Nguyễn Ngọc Chính
“Nơi nào người ta đốt sách thì họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.
…Việt Nam
vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng sách vở của người
xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì quân nhà Minh bên Tàu đã
ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những
ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn
hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến 1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến
miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời
kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với những
thay đổi qua các giai đoạn chính trị.
Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc kiểm
duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đã được
thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước
1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế
cho nên, việc đốt sách tại miền Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính
sách cũ năm 1954.
Hồi ký của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc: “Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi
tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú
tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’,
năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào
lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của
Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy
lùng… đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ
quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’
tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong
niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’,
và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn
là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo…
cảnh giác, lập trường”.
Tại miền
Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc đốt sách được
thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự bản thân
khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ 2 mục đích:
(1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ
và (2) về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình
thức tư bản’.
Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền mới khi miền Nam sụp
đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà
in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới,
Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều
bị niêm phong và cấm lưu hành.
1/Xuống đường Bài trừ Văn hóa Đồi trụy & Phản động trong thời điêu linh
Đội ngũ
những người cầm bút miền Nam phải nói là rất đông và bao gồm nhiều lãnh
vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái
Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết
Đông có Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc
Kham, Nghiêm Toản, Kim Định, Nhất Hạnh…
Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê
Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển,
Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng
Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn
Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm…
Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng,
Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca,
Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê…. Phê bình văn học
có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long
Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh…
Đông đảo nhất là văn chương với Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn
Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, Mặc Thu,
Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn
Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca,
Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình
Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y
Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy,
Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp,
Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng,
Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh…
Toàn bộ
sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả nêu trên (còn một số người
nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’ là tàn
dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi
trụy. Các cấp chính quyền từ phường, xã, quận, huyện, thành phố ra chỉ
thị tập trung tất cả các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến
sách giáo khoa để hỏa thiêu.
Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài
trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch “truy
quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động” tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ
sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên
đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh
doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp
lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên, những người có sách
bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong
hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn
biến trong vụ đốt sách năm 1975:
“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh
nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng
đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu
đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương
nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa,
những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo
tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.
Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu
“Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại
núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan mắt nhung,
Kinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc
đời của tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên
giàn hỏa.
Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong
mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn
chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt,
Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy.
Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua
các nhà tù và trại tập trung.
Vượt biển
sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác
phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà
Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền
hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư
Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc
gia’.
Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người
ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề
là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn,
truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như
Dưới dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng như Dzũng Dakao… Tất cả lần
lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.
Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:
“… Một số người như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng
với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù
địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động
của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của
cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn
nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.
Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ
những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu
hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới,
chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản…
Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện để
đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ.
Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng
Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường
thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương,
răng Cộng Sản không sao nhá được’…”
Trong vụ
án được mệnh danh là Những tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà
văn ra tòa tại Sài Gòn với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng
một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miền
Nam nhưng bất thành vì áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn
dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải
Thủy (từ chung thân đến 20 năm), Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý
(15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn
Hoạt (10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8 năm).
Tính ra
Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…)
ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm
của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều
kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy
đã già nhưng vẫn còn viết rất hăng ở Rừng Phong (Virginia).
Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường
sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lãnh vực báo
chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo
lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau
đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà…
Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó
là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động
báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển,
theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng
ngày.
Một
đặc điểm của văn học miền Nam là việc hình thành các nhóm văn học. Nhóm
Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan
Điểm (cũng là tên nhà
xuất bản do Mặc Đỗ điều hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí
thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm của họ, trong những ngày đầu chia cắt
đất nước sau hiệp định Genève, thường có những nhân vật mang nỗi hoang
mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản
trước ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?
Theo Trần Thanh
Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh
viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ,
Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư vào
Sài Gòn, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do Trần
Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân
của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giã
từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh,
Quách Thoại.
Trên tạp chí Sáng
Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên người ta còn thấy Nguyên Sa, Cung
Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn.
Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và tạm ngưng
ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/62).
Nhóm Bách Khoa ra
đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt
san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do
Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu.
Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao
hẳn cho Lê Ngộ Châu.
Bách Khoa quy tụ
được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút
nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ
Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm,
Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc…. Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực
thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000
bản.
2/Tạp chí Bách Khoa (1962)
Đắt khách
nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống
đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974
chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ được
nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương
Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên
Lộc… Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học
nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả nổi
tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những
phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.
Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số
thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân
Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.
Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận,
viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964.
Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người
sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên
và trí thức.
Về các
nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn
xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là
trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch
văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm
tạp chí trên đó họ góp mặt”.
Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời Mới, Nhân
Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình
Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy…).
Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn
Nghệ Mới, Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ
Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt
trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn
Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan,
Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay
Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn),
Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền
Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân
đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo
Trường…
Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi
Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La
mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm
Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản
bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như
Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên
Tin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh
Lãng làm chủ tịch.
Những tờ
như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường
chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng
Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời
đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy
Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng
Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang…
Về giới
cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là
những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh
trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú
tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng
đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng,
Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như
Vạn Hạnh, Minh Đức…”
Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963,
trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với
sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh
hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân
dịch… Do đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học
khác hẳn với lối nhìn của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới
trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ
Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn
của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương
tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.
Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành
phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy
Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam… đều sống bằng ngòi bút một
cách dư giả. Họ là những người viết chuyên
nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.
Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết được 100
quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung,
ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công
trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu
về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình
Nguyên Lộc, Mai Thảo… cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới
30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái
giá mà nhà văn phải trả.
Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh,
lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy
Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân
tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của
Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời
thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là
những tác giả đòi hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần chúng
bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long… Học sinh trường
Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh
trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.
3/Nhà văn Chu Tử qua Vũ Uyên Giang
Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của Nguyễn Q. Thắng xuất bản
sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi người được tác giả
gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà văn nhập
cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’,
Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh
(?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên ‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng
đế’, ‘nhà độc tài’ văn học’ (!?), Hồ Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…
Những nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thụy Vũ được khoác cho cái nhãn ‘nhà văn
nữ giầu tình dục’, Túy Hồng ‘nữ văn sĩ giầu tính nhục cảm’, Nguyễn Thị
Hoàng ‘nhà văn trẻ của tình lụy’, Thu Vân (?) ‘nhà văn dùng tính dục để
giải quyết vấn đề’…
Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước khi có chiến dịch
đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật,
từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác phẩm
đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc
đủ sáng suốt để lọc ra những gì với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu
nếu cần.
Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy những
người đạp xe xích lô đến buổi trưa, tìm chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác
chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam có truyền thống đọc sách
báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế
kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 miền Nam đã là vùng đất của tiểu thuyết và báo
chí trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có
học.
Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng giao thoa giữa hai
nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách Livre de
poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá sách nói chung
tương đối rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn
hóa, thương mại chỉ là phụ.
Người đọc có thể tìm loại sách IC (Information & Culture) dưới hình
thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài
Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng Pháp,
người ta có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển
của Platon, Homère hoặc các tác phẩm đương đại của Albert Camus,
Jean-Paul Sartre, Saint Exupéry, Francoise Sagan…
Quân đội
Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai trò áp đảo hay
không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với thế
lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng
ảnh hưởng Mỹ, và như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá
Mỹ, theo gót đoàn quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì
sâu đậm. Ở lối sống, ở những giai tầng thấp thì có thể gọi là có ảnh
hưởng một cách xô bồ, nhưng ở thượng tầng thì
chưa”.
Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United States
Public Affairs Office) và tạp chí Thế giới Tự do được phát hành miễn phí
cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn bằng phương tiện
tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.
Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng rất
ít người biết để đem về kệ sách riêng của mình. Đó là sách của Asia
Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch,
tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức
với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách nhau 3 tháng.
Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia Foundation. Sách của Asia
Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh vực, trên sách có
đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”. Nếu gặp may,
bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.
Tôi còn
giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại
những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad của
Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes, Hamlet
của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal,
Faust của Von Goethe, The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus
(Thésée) của Andre Gide, Remembrance of Things Past của Marcel Proust,
No Exit của Jean-Paul Sartre…
Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng
ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã
mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở
miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet.
Sau 1975, Từ điển văn học bộ mới cũng được phép in một số mục từ về
Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi
Giáng…
Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất sau đại họa 1975 và
chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại dưới hình
thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là
những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên
lạc bằng sách báo với quá khứ.
Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ý thơ của Vũ Đình Liên than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:
Năm nay đào lại nở
Không thấy sách báo xưa
Ngọn lửa nào năm cũ
Lạc về đâu bây giờ?
Nguyễn Ngọc Chính
(Hồi Ức Một Đời Người)