nhóm nói lớn:
- Đâu có phải đến đó là hết. Tên chỉnh ủy còn bảo:
Khi các anh làm tờ tự thú, các anh nhớ kê khai lý lịch, các anh đừng
khai man. Các anh phải thật thà, thành khẩn. Tôi cho các anh biết cách
mạng và đảng có cái nhìn thấu suốt tam đại, tứ đại của các anh. Các anh
có biết những chỉ thị cơ mật của Thiệu, đều lọt vào tay của Nguyễn văn
Ngạn?..Sau đó nó lại hỏi: Các anh có biết Nguyễn Văn Ngạn là ai
không?..Nó cũng tự trả lời: Nguyễn Văn Ngạn là cố vấn thân cận của
Nguyễn Văn Thiệu…
Nghe anh Đạt kể, Trung Tá Đồng không nén được sư bực tức, anh nói trong giọng giận dữ:
- Thằng Chỉnh Ủy nói dốc, nói dối, nó nói lấy được!
Lúc đó tôi cũng tin nó thật. Vì có một thời Nguyễn Văn Ngạn làm cố vấn
cho ‘Xừ’ Thiệu. Nhưng sau đó chính Mỹ tố cáo Ngạn là Cộng sản nằm vùng.
Mẹ ai mà hiểu nổi mấy thằng Mỹ. Thiệu phải sa thải Ngạn, cho nó đi tù ở
Chí Hòa. Tháng Chạp năm ngoái, sau khi qua Mỹ được 11 tháng, tôi và Đạt,
gặp Đức, em thúc bá của Nguyễn văn Ngạn ở khu chợ Argyle, Chicago.
Chúng tôi cứ tưởng Ngạn, đang béo bổ tại Việt Nam cùng bọn Cộng sản.
Nhưng tên Đức cho biết là Ngạn “xổng chuồng” khám lớn Chí hòa vào ngày
28/4/75, sau đó được Mỹ ‘bốc’. Có lẽ vào thời điểm mà tên Chỉnh Ủy nói
về Nguyễn Văn Ngạn với chúng ta trong khám lớn Chí Hòa, lúc đó có thể là
Nguyễn Văn Ngạn đang rảo bước trên đường phố Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, hay
cũng như chúng ta, hắn cũng đang sống chui nhủi một gốc nào đó trên nước
Mỹ này. Ai mà biết được? Chính trị. Thiến tranh. Khốn nạn… Chúng ta là
một lũ nạn nhân bi thảm. Chúng ta đã oán trách cha anh của chúng ta đã
để lại cho chúng ta một quê hương nô lệ, nghèo đói, rách nát. Bây giờ,
đến chúng ta để lại cho nghìn sau mhững gì? Chúng ta không để lại được
gì cho con em chúng ta, ngay cả một quê hương rách nát. Chúng ta đã đánh
mất cả tổ quốc quê hương. Con em của chúng ta, theo cha mẹ lưu vong tại
hải ngợai là những đứa trẻ mất nước, mất niềm tin với tổ quốc, mất niềm
kiêu hảnh là dân tộc Việt Nam. Chúng ta chịu hòan toàn trách nhiệm về
sự mất mát to lớn đó. Làm sao chúng ta có thể cứu chữa tội lỗi ấy trước
cộng đồng Việt Nam, trước lịch sử dân tộc?
Trung tá Đống chán nản, đứng dậy sửa soạn ra về, vừa đẩy ghế vào anh vừa nói:
- Khi chúng ta ở trong trại tù đày lao cải của Cộng
sản, hay chúng ta đang lầm lủi sống ở đất nước người, chúng ta ít ra
cũng có một lấn tự hỏi: chúng ta là ai? Chúng ta là những người chân
chính yêu nước? Chúng ta bị phản bội? Chúng ta bị lừa gạt? Hay thực sự
chúng ta chỉ là những tên nô lệ? Chúng ta là nhưng tên lính đánh thuê
phi dân tộc? Hiện taị chúng ta sống ở đất nước người với những ràng buộc
nào? Với những lí do gì? Hởi những người Cộng sản Việt Nam, các anh
nhân danh ai? Các anh nhân danh những gì? Các anh tù đày lao cải hàng
triệu người yêu nứơc? Các anh vùi dập biết bao sanh linh. Sau hơn 20 năm
các anh vẫn chưa giác ngộ. Cả thế giới, cả nứơc, và chúng tôi đang chờ
đợi, các anh chưa có lời tự thú...
Trung tá Đống ngừng lại một chập, nhìn các anh em và nói:
- Hiện tại chúng ta sống trên nước Mỹ như là những
người tỵ nạn chính trị? Người Mỹ có nhìn chúng ta như vậy không? Hay
chúng ta chỉ là những con số, những con số nghèo đói như những con số
nghèo đói khác ở các quốc gia châu Phi, châu Mỹ La tinh? Hay chúng ta
chỉ là những công cụ, những công cụ quá date, ở vào thời kỳ phế thải,
đáng được thương hại, cần được cưú tế vì nhân đạo? Ngay cả tên Chỉnh ủy,
nó có bao giờ đặt những câu hỏi như vậy cho bản thân nó không? Nó chỉ
nói như con vẹt. Nó chỉ nói những gì Đảng Cộng sản cho phép và dạy cho
nó nói. Cũng như chúng ta, nó bị gọt dũa và bức bách không biết bao
nhiêu lần ở những khóa chỉnh huấn. Những huy chương hào nhoáng mang trên
ngực của tên Chỉnh ủy không có huy chương nào không xây trên điểm nhục…
Buổi họp kết thúc, anh em ra về. Trọng ngồi lại
trễ. Ngoài trời lạnh, đêm xuống thấp dần. Nhìn lên tường anh thấy tờ
lịch hôm nay đúng 30 tháng Tư. Anh man mác buồn. Anh đến cửa sổ nhìn
xuống đường, anh thấy em bé Da Đen lạnh, chạy đến ôm chân mẹ nó. Người
mẹ Da Đen nghèo khó, vén vội vạc áo chòang lên, em bé chui vào. Bà mẹ
phủ con ấm áp. Anh nhớ đến mẹ anh. Năm nay Bà 92 tuổi. Bà đang sống
những ngày khốn khó tại quê nhà, Phanrang. Anh yêu Bà vô hạn. Anh yêu
quê hương tổ quốc. Anh yêu thôn Hà Thanh, Xóm Động, nhỏ bé khô cằn nằm
bên đê sông Dinh, Phanrang, nơi chôn nhau cắt rún, có những đêm chiến
tranh, những ngày hòa bình, buổi sáng đầu thôn buổi chiều cuối bãi. Giờ
này mẹ anh đang thức giấc. Ngày vừa lên bên ấy, đêm đang xuống bên này,
Bà lại bắt đầu một ngày hiu quạnh, mong ngóng con về.../.
Đào Như
Oak park, Illinois, USA
May/97
No comments:
Post a Comment