Phan Nhật Nam
April 24, 2019
Kính gởi tất cả
Người Việt còn sống hay đã chết (1975-2019)
Dẫn Nhập
Mỗi người, mỗi tập thể, mỗi dân tộc có một đời sống, lần chết với
định mệnh riêng. Dân tộc Việt cảm nhận, thấy ra sự huyền nhiệm kia qua
con Số Ba: Lễ thờ cúng với phẩm vật Tam Sanh; nhà Ba Gian; Ba Miền Bắc,
Trung, Nam; Cờ Quẻ Ly; Cờ Vàng Ba Sọc…
Người Việt thấu hiểu cốt lõi cấu trúc siêu hình, lẽ huyền vi kia qua
Nỗi Đau và Cơn Thống Khổ vô lường với thân phận của mỗi người trên quê
hương điêu linh qua những Tháng Ba của năm 1972, 1975. Người Việt hải
ngoại vừa qua Tháng Ba, đang ở Tháng Tư, 2019, những thời điểm khiến nhớ
lần vỡ trận Ban Mê Thuộc, 10 Tháng Ba, 1975, khởi đầu bi kịch nước mất
nhà tan năm mươi lăm ngày sau, 30 Tháng Tư, 1975.
Nay 44 năm sau 1975, thời gian đủ để nhìn lại sự việc của quá khứ từ đó nhận ra những tất yếu của lịch sử.
Những điều tất yếu mà dân tộc Việt buộc phải nhận lãnh từ phận nghiệp
điêu linh. Những thế hệ người Việt sinh nơi miền Nam, lớn lên sau 1975
phần đông trên đất Mỹ có thể ngạc nhiên với thắc mắc: Tại sao một miền
Nam có đủ tất cả những ưu thế so với với miền Bắc, cụ thể thuộc về phe
dân chủ-tự do được Mỹ và Tây Âu yểm trợ, giúp sức. Vậy thì từ đâu, vì
sao, VNCH chỉ một sớm một chiều sụp vỡ một cách nhanh chóng sau 55 ngày
do Bắc Việt Cộng Sản tấn công? Tại sao?
Một.
Tháng Ba mở đầu mùa Hè khốc liệt 1972; và Tháng Ba sau ký kết Hiệp
Định Tái Lập Hòa Bình 27 Tháng Giêng, 1973, mà hai tháng sau 27 Tháng
Ba, 1973, là hết thời hạn thi hành giai đoạn bốn bên, và miền Nam bắt
đầu nhận chịu số phận khốn đốn khi tỉnh Phước Long bị Cộng Sản lấn
chiếm, Tháng Mười Hai, 1974, cùng lúc viện trợ Mỹ bị cắt giảm toàn diện,
Hạm Đội 7 quay mũi về Trung Đông. Qua đầu Xuân Tháng Ba, 1975, thêm một
lần miền Nam phải giáp mặt với câu hỏi… Bao giờ Cộng Sản tấn công? Cộng
Sản sẽ tấn công ở đâu? Không ai ở Sài Gòn có câu trả lời chính xác.
Đầu năm 1975, phía Cộng Sản Bắc Việt đã nối được con đường từ Cao
Nguyên Trung Phần xuống đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi, lộ rõ ý định
cắt đôi miền Nam theo trục quốc lộ 19 nối Bình Định – Pleiku như đã thực
hiện trong chiến tranh 1946-1954. Và đây là tiền đề của cuộc Tổng Công
Kích 1975 mà Hà Nội đã quyết thực hiện bước cuối cùng để tiến chiếm miền
Nam?
Bây giờ thì ai cũng thấy ra như thế, nhưng lúc ấy, Dinh Độc Lập, Bộ
Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, cụ thể với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh
Quân Đoàn II ở Pleiku, lúc ấy không thể có quyết đoán cụ thể nào khi từ
năm 1972, phần cực Bắc của Cao Nguyên Trung Phần, cứ điểm Đắk-tô, quận
lỵ Tân Cảnh, dãy Căn Cứ 5, 6, các trại lực lượng đặc biệt đã thuộc về
vùng kiểm soát của binh đội miền Bắc.
Phi trường Long Xuyên. (Hình: Flickr manhhai) |
Đầu năm 1975, Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng Cộng Sản, Bộ Tổng Quân Ủy quân đội Bắc Việt chuẩn bị tấn công miền Nam sau khi rút kinh nghiệm thất bại từ Mậu Thân 1968, do đã quá phân tán lực lượng trên mục tiêu trải dài qua 40 tỉnh, thành phố miền Nam. Cụ thể trong Tổng Công Kích Xuân – Hè 1972, cuộc tấn công đã không hoàn tất mục tiêu chiến lược là đánh sụp toàn bộ hệ thống quân sự-chính trị-hành chánh của VNCH, để yểm trợ chính trị cho Hội Nghị Ba Lê đang ở thời điểm quyết định trước khi ký kết (27 Tháng Giêng, 1973). Quan trọng hơn hết, vào Tháng Ba, 1975, người Mỹ đã thực sự rút chân ra khỏi Việt Nam.
Cũng không phải đợi năm 1975 mà từ những năm 1972, và cũng chẳng phải là chuyên viên quân sự-chính trị chiến lược cao cấp, chỉ người có lưu tâm đến thời cuộc, chiến cuộc cũng có thể nhìn thấy tình hình quân sự nguy ngập của miền Nam.
Từ sau trận chiến mùa Hè 1972 một phần cực Bắc của Cao Nguyên Trung Phần, gồm cứ điểm Darkto, quận lỵ Tân Cảnh, dãy Căn Cứ 5, 6, các trại lực lượng đặc biệt đã thuộc về vùng kiểm soát của Cộng Sản miền Bắc. Có nghĩa Bắc quân đã nối được con đường từ Cao Nguyên Trung Phần xuống đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi, lộ rõ ý định cắt đôi miền Nam theo trục quốc lộ 19 Bình Định – Pleiku như một lần thực hiện trong chiến tranh 1946-1954.
Nhưng không chỉ có thế, năm 1975 Bộ Chính Trị, Bộ Tổng Quân Ủy Đảng Cộng Sản Việt Nam đã điều quân dưới Nghị Quyết chiến lược số 21 (Nghị quyết nầy được Trung Ương Cục Miền Nam phổ biến với bí số 12).
“Cuộc tấn công toàn diện ở miền Nam Việt Nam phải được thực hiện đồng loạt và tràn ngập, liên kết ba mũi, chủ động cả ba mặt trên khắp ba vùng…” Ba mũi là tấn công quân sự, tấn công chính trị, tấn công binh vận. Ba mặt, diện quân sự, diện chính trị, diện ngoại giao. Ba vùng gồm vùng Cộng Sản đã kiểm soát được; vùng tranh chấp (xôi đậu); và vùng Việt Nam Cộng Hòa.
Với chỉ đạo chiến lược nầy, Cộng Sản Bắc Việt lập kế hoạch tấn công lật đổ chế độ VNCH sau khi đã rút kinh nghiệm từ Mậu Thân 1968, và trận chiến Xuân-Hè 1972, để năm 1975 có đủ ưu thế vượt trội về quân sự cùng an toàn tuyệt đối về chính trị. Chúng ta cùng đi tiếp lần sụp vỡ miền Nam bắt đầu từ Tháng Ba, 1975.
Hai.
Mặt Trận B3 là bí danh quân sự phía Cộng Sản Bắc Việt chỉ Vùng Cao Nguyên Trung Phần của VNCH. Trong ngày 10 Tháng Ba, Sư Đoàn F10 dưới quyền chỉ huy của các tướng Bắc Việt Hoàng Minh Thảo,Vũ Lăng đồng loạt tấn công Ban Mê Thuộc.
Cuộc tấn công được tăng cường Sư Đoàn 320 là đơn vị cơ hữu đã có mặt từ trước nơi vùng B3 này, thêm Sư Đoàn 316 từ miền Bắc mới xâm nhập, và Sư Đoàn 341 tổng trừ bị. Sư Đoàn 316 rời miền Bắc vào Nam từ 1974 để chuẩn bị chiến trường cho Tướng Văn Tiến Dũng, nhân vật số 2 của quân đội miền Bắc. Tướng Dũng đã vào Nam từ ngày 5 Tháng Hai, 1975, bằng một chiếc máy bay Antonov 24 nhưng mãi đến Tháng Tư, CIA Mỹ mới khám phá ra. Lực lượng Cộng Sản đánh Ban Mê Thuộc gồm khoảng 25,000 người có pháo binh, chiến xa phối hợp yểm trợ.
Đối lại tại thị xã Ban Mê Thuộc, phía VNCH chỉ có khoảng 1,200 quân gồm lính hậu cứ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, lực lượng Địa Phương Quân Tiểu Khu Đắk-Lắc, và Liên Đoàn 22 Biệt Động Quân. Tức tỷ lệ 20 đánh 1. Thế nên từ 2 giờ sáng ngày 10 Tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công (mà Tướng Dũng ước tính mặt trận Ban Mê Thuộc sẽ chấm dứt sau một tuần) chỉ đến 5 giờ 30 chiều cùng ngày 10, thị xã Ban Mê Thuộc phần lớn đã bị quân Bắc Việt chiếm đóng, cho dù Biệt Động Quân, Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn tiếp tục chiến đấu.
Chiến đấu bảo vệ miền Nam. (Hình: Flickr manhhai)
|
Khi Cộng Sản quyết định tiến chiếm thị xã Ban Mê thuộc cực Nam của
vùng Cao Nguyên Trung Phần, nơi tương đối bình an của Vùng II, mục tiêu
không hề được tính đến trong suốt mười-lăm năm chiến tranh khởi đi từ
1960. Thế nên từ 2 giờ sáng ngày 10 Tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công (mà
Tướng Dũng ước tính mặt trận Ban Mê Thuộc sẽ chấm dứt sau một tuần) chỉ
đến 5 giờ 30 chiều cùng ngày 10, thị xã Ban Mê Thuộc phần lớn đã bị quân
Bắc Việt chiếm đóng, cho dù Biệt Động Quân, Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn tiếp
tục chiến đấu. Tướng Dũng cứ tưởng như là giấc mơ.
Tướng Dũng cũng không thể nào tin khi được báo cáo: Quân Đoàn II tháo
chạy! Bởi vì ông không biết trong cuộc họp ngày 14 Tháng Ba, 1975, ở
Cam Ranh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không nói rõ ràng về ý niệm
điều quân: “Nếu có thể thực hiện triệt thoái khỏi Pleiku, Kontum thì cũng có thể chiếm lại Ban Mê Thuộc?!”
Những người cầm đầu Cộng Sản ở Hà Nội cũng không nghe tới tính toán: “Ngày
trước với một tỷ rưỡi đồng đô la thì giữ được bốn vùng, bốn quân khu.
Nay với 700 triệu thì chỉ giữ được hai Quân Khu III và IV.” Họp
xong, ba ông tổng thống, thủ tướng, và tổng tham trưởng, ba tướng lãnh
quân đội trở lại Sài Gòn. Tướng Tư Lệnh Phạm Văn Phú bay về Nha Trang.
Để lại trách nhiệm chỉ huy toàn bộ cuộc di tản cho tướng lãnh được vinh
thăng cuối cùng của Quân Lực VNCH, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, quốc gia tên gọi “Việt Nam Cộng Hòa” bắt đầu “chết”
từ điểm tắt thở này. Đây là cuộc hành quân di tản toàn Vùng Cao Nguyên,
một Quân Khu II trên một đoạn đường 228 cây số mà 10 năm nay không
được sử dụng (trên bản đồ quân sự đoạn Hậu Bổn (Cheo Reo) đến Sơn Hòa
chỉ màu XANH, chỉ đoạn đường KHÔNG SỬ DỤNG ĐƯỢC).
Nguy hại hơn nữa, cuộc hành quân rút lui KHÔNG CÓ LỆNH HÀNH QUÂN điều
hành, thống nhất chỉ huy! Cũng bởi Tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng
Biệt Động Quân Quân Khu II, chỉ thực sự chỉ huy những đơn vị Biệt Động
Quân thuộc quyền của. Đêm 16 Tháng Ba, 1975, các đơn vị quân đội âm thầm
bất ngờ triệt thoái được êm xuôi. Nhưng đến sáng hôm sau, dân chúng hay
được, hoang mang, hốt hoảng vội vã ùa chạy theo đoàn quân với bất cứ
phương tiện di chuyển nào kể cả chạy bộ. Quân Cộng Sản bắt đầu đuổi
theo, nã pháo thẳng vào đoàn di tản.
Trời cao nguyên buổi tàn Xuân gây gây rét vào sáng, càng về trưa nắng
cao và nóng khô khan, đường bụi mù tung đỏ bám vào thành xe, nòng pháo,
khí cụ, tóc và da mặt ngưi, vạn tròng mắt đỏ rực. Những tròng mắt mệt
mỏi lo âu, tuyệt vọng. Phía sau lưng, thị xã Pleiku bốc lửa ngọn, khói
đen đặc ngật ngật bay lên cao hơn đỉnh núi Hàm Rồng. Lửa lóng lánh ánh
sáng kinh dị trong mắt những người lính Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân,
thành phần hậu vệ đoàn di tản.
Pleiku, thị trấn thủ phủ của miền Cao Nguyên, luôn trĩu lặng sương mù
nay oằn thân vật vã trong màu lửa địa ngục. Lửa từ đống kim loại, khí
giới, từ những kho quân nhu, quân cụ soi loang loáng chập chờn những
đường dốc hun hút lẫn khuất dưới tàng thông. Tất cả đồng nhóm lên màu đỏ
chói. Màu của máu. Đoàn di tản qua được một ngày bình an. Bình an sống
sót qua đói, khát, nhục nhằn và lo âu. Lính gục trên mũi súng, đàn bà,
con trẻ nằm rũ lên hành lý, thành xe, đất cát. Được sống, được ngủ là
hạnh phúc quá lớn hở tri? Còn biết kêu vào đâu? Với ai?
Bình an của ngày đầu tiên này không kéo dài được lâu, bởi phía Cộng
Sản trong ngày 16 đã tìm ra đáp số cho câu hỏi: Quân Đoàn II đang tính
gì sau chấn thương ngày 10 Tháng Ba tại điểm bất ngờ Ban Mê Thuộc? Qua
máy dò tìm làn sóng, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3, tổng quát hơn chiến dịch
tấn chiếm miền Nam, chiến dịch mang bí số 275, choáng người vì thắng lợi
quá mau chóng, quá lớn, Quân Đoàn II đang tháo chạy!
Dần dần họ khám phá vài phi cơ C47, C130 xuất phát từ phi trưng Cù
Hanh (Pleiku) đi Nha Trang không có lượt bay về. Viên chuẩn úy nằm vùng
trong Sư Đoàn 2 Không Quân, người đã điều chỉnh pháo binh chính xác từ
bao ngày qua, người quan sát các phi xuất di tản đã đến hồi lộ mặt không
ngần ngại – Anh ta báo cáo bằng bạch văn! Sự kiện đã trút gánh nặng âu
lo “phía cộng hòa có thể điều quân tái chiếm” ra khỏi đầu Văn Tiến Dũng.
Tướng Dũng mắng thẳng và đe dọa Kim Tuấn, viên tư lệnh Sư Đoàn 320:
“Nếu đồng chí để vuột mất đoàn di tản thì phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm.” Bởi, Kim Tuấn đã từng cam kết: “Một đơn vị cơ giới với chiến xa,
pháo binh nặng không thể nào đi qua đường 7B được…”
Quả thật, ông Nguyễn Văn Thiệu ít ra cũng lừa được một người cũng như
trong mười điều sai ông cũng có một điều đúng với câu nói: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói…”
Sư Đoàn 320 được lệnh băng rừng truy kích đoàn di tản và Sư Đoàn 968
trên đường bôn tập từ Lào về Pleiku cũng được lệnh đâm ngang từ ngã ba
Thanh An, chuyển hướng hành quân dài theo Tỉnh Lộ 7 về đồng bằng.
Sài Gòn năm 1968 tại Ngã Tư Lê Lợi-Công Lý, bên trái là nhà hàng Kim Sơn góc Lê Lợi-Nguyễn Trung Trực (Hình: Flickr manhhai) |
Văn Tiến Dũng thở phào nhẹ nhõm… Vậy là không có phản công tái chiếm như sau lần bỏ Khe Sanh (1968), chịu mất Quảng Trị 1972, lần bốn mươi thành phố miền Nam bị tấn công Tết Mậu Thân. Lần này quân Cộng Hòa, “bọn ngụy quân” đã bị bẻ gãy ngay xương sống. Ngày 16 Tháng Ba, một Chủ Nhật điêu linh tan nát dọc con đường đỏ sẫm đất núi và máu rây. Đoàn di tản bị chận ở phía Đông Củng Sơn, bị cắt rời ở quận Phú Túc, bị đuổi đập từ Tây quận lỵ Phú Bổn.
Xe tăng cán ngang lên GMC, xe GMC hất xe đò xuống vực thẳm,
cũng hất luôn những xe jeep của thành phần thuộc các đơn vị yểm trợ,
chuyên môn của quân đoàn, tiểu khu Pleiku, cán qua những chiếc xe Dodge4
của địa phương quân chất đầy người già, trẻ em tan nát. Chiếc vespa của
một gia đình chạy lông lốc, xiêu vẹo trên sưn đồi, đứa con, người vợ
rơi tơi tả, người chồng, người cha rơi cuối cùng với chiếc xe vỡ toang
trên mỏm đá!
Súng nổ…105, 155 pháo binh, XM72 của phía Cộng Hòa; 130 ly, 122 ly,
B40, B41 Cộng Sản tất cả cùng hòa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan
tác làm rung rinh sắc núi mờ đục ánh nắng. Mặt tri bị chìm khuất trong
khói xám. Có xác bà già ngồi dựa bờ đất lên bề đường, người khô quắp,
không vết thương. Dấu hiệu sự chết chỉ được nhận biết nơi ổ mắt, mũi,
miệng… Đám kiến rừng bò lúc nhúc quay quắt đánh hơi. Ba đứa trẻ mắt lạc
thần ngồi nhìn đoạn đường hỗn loạn không cảm giác. Bé trai nhỏ nhất gục
đầu trên gối chị ngủ lay lắt. Có tiếng bắn đi của sơn pháo thật gần.
Sư Đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di tản không sai trật một
viên đạn. Lính còn rõ phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa
mắt nhìn lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị
bùng vỡ phá toang. Xác người tung lên theo đất bay bay. Cái chết không
đơn giản, mau chóng bởi súng đạn. Chết còn bị nhận chìm từ từ trong lòng
chiến xa khi chiếc xe tăng chúc đầu xuống đầu cầu nổi bắc qua sông Ba.
Chiếc cầu bắc vội mỏng manh không thể nào chứa nỗi sức nặng vạn con
người, vạn chiếc xe… Chiếc tăng M48 như khối đá ấn mạnh xuống lòng chén
nứt vỡ. Trong lòng xe có tiếng hét nghẹn, trên pháo tháp có đầu người
ngoi ngóp. Người đạp lên đầu, lưng, vai người để được thở, được sống
thêm vài giây ngắn. Chiếc xe chìm xuống im lặng, kéo theo, mang theo, đè
xuống rất nhiều thây xác. Xích sắt điên cuồng đào xoáy giòng sông máu
sẫm làm quẫy lên, tung tóe những tay, chân kẹp dính đâu dưới lườn xe.
Cuộc di tản lớn quá, quá lớn nên người ta không còn sức đâu nghĩ đến
lần rút lui của Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân và lực lượng địa phương
thuộc Tiểu Khu Bình Long trấn đóng tại An Lộc, cũng trong ngày 1 Tháng
Ba.
An Lộc, cách Sài Gòn một trăm cây số đường chim bay. Chiến tích lớn
của năm 1972, nơi Lữ Đoàn I Nhảy Dù, Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân, Sư Đoàn
5 Bộ Binh và Liên Đoàn 81 Biệt Kích đã đẩy lui những trận cường tập của
các trung đoàn thuộc ba công trường 5, 7, 9 (sư đoàn bộ binh thuộc
quyền chỉ huy của bộ tư lệnh lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam có
cán bộ người Bắc làm khung cơ ở) và trung đoàn thiết giáp T54 phối hợp
tăng cường, được ym trợ trực tiếp bởi pháo 130 ly hạng nặng.
Chiến tích An Lộc được mua bởi giá máu của ngàn con người ấy, bởi
niềm tin, ý chí chiến đấu của miền Nam được thể hiện nay chỉ là một tiền
đồn thụ động nằm trong tầm tác xạ của một dàn pháo cối đặt dầy xung
quanh. Tồi tệ hơn nữa, cửa ngõ phía Nam của An Lộc, khu đồn điền Xa Cam
bị quân Cộng Sản đóng chốt. Đường về Chơn Thành, phải qua tử huyệt này.
Và khi An Lộc với Liên Đoàn 32 Biệt Động, Chơn Thành với Liên Đoàn 31 bị
nhổ đi, bị xé lẻ ra Phan Rang, đến Tây Ninh, lui về tận Hố Nai thì từ
căn cứ Lai Khê với Bình Dương-Sài Gòn, đoạn đường quá ngắn chỉ cần một
ngày di chuyển với đôi chân. Nhưng bởi vết thương của Tỉnh Lộ 7 kéo dài
theo hơn hai trăm cây số đường núi. Vụ triệt thoái An Lộc, Chơn Thành
đành phải quên. Phải quên, dẫu cơn hấp hối từ, của trái tim sắp gần kề.
Sài Gòn – Lai Khê đâu khoảng ba-mươi cây số, nửa giờ xe hơi.
Cuối cùng, đoàn di tản về đến Tuy Hòa ngày 25 Tháng Ba do Tiểu Đoàn
58 Biệt Động dẫn đầu. Trăm ngàn dân theo lính chạy loạn từ Kon Tum,
Pleiku nay còn khoảng sáu chục ngàn người nơi trại tạm cư Đèo Rù Rì.
100,000 trừ đi 60,000 vậy đã chết bao nhiêu? Không ai có thể tính chính
xác được số dân thiệt mạng. Người chỉ biết và đau với trưng hợp từng
người thân, của mỗi gia đình, của chính thịt da mình.
Trên chiếc trực thăng từ phi trường Đông Tác (Tuy Hòa) về Nha Trang,
viên thiếu tá ngồi ôm đứa con nhỏ, gục đầu nín thinh khi đứa bé chợt
nhớ… Bà nội đâu hở ba? Trong đêm khuya nơi trại tạm cư Đèo Rù Rì, nghe
những lời than vãn rời rạc lẫn tiếng khóc nấc nghẹn ghìm ghìm. Bãi biển
Nha Trang từng khối người ngồi chập choạng dưới trăng khuya. Nha Trang
cũng mất vào tay quân Cộng Sản vài ngày sau, 30 Tháng Ba, 1975, dẫu đơn
vị chính quy Cộng Sản chưa kịp vào đến thành phố. Nếu kể thêm bi thảm
của Huế, Đà Nẵng ở phía Bắc thì đã mất một nửa quê hương miền Nam chưa
hết một Tháng Ba!
Ba.
Lần sụp vỡ Vùng II gây nên phản ứng dây chuyền vô cùng nguy hại đối
với Vùng I/VNCH với thành phố lớn thứ hai sau Sài Gòn, thành phố Đà
Nẵng, bản doanh Quân Đoàn I/Quân Khu I VNCH.
Đà Nẵng cũng là nơi Mỹ đổ quân, cũng một ngày Tháng Ba, 1965, nhằm mở
rộng chiến cuộc trên toàn miền Nam, khắp vùng Đông Dương. Quân Khu I
gồm Quảng Trị, Huế, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Tính, Quảng
Ngãi. Vùng đất lửa đối đầu với miền Bắc không khoan nhượng qua những
thời điểm đẫm máu Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Mới gần đây, còn nguyên dấu vết hung tàn ngọn lửa từ đầu hè 1972. Huế
quả thật đã nhiều phen nếm sâu sự chết. Nhưng Huế vẫn sống. Huế luôn
vượt sống.Thật ra Huế, Thừa Thiên vẫn sống được bởi sức nâng, nguồn bảo
vệ từ một người anh em khốn khổ, người anh em chung cấu tạo đặc thù mà
phải tinh tế lắm mới nhận ra âm sắc tiếng nói khác nhau qua con sông
không đầy một trăm thước, sông Mỹ Chánh ngăn ranh Quảng Trị-Thừa Thiên,
với hai thị xã đúng chiều dài bảy mươi cây số, Huế và Quảng Trị.
Vùng đất dựa núi và nằm cạnh biển với cửa Tùng, cửa Việt qua Thạch
Hãn, sông Bồ, Mỹ Chánh, Hương Giang… Hai nơi khốn khổ, tội nghiệp nầy đã
nâng nhau qua chiến tranh. Quảng Trị đã chịu phần thua thiệt đến đỗi
bàng hoàng. Thành phố đã trở nên đống gạch vỡ vụn sau cơn địa chấn
Xuân-Hè 1972. Tuy nhiên trong trận chiến Xuân-Hè 1972, Tướng Ngô Quang
Trưởng đã có đủ quân số gồm các Sư Đoàn 1, 2, 3 Bộ Binh và hai sư đoàn
tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến để trấn giữ vùng lãnh thổ
trách nhiệm đã phản công thành công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
Nhưng bây giờ, 1975 không phải là năm 1972 khốc liệt ấy nữa, người Mỹ
đã rút đi cùng bộ máy chỉ huy, tiếp vận tác chiến khổng lồ kể từ 27
Tháng Giêng, 1973, theo điều khoản ấn định bởi Hiệp Định Ba Lê. Và vấn
đề xử dụng lại không quân với B52 dội bom cường tập như đã thực hiện
suốt mùa Hè 1972 không thể nào tái lập với Tổng Thống Ford đã bị quốc
hội đảng Dân Chủ kiểm soát, khóa tay. Chính phủ Mỹ hoàn toàn tê liệt sau
vụ án chính trị Watergate.
Ngày 18 Tháng Ba, sau khi gặp Tướng Phú ở Nha Trang, ông thủ tướng
“khôn ngoan nhất” của miền Nam Trần Thiện Khiêm bay ra Đà Nẵng gặp tướng
Trưởng để truyền lại lịnh của tổng thống “Sẽ rút sư đoàn Dù; còn sư
đoàn Thủy Quân Lục Chiến sẽ trả lại cho Sài Gòn sau đó.” Tướng Trưởng
không có gì tăng cường. Không còn gì hết. Tướng Trưởng cố gắng lần cuối.
Ông bay về Sài Gòn ngày 19 Tháng Ba, họp cùng với các ông Thiệu, Khiêm,
Viên và cả phó Tổng Thống Hương. Ông cam đoan có thể giữ được Huế, Đà
Nẵng, nếu đừng lấy đi những lữ đoàn Dù, Thủy Quân Lục Chiến còn lại.
Ông Thiệu tỏ vẻ ngần ngại trước quyết định sẽ rút một phần nào về
Vùng I. Để cụ thể thêm cho ý niệm trên, ông chuẩn bị đọc một bài diễn
văn với ngôn từ mạnh mẽ tỏ rõ quyết tâm bảo vệ Huế. Nhưng khi Tướng
Trưởng vừa trở lại Đà Nẵng, ông nhận tin Huế đang bị đánh mạnh. Ông gọi
về Tướng Viên; ông Viên đẩy qua ông Thiệu. Tướng Trưởng đành phải nói
thật “…Tổng thống nên hoãn lại bài diễn văn… Huế không thể giữ được.”
Thật ra ông Thiệu hiểu rõ hơn ai hết khả năng cố thủ của Huế. Ông ta
muốn dành viên đạn ân huệ cho chính tự tay Tướng Trưởng.
Huế, Tháng Tư, 1968. (Hình: Flickr manhhai) |
Cùng ngày 18 Tháng Ba, phó Đại Sứ Lehmann gởi điện văn về Tòa Bạch Ốc, nhờ chuyển bản tường trình đến Đại Sứ Martin đang chữa bệnh ở Bắc Carolina. Lehmann báo tin về khả năng phía VNCH có thể bỏ Huế với dấu hiệu chiến xa, thiết vận xa đang rút về Nam và Thủy Quân Lục Chiến bỏ Quảng Trị. Ông đại sứ biết được – đã đến lúc chính ông, không ai khác, phải chịu mối “khổ nhục kế” của quốc gia ông nơi xa. Tóm lại, thế trận được đặt trên tuyến phương trình kỳ cục: “Người Mỹ không biết ông Thiệu đang tính toán những gì. Sài Gòn thì hoàn toàn mù tịt về những gì đang xảy ra ở Hà Nội.” Nên không biết được rằng Hà Nội đã chấp thuận đề nghị của Văn Tiến Dũng (sau thành công quá lớn ở mặt trận Tây Nguyên) – Đánh rộng ra toàn miền Nam, khai triển thuận lợi từ Ban Mê Thuộc và Pleiku
Từ Ban Mê Thuộc, Sư Đoàn F10 tiếp tục hành quân về đồng bằng theo quốc lộ số 21, Sư Đoàn 320 cắt miền Trung tại Tuy Hòa, đâm xuống Nha Trang. Nha Trang sẽ là điểm hẹn của hai sư đoàn này trước khi tiến về Nam, hướng Sài Gòn. Riêng tại vùng I, Tướng Trưởng bị tấn công một lúc từ cả hai hướng Bắc và Nam. Trên nguyên tắc, sau Tháng Mười, 1973, khi Hà Nội, cục R phát lệnh đánh trả và ông Thiệu ra chỉ thị “Tái tổ chức, phối trí” từ hạ tầng cơ sở hành chánh và quân đội… Lính nghĩa quân được đôn thành địa phương quân, lính địa phương tập trung lại thành tiểu đoàn chủ lực và các sư đoàn diện địa phải cơ động trong khu, vùng trách nhiệm.
Nhưng đấy chỉ là lý thuyết và hoàn toàn là lý thuyết. Người lính địa phương quân của Tiểu Khu Quảng Trị, Thừa Thiên không hề được chuẩn bị, trang bị để đương cự lại những sư đoàn chính quy Bắc Việt, thế nên khi Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, cùng với liên đoàn Biệt Động Quân vừa rút khỏi Quảng Trị, dân chúng ùa đi theo. Tỉnh trưởng Quảng Trị khuyên công chức cho gia đình di tản. Tất cả tràn về Huế, và Huế sau dấu ấn Mậu Thân 1968 và nỗi khiếp sợ từ 1972… Theo luồng cuồng nộ bi thảm này chạy về Nam, vượt đèo Hải Vân.
Ngày 25 Tháng Ba, sáu giờ, Tướng Trưởng ra lệnh bỏ Huế. Lính Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động, Sư Đoàn I đồng tập trung tại Vĩnh Lộc, nơi cửa biển Thuận An, Đông-Nam Huế. Đề đốc Chung Tấn Cang gởi một số vận tải hạm ra cửa Thuận An đón đoàn quân cùng đám dân chạy loạn. Nhưng muốn đến bờ biển, lên tàu lớn, đoàn người di tản phải qua phà Thuận An, và tại đây lại một lần tái lập cảnh tượng địa ngục nơi Sông Ba, Tuy Hòa mười ngày trước. Thật sự chỉ đúng một tuần. Điều đau đớn này xảy ra như một chuyện tất nhiên.
Trong tất cả các hình thái hành quân, rút lui là một loại chiến thuật khó khăn nhất, bởi lẽ tự nó vốn đã mang yếu tố thất bại, thua cuộc. Không thể có một giải đáp tốt cho vấn đề đã vốn xấu, thế nên không hề có được một cuộc rút lui thắng lợi. Nếu có được một cuộc rút lui tương đối thành công của quân sử thế giới thì đấy là lần di tản 350,000 lính đồng minh từ mõm Dunkerque qua Anh năm 1940. Nhưng Dunkerque là một cứ điểm phòng thủ với yếu tố thuận lợi do hệ thống sông, lạch chia cắt với đất liền và bin vây kín trước mặt. Cuộc triệt thoái với hơn nghìn tàu đủ loại của Anh và Pháp điều động, chỉ huy bởi những sĩ quan, tướng lĩnh kỳ tài của hai đạo quân có truyền thống và tổ chức cao. Hai quân đội kia còn có một thời hạn tương đối đủ (từ giữa Tháng Năm đến Tháng Tư Tháng Sáu, 1941) và một hậu phương nước Anh kiên định vững vàng.
Người lính miền Nam cũng vấp phải tình thế không thể nào xoay trở, trước mũi súng anh chỉ thấy nhấp nhô trùng điệp vạn đầu tóc rối chạy loạn... (Hình: Flickr manhhai) |
Tháng Ba, 1975, ở Đà Nẵng, Việt Nam, Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ có một vài giờ, một hai ngày và những lệnh, phản lệnh từ Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham Mưu. Những người lính, dân tại cù lao Vinh Lộc, tại cửa Thuận An lại càng khốn khổ hơn.
Bắt đầu là vô tổ chức, tiếp tới hỗn loạn và sau cùng là… bạo
loạn. Công binh không thể bắc phà qua sông, tàu lớn không vào sát bờ,
người di tản trong cơn khiếp đảm khi cái chết dâng đầy, tràn ngập phải
vùng vẫy tuyệt vọng từng giây phút ngắn tranh sống. Tiền sát viên pháo
binh Cộng Sản điều chỉnh mục tiêu không phí một quả đạn.
Đoàn người trần trụi trên dòng sông dưới đạn pháo. Sông là nhánh chảy
ra phá Tam Giang, dòng nước đã soi bóng lửa thu ở rất lâu. Từ năm 1946,
năm vỡ mặt trận Việt Minh chống Pháp. Năm nay, 1975, người Cộng Sản bắn
vào ai? Chống ai?
Cảnh bi thảm không phải chỉ bày ra nơi cù lao Vinh Lộc, cửa Thuận An.
Một trăm cây số đường từ Huế vào Đà Nẵng dày đặc xe và người chạy loạn.
Lúc đầu người ta sử dụng xe vận tải, xe du lịch, GMC… những xe động cơ
bốn bánh, hai bánh. Tất cả đều chất cứng đồ đạc và lăn từng thước, từng
chục thước đưng.
Quân Cộng Sản không hề chậm chạp, lập ngay những chốt chặn ở những
vùng núi đèo Phú Gia, Phước Tượng, ở Cầu Hai, Nong, Truồi… Bất cứ nơi
nào thuận lợi cho việc phục kích. Lính Sư Đoàn 1 Bộ Binh, đơn vị đã từng
giữ vững Bastogne, Checkmate… Đơn vị đã nhảy xuống Tchépone Hạ Lào,
những tiểu đoàn bộ binh hàng đầu của quân lực miền Nam, đại đội trinh
sát lừng lẫy Hắc Báo, tất cả đều bị đám thân nhân, gia đình binh sĩ cồng
kềnh rối rắm, tan nát, âu lo bó tay. Người lính nào chiến đấu được với
con trên lưng, vợ đang cơn nguy khốn?! Thế nhưng đoàn người vẫn phải lần
từng bước đường về Nam, hướng đèo Hải Vân. Và khi xe hơi bị tắc nghẽn
trong vũng lửa, chiếc honda đổ nhào xuống hố vực, người bế con lên tay,
đầu gục xuống cất từng bước...
Con tui hắn chết rồi! Tui biết làm chi bây chừ “en” ơi! (Hình: Flickr manhhai) |
Đèo Hải Vân đây rồi! Những người đã chạy từ Quảng Trị, Mỹ Chánh,
Phong Điền, An Lỗ chen chân lên đường đèo ngầy ngật khói đen dày. Vẫn
còn những đơn vị lính Cộng Hòa giữ vững tay súng, Tiểu Đoàn 8 Thủy Quân
Lục Chiến nhận bàn giao từ Lữ Đoàn I Nhảy Dù, trấn giữ đèo Hải Vân, ngăn
quân Cộng Sản ở mặt bắc Quảng Nam-Đà Nẵng. Nhưng một tiểu đoàn trong
chiến tranh buổi tàn cuộc có là bao?!
Năm 1944, quân đội đồng minh muốn giữ vững Bastogne giữa vòng vây Đức
phải có một đơn vị sư đoàn – Sư Đoàn 82 Nhảy Dù Mỹ do viên sĩ quan
ngoại hạng, Maxwell Taylor chỉ huy. Tiểu Đoàn 8 Thủy Quân Lục Chiến nay
đối diện với ba sư đoàn bộ binh nặng, một lực lượng gồm các trung đoàn,
tiểu đoàn Cộng Sản địa phương, một vùng đất dài từ chân đèo, xã Lăng Cô
cuối tỉnh Thừa Thiên ra đến sông Thạch Hãn, Quảng Trị, vùng đất bị lực
lượng Cộng Sản lấn chiếm từ Mùa Hè 1972.
Và xa hơn là Cửa Việt, Gio Linh, sông Bến Hải, vùng “giải phóng” đã
được thâu đoạt, củng cố từ 1972, 1973. Cuối cùng, xa hơn nữa, rộng hơn
nữa – một miền Bắc xã hội chủ nghĩa “hậu phương lớn” của “tiền tuyến lớn
miền Nam.” Nhưng hẳn chỉ ngừng lại ở đây, tăng cường, trợ lực cho Cộng
Sản Bắc Việt còn có nước Trung Hoa mênh mông, Liên Bang Xô Viết vĩ đại,
khối thành trì của phe xã hội chủ nghĩa đang luôn chờ đợi, luôn chực sẵn
cánh tay kéo dài xuống phương Nam – giấc mộng bền bỉ dài lâu của các
chủng tộc người Hoa, Mãn, Slave… Tiểu Đoàn 8 Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH
không thể nào đương được như một lý đương nhiên.
Người lính miền Nam cũng vấp phải tình thế không thể nào xoay trở,
bởi trên đường đèo, trước mũi súng anh chỉ thấy nhấp nhô trùng điệp vạn
đầu tóc rối chạy loạn, tràng âm thanh thấp thỏm bi thương… “En” lính
Cộng Hòa ơi! “En” lính Cộng Hòa ơi! Tiếng kêu một lần anh nghe được từ
Mậu Thân, từ Mùa Hè Đỏ Lửa 72. “En” ơi… Con tui hắn chết rồi! Tui biết
làm chi bây chừ “en” ơi! Người mẹ quê thất sắc, mắt lạc thần, giở vạt áo
dài, đứa con nhỏ say nắng, bầm tím, chết ngạt từ bao lâu. Người đàn bà
ngồi xuống lề đường trên đá núi, gục đầu vào xác thân nhỏ bé sâm sấp tử
khí gây gây. Chẳng phải người lính, đến Thượng Đế chắc cũng phải bật
khóc gào lên.
Đà Nẵng không chỉ bị ép từ phía Bắc, mà cả từ phía Nam, vùng đất
Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi đã bị cắt đứt ra từng mảnh nhỏ và người
dân từ những nơi này tràn về Đà Nẵng để tìm một chỗ xuôi Nam. Và địa
ngục tăng thêm cường độ nơi bến tàu, nơi chân cầu Trịnh Minh Thế, bến cá
chợ Hàn, căn cứ Hải Quân Tiên Sa. Người ta dùng lưới để móc những kiện
hàng quái dị…
Đám người tan tác rền rĩ khóc la khản đặc. Nhưng dẫu có bị móc đi
bằng lưới hoặc giành được một chỗ trên phi cơ (dân hoặc quân sự, kể cả
máy bay Mỹ), những người rời xa Đà Nẵng cũng còn thở được hơi dài… Đã
thoát khỏi chết. Đã thoát khỏi Việt Cộng. Thoát khỏi một thành phố tràn
ngập tiếng động từ những kho hàng bị cướp phá, người bị cướp, bị giết
kêu cứu… Đám tù quân phạm từ những trại quân lao tràn ra, trả thù những
năm tháng giam giữ với cách phát triển bản năng ác độc từ lâu ức chế với
cách thức thú vật hung tàn.
Máy bay cất cánh với chân, tay người thò ra nơi khoang chứa bánh đáp! (Hình: Flickr manhhai) |
Cơn hấp hối của Đà Nẵng không kéo dài. Ngày 27 Tháng Ba, pháo binh
Cộng Sản bắt đầu bắn thăm dò vào Đà Nẵng từ những vùng lân cận vừa lấn
chiếm. Bộ Tư Lệnh mặt trận Bình-Trị-Thiên phối hợp với mặt trận B2,
Quảng Nam-Đà Nẵng quyết định dùng Sư Đoàn 324 và 325C từ mạn Bắc chiếm
đèo Hải Vân đổ xuống; từ hướng Nam và Tây Nam hai Sư Đoàn 407 và 711
đánh lên.
Chiến trận được hai trung đoàn pháo và thiết giáp yểm trợ. Hỏa lực
của pháo binh Cộng Sản tập trung vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và căn cứ
Hải Quân Tiên Sa, các địa điểm thực hiện kế hoạch di tản. Nhưng thực tế
không còn kế hoạch nào nữa, bởi vì các điểm, căn cứ đã là những vị trí
hỏa tập.
Đặc công Cộng Sản trà trộn vào đám đông điều chỉnh từng quả đạn nổ
chính xác giữa những thân người chen chúc. Ngoài khơi Đà Nẵng một hạm
đội chực sẵn gồm tàu Việt Nam Cộng Hòa, Đại Hàn, Đài Loan, Úc, Anh, Phi
Luật Tân… Và lẽ tất nhiên có tàu hải quân và dân sự Mỹ. Nhưng bởi Mỹ là
nước “cam kết” tôn trọng thực hiện Hiệp Định Paris, nên Tổng Thống Ford
đã ra lệnh cho tàu Mỹ không được vào hải phận Việt Nam.
Do thái độ “nghiêm chỉnh” của Mỹ và đồng minh phe tự do, người tị nạn
phải đội con lên đầu, cõng mẹ sau lưng lần từng bước, dò đáy biển tiến
ra khơi! Thây người mắc vào gềnh đá trôi sâm sấp. Qua ngày 28, bãi biển
đã thành một nghĩa địa bồng bềnh xê dịch. Người sống sót rẽ thây chết đi
ra phía trùng dương mờ đục khói. Khói sóng và khói đạn pháo binh, hỏa
tiễn.
Nhiều trường hợp xác chết biến thành cái phao để người “chưa chết”
bám víu vẫy vùng, cố sống. Cố gắng sống thêm vài phút ngắn. Trong đám
người tan vỡ này có Tướng Ngô Quang Trưởng. Ông bơi ra một chiếc xuồng
rồi lên một tàu của Hải Quân Việt Nam do trợ lực của một sĩ quan Thủy
Quân Lục Chiến. Chiếc tàu đã biến dạng bởi binh sĩ đã ngồi tràn lên cả
cột cờ, ụ súng. Trông giống như tổ kiến khổng lồ trôi dạt trên sóng
biển. Tình cảnh trên những tàu dân sự ngoại quốc càng tồi tệ hơn. Gần
mười ngàn người chồng chất lên nhau trên một chiếc tàu chở hàng với vài
chục thủy thủ. Ngàn con người không nước uống, không thức ăn cào xé
nhau dưới hầm tàu nghẹn thở hoặc trên boong sắt bốc hơi nóng dưới mặt
trời đầu Hè của miền Trung.
Tàu Victoria chở người di tản ghé Cam Ranh. Người cha bế đứa con bước
xuống bãi cát trắng. Cát nóng sôi lúc nhúc những đầu người cuống quýt.
Không một tiếng động lớn, không ầm ĩ ồn ào, chỉ khẽ rít nhỏ rầm rì giữa
những cánh môi khô nẻ, trắng bọt xám… Nóng quá!! Khát quá!! Chiếc tàu họ
vừa rời khỏi đã là một nghĩa địa di động, nhưng khốn khổ hơn những lò
thiêu người Do Thái ở Auschwitz, Birkenau, bởi hơi nóng của vỏ, sàn tàu
dưới mặt trời không đủ nhiệt để đốt cháy da thịt người.
Trên sàn, dưới hầm lềnh kênh những thây chết chưa đúng nghĩa… Những
người ngộp thở vì bị đè, ép, dẫm lên. Người già và trẻ em chiếm phần
lớn. Những sinh vật vô tội và vô hại đối với bất cứ chế độ chính trị
nào, bất cứ lực lượng vũ trang nào. Các cuộc tấn công quân sự của lực
lượng Cộng Sản khởi đi từ Tháng Ba đã biến những xác chết này nên thành
chứng cớ của tội lỗi. Và họ phải chịu cơn hấp hối từ rất lâu trước khi
“được” chết để đền xong mối tội. Tội đã sinh và sống nơi vùng “tạm chiếm
của bọn ngụy quân, ngụy quyền” – Tội làm người nơi nước Việt, ở miền
Nam.
Nha Trang cùng lâm cơn hấp hối với Đà Nẵng. Người Nha Trang bị dồn
ép, bị đuổi siết bởi những người chạy loạn từ Pleiku, Phú Bổn xuống; từ
Tuy Hòa, Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi ùa vào… Tất cả lại chuẩn bị
lên xe, hướng phía Nam, Phan Thiết, Bình Tuy… Sài Gòn.
Sài Gòn, như kẻ phụ tình cay đắng cuối đi không thể rời bỏ. Và cảnh
cũ của Bến Cá, phi trường Đà Nẵng lập lại tầng tầng bi thảm nơi Cầu Đá,
phi cảng Nha Trang. Máy bay cất cánh với chân, tay người thò ra nơi
khoang chứa bánh đáp! Dọc đường Số 1 những chiếc trực thăng chở khẳm
chòng chành rơi vãi những thân người tan tác theo luồng gió và cánh quạt
động cơ đùa đi. Và biển Đông lại nhận thêm được những tặng phẩm khốn
cùng mới mẻ…
Những thây người vào ra sâm sấp theo triều sóng ngậm ngùi. Tượng
Thánh Mẫu Thiên Y từ đỉnh cao Tháp Bà đầu cầu xóm Bóng, Nha Trang một
đêm bất ngờ, vô cớ rơi xuống! Hàng triệu sâu bọ từ mạch đất sâu bật tung
bò ra lềnh đặt hơn cây số đưng từ Cam Ranh đi Phan Rang. Đoàn người
chạy loạn dẫm lên nghe nhầy nhầy, sừng sực như đạp phải thây chết. Chẳng
ai để ý.
Tất cả đã quen với cái chết. Con người đang chết. Sự chết toàn diện
của lần tận diệt. Mùa Chúa chịu nạn giải cứu thế gian diễn ra cùng lần
bức tử miền Trung. Khởi đầu buổi Đồng Tế tàn cuộc miền Nam. Bắt đầu từ
ngày 10 Tháng Ba ở Ban Mê Thuộc. Không cần đủ hết Tháng Ba.
Tình hình quân sự miền Nam hoàn toàn suy sụp, Mỹ quyết định chấm dứt sự dính líu đến VNCH! (Hình: Flickr manhhai) |
Tháng Ba, 1975, ở Mỹ có nhiều ý kiến về Việt Nam. Điển hình với
người công dân Milliard E. Crane ở Fonda, New York, trong lá thư gởi
ban biên tập báo Newsweek viết nên lời thống thiết: Tinh Thần 76 đâu
rồi? Hôm nay nước Mỹ đứng yên nhìn Cambodia, tiếp đến Việt Nam lần lượt
rơi vào nanh vuốt bọn xâm lược.
Và như quân bài domino dần tan rã, phải chăng lần tới sẽ là Thái Lan,
rồi đến Nam Hàn, Trung Hoa Dân Quốc với Đài Loan và tiếp tục nữa chăng?
Những dân tộc này đã và đang chiến đấu cho những lý tưởng quan yếu như
chúng ta hằng chống lại đế quốc Anh.
Chúng ta đốt pháo bông ăn mừng khi hỏa tiễn dày xéo tự do ở nơi bên
kia thế giới được chăng? Chúng ta nên cần một Patrick Henry nung nấu
dòng máu và một George Washington giữ thẳng xương sống chúng ta.
Nhưng hòa bình lại không do từ những con người trên, hòa bình đến bởi
Kissinger, người phải ngậm cục kê vào miệng – giải thưởng Nobel Hòa
Bình để không thể nói một lời gì khác ngoài việc phải hô hào bảo vệ cho
kỳ được nền “hòa bình trong danh dự” mà ông ta đã phải xoay trở mãi từ
1968 đến Tháng Giêng, 1973, mới ráp nối được.
Hòa bình đó đã tồn tại đến những hai năm, hai tháng cho dù đôi khi
lâm bệnh ngặt nghèo với vụ lấn chiếm Tống Lê Chân và Phước Long.
Nếu “Hòa Bình” phải cơn hấp hối như hôm nay (Tháng Ba, 1975) thì ắt
phải do… Nguyễn Văn Thiệu “một người tuyệt vọng đến độ phát hoảng” và dù
cho miền Nam có mệnh hệ nào thì “Việt Nam cũng không phải là tận cùng
thế giới” và đây cũng là lỗi của Quốc Hội – nơi đảng Dân Chủ kiểm soát
Hạ lẫn Thượng Viện, với Kennedy, Johnson đã đưa cuộc diện Việt Nam vào
bãi lầy nên phải cậy đến khôn ngoan rất mực của ông ta mới tìm ra lối
thoát. Mà việc này ông đã “hoàn tất một cách xuất sắc” với giải Nobel
Hòa Bình cao quý!
Tóm lại, chỉ còn đôi lời cam kết giữa hai tổng thống Nixon và Nguyễn
Văn Thiệu! Cũng không có gì khó, sẵn vụ năm anh Cuba đột nhập vào tòa
nhà Watergate của đảng Dân Chủ, lục túi thấy một đống đô la vừa tiền
mặt, vừa tín phiếu, và sỗ ghi các điện thoại. Truy tầm một hồi thì thấy
ngay xuất xứ của số tiền, các tín phiếu này (dù qua một hệ thống nhiều
ngân hàng của Mỹ và Mễ Tây Cơ) vốn từ quỹ vận động bầu cử Tổng Thống
Nixon! Chạy thế nào thoát.
Hai ký giả Bernstein và Woodward của báo Washington Post vớ phải ngay
một “ông nằm vùng, bí danh Deep Throat” từ đâu trong Bạch Cung. Ông này
hằng tuần hẹn hò trên trang 20 báo Post dò hỏi cách gặp gỡ. Và nếu
khẩn cấp thì gọi nhau, cho ám hiệu. Thế là, ông Nixon chửi thề như thế
nào, ông John Mitchell nói cái gì, cố vấn Haldeman thở than với vợ ra
làm sao… Tất cả đâu đó đã sẵn để hai ông nhà báo lựa chọn, ra tin.
Chỉ một Tháng Ba, 1975, miền Nam mất $700 triệu chiến cụ. (Hình: Flickr manhhai) |
Giằng co một hồi đến 8 Tháng Tám, 1974, thì Tổng Thống Nixon buộc
phải từ chức! Ai hứa với ai gì nào? Tổng thống kế nhiệm Gerald Ford khi
đến Palm Spring, California, chơi golf bị ký giả truy hỏi về tình hình
Việt Nam; vừa chạy vừa cười tươi. Chiến tranh Việt Nam đã là dĩ vãng!
Đến một lúc sau khi nói chuyện với doanh nhân, nhân viên chính quyền cao
cấp ở San Diego ông mới nói thật…
“Tình hình quả thật bi thảm và chúng ta cần một ý nghĩa mới về đoàn
kết quốc gia tại thời điểm đau buồn, hỗn loạn này…” Nhưng ông cũng không
quên yêu cầu Quốc Hội chuẩn y phần viện trợ khẩn cấp. Sự cố gắng của
tổng thống Hoa Kỳ được hiện thực. Quân cảng Vũng Tàu, Tân Cảng cầu xa lộ
Sài Gòn được tiếp nhận thêm một số quân trang, quân cụ, vũ khí mới…
Súng 105 đời Thế Chiến Thứ II, nón sắt, ống nhòm, và súng colt và xe
GMC. Chỉ một Tháng Ba, 1975, miền Nam mất $700 triệu chiến cụ đến nỗi
một viên chức Ngũ Giác Đài phải ngao ngán thốt lên: “Tốt hơn hết chúng
ta nên chuyển thẳng cho Hà Nội, như thế khỏi phải bị hư hao…”
Khi bị chất vấn về 58,000 quân nhân Mỹ tử trận ở Việt Nam, vị tổng
thống không do đấu tranh, bầu cử mà nên chức phận, đã ngậm ngùi than
vãn: “Chúng ta quả thực không thực tế một chút nào vì đã quá trịnh trọng
cam kết tại hội nghị khi đã chấm dứt tranh đấu ở Việt Nam.” Và nếu có
đôi chút thành thật họa chăng là lời thú nhận cay đắng của Phó Tổng
Thống Nelson Rockefeller… “Tôi e rằng một số người Việt đang dần chết…
Trong khi, chúng ta vẫn tiếp tục sống…” Nói như thế kể ra cũng đủ gọi là
thành tâm!
Trong ngày đầu Tháng Tư, 1975, cựu Bộ Trưởng Thông Tin Chiêu Hồi
Hoàng Đức Nhã lúc ấy giữ chức vụ cố vấn riêng của Tổng Thống Việt Nam
Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã có mặt tại Tân Gia Ba theo lời mời của Thủ
Tướng Lý Quang Diệu.
Thủ Tướng Lý mời Cố Vấn Nhã đến để trao gởi một nguồn tin quan trọng.
Ông vào thẳng vấn đề: “Đừng để mất thì giờ vô ích, tôi mời ông tới đây
bởi kết thúc ở Việt Nam sắp xảy ra, đang phải đến.” Thủ Tướng Diệu nói
rõ: Phó Tổng Thống Mỹ Rockefeller vừa hỏi ý kiến ông cũng như những vị
lãnh đạo Á Châu khác là: “Liệu chúng ta có cách gì để đưa ông Nguyễn Văn
Thiệu ra đi hay không.” Hóa ra chuyến viếng thăm không chính thức các
nước Đông Nam Á của Phó Tổng Thống Rockefeller nhân dịp viếng lễ tang
Thống Chế Tưởng Giới Thạch vừa qua tại Đài Loan vào ngày 5 Tháng Tư là
để thông báo một điều quan trọng: Đã đến lúc chính phủ Mỹ cần thay người
cầm quyền ở Nam Việt Nam.
Ông Hoàng Đức Nhã liền thông báo cho Tổng Thống Thiệu nguồn tin chẳng
mấy phấn khởi này, một phần ông cũng đã hiểu ra thực tế: Giới quân
nhân, những tư lệnh các quân khu qua tình hình chiến sự đã không còn tin
tưởng Tổng Thống Thiệu vốn là một tướng lãnh quân đội.
Cuộc rút bỏ Tây Nguyên vào ngày 15 Tháng Ba tiếp theo lần di tản Huế,
Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang… vào cuối Tháng Ba với chuỗi thảm cảnh
kinh hoàng của dân và lính vượt khỏi tất cả những dự kiến, làm tan vỡ
sức chiến đấu, phá hủy quân trang cụ, vũ khí của hai Quân Khu I và II đã
bày ra điều cùng cực phi lý và tàn nhẫn: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu,
tổng thống Việt Nam Cộng Hòa đã không kiểm soát đượcc tính hình chính
trị lẫn quân sự của miền Nam. Hơn thế nữa lời thông báo của Phó Tổng
Thống Rockefeller không là ý kiến riêng của người lãnh đạo ở Tòa Bạch Ốc
nhưng là phản ảnh thực tế về quyết định của chính giới Mỹ đối với tình
thế chung cho toàn vùng Đông Nam Á. Đấy là Mỹ rút ra khỏi vùng này theo
thỏa thuận với Trung Cộng từ thông cáo Thượng Hải ký năm 1972 giữa Châu
Ân Lai và Nixon. Tổng Thống Thiệu làm sao không biết thì ai biết tới kết
thúc này? Không biết chính xác lúc nào mà thôi!
Ngày 12 Tháng Tư, Nam Vang, Cambodia, thất thủ, tất cả bộ trưởng của
nội các Long Boret chỉ trừ một người thuận di tản theo đề nghị của Tòa
Đại Sứ Mỹ, tất cả đồng ở lại với đất nước và đã là những nạn nhân bị
hành quyết đầu tiên bởi cách hành hình man rợ của đám đao phủ Khmer Đỏ.
Chủ Tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm từ Hoa Thịnh Đốn trở về với tin sét đánh: “Không những không có $300 triệu quân viện bổ sung mà có thể không còn viện trợ quân sự nữa!” (Hình: Flickr manhhai) |
Điển hình là vị cố vấn chính trị Sirik Matak của Tổng Thống Lon Nol
đã có lá thư tuyệt mệnh gởi đến Đại Sứ Mỹ Dean John với lời lẽ khẳng
quyết bi tráng như sau: “Kính gởi ngài đại sứ và các bạn… Tôi chân thành
cảm ơn lá thư ngài chuyển tới với đề nghị giúp tôi phương tiện đi đến
vùng tự do. Nhưng hỡi ơi, tôi không thể bỏ đi một cách hèn hạ như thế
được. Xin ngài cứ ra đi, và tôi cầu chúc ngài cùng đất nước Hoa Kỳ có
được nhiều điều hạnh phúc dưới cõi trời này. Nếu tôi có phải chết thì
cũng chết trên đất nước mà tôi vô cùng yêu quý dẫu cho đấy là điều bất
hạnh, nhưng chúng ta ai chẳng sinh ra và một lần mất đi. Tôi chỉ phạm
một lỗi lầm là đã tin vào ngài và tin vào những người bạn Mỹ.”
Từ tình cảnh của Cambodia hiểu ra tình thế của miền Nam khi tình hình
quân sự hoàn toàn suy sụp, và Mỹ quyết định chấm dứt sự dính líu đến
VNCH!
Ngày 8 Tháng Tám, 1974, Tổng Thống Richard Nixon từ chức, Phó Tổng
Thống Ford lên kế vị, vốn là một chủ tịch Hạ Viện được kế vị do hiến
định nên khoán trắng vấn đề đối ngoại, an ninh quốc gia cho Cố Vấn kiêm
Ngoại Trưởng Henry A. Kissinger.
Số phận Việt Nam được quyết định với viện trợ kinh tế bị cắt khoảng
50% (theo đề nghị của Thượng Nghị Sĩ Kennedy), và viện trợ quân viện
được xác nhận ở số $625 triệu, có thể chỉ là $500 triệu (tức cắt đến
60%).
Tháng Mười Hai, 1974, tỉnh lỵ Phước Long bị mất, Tổng Thống Ford,
Ngoại Trưởng Kissinger đã không có hành động đáp ứng cụ thể nào như đã
hứa hẹn, cam kết. Tổng Thống Gerald Ford lại bị trói buộc toàn diện bởi
Nghị Quyết Sử Dụng Vũ Lực Chiến Tranh đã được Quốc Hội Mỹ phê chuẩn từ
Tháng Mười Một, 1973. Nghị quyết này hiện thực đạo luật cắt bỏ quỹ “Hoạt
Động Tác Chiến” vốn được dùng để yểm trợ cho chiến cuộc Đông Dương
trước Hiệp Định 1973.
Tổng Thống Ford cố làm yên lòng Tổng Thống Thiệu bằng cách cử một
phái đoàn do Thứ Trưởng Quốc Phòng Clements sang Sài Gòn; ông Thiệu chỉ
định Đại Sứ Trần Kim Phượng, Bộ Trưởng Vương Văn Bắc sang gặp Tổng Thống
Ford. Tổng thống Mỹ hứa cứu xét đến quân viện bổ sung $300 triệu để
phục hồi lại $1 tỷ như hoạch định. Cần nhắc lại những số liệu để so
sánh: 1/Giai đoạn 1966-1970: Mỹ tiêu $25 tỷ/năm bởi có 500,000 quân Mỹ
và đồng minh đang tham chiến. 2/1970-1971: $12 tỷ/năm vì đang rút quân.
3/Sau khi Mỹ rút hết quân thì: 31/Tài khóa 1973: $2.1tTỷ; Tài khóa 1974:
$1.4 tỷ; Tài khóa năm 1975: $700 triệu. Vậy nếu có được $300 triệu bổ
sung thì quân viện năm 1975 cũng chỉ được $1 tỷ.
Khi quân Cộng Sản miền Bắc khởi đầu tấn công Ban Mê Thuộc trong ngày
10 Tháng Ba; Chủ Tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm từ Hoa Thịnh Đốn trở về
với tin sét đánh: “Không những không có $300 triệu quân viện bổ sung mà
có thể không còn viện trợ quân sự nữa!”
Như thế, $300 triệu (dự trù bổ sung) vào ngày 13 Tháng Ba, 1975, đã
trở thành “Số Không” vì đảng Dân Chủ kiểm soát cả Hạ lẫn Thượng Viện đã
bỏ phiếu với đại đa số: Chống bất cứ viện trợ nào cho Việt Nam kèm theo
lời tàn nhẫn: “Viện trợ di tản thì cho, chứ một xu (viện trợ quân sự)
cho Thiệu thì không.”
Trong cùng lúc: “Từ 1974 qua 1975, miền Bắc đã đưa vào Nam một số
lượng quân trang cụ, vũ khí là 823,146 tấn – gấp 1.6” lần số lượng đã
vận chuyển của 14 năm qua (kể từ 1960, năm bắt đầu thành lập Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam, 19 Tháng Mười Hai, 1960).
Người lính VNCH ở chiến trường không biết những số liệu trên, họ chỉ
biết: Trước “Hiệp Định Ngưng Bắn Tái Lập Hòa Bình Tại Việt Nam, 27 Tháng
Giêng, 1973” trên chiến trường, trước khi xung phong vào mục tiêu họ
được phi, pháo yểm với số lượng không hạn chế nếu như đụng địch.
Nay năm 1974, 1975, một mục tiêu chỉ còn “Bốn (4) viên đạn 105 ly cho một lần đụng trận.”
Người lính cũng không biết thực tế: Nếu không có biến cố Tháng 30
tháng Tư thì cũng chỉ đến khoảng Tháng Sáu, 1975, đạn tồn kho sẽ hết, và
đến tháng 8 là hết sạch.
Báo cáo của Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận Trung Tướng Đồng Văn
Khuyên lên Đại Tướng Cao Văn Viên Họ cũng không biết trong Chiến Dịch Hồ
Chí Minh tấn công vào Sài Gòn cuối Tháng Tư: “Toàn thể quân đội miền
Bắc đang có mặt ở miền Nam! Lúc ấy chỉ cần một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ là có thể chiếm hết miền Bắc.” Người tuyên bố câu tán thán này
không ai lạ, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henri Kissinger!
Tướng Lê Minh Đảo và những người lính đang giữa trùng vây của lửa ở mặt trận Long Khánh. (Hình minh họa: Flickr manhhai) |
Tỉnh Long Khánh với thị xã Xuân Lộc trải rộng lên vùng rừng
miền Đông Nam Bộ, tả ngạn sông Đồng Nai, nằm trên ngã ba của quốc lộ 20
đi Đà Lạt và quốc lộ I, đường đi ra Hàm Tân, Phan Thiết.
Sau thành công đánh chiếm Cao Nguyên Trung Phần thuộc Vùng II, và
Vùng I Chiến Thuật do sự rút bỏ hỗn loạn của quân đội miền Nam trong
Tháng Ba; qua Tháng Tư Bộ Tổng Quân Ủy quân đội miền Bắc quyết tâm tiêu
diệt miền Nam bằng các áp dụng chiến thuật tập kích tấn công từ một điểm
xong mở rộng ra, tránh giao tranh nếu gặp kháng cự mạnh để tất cả đồng
nhất tiến về Sài Gòn.
Bí Thư Lê Đức Thọ người được giải Nobel Hòa Bình rời Hà Nội với quyết
định của Bộ Chính Trị: “Phải đoạt thắng lợi, chỉ trở về với chiến
thắng.” Vào đến miền Nam, Lê Đức Thọ với tư cách là chính ủy chiến dịch
Hồ Chí Minh cho phổ biến công điện 37/TK đến với tất cả lực lượng vũ
trang đang có mặt tại miền Nam bao gồm 15 sư đoàn quân chính quy Cộng
Sản Bắc Việt.
Tướng Lê Minh Đảo và những người lính đang giữa trùng vây của lửa ở
mặt trận Long Khánh. Tiếng gọi là một sư đoàn nhưng Tướng Đảo chưa hề có
đủ lực lượng thuộc quyền cơ hữu để điều động trong một cuộc hành quân
quy mô cấp sư đoàn.
Đầu Tháng Ba, 1975, Trung Đoàn 48 của Sư Đoàn 18 lại tăng phái cho Sư
Đoàn 25 để trách nhiệm mặt trận Tây Ninh, vùng Tây Sài Gòn. Thế nên khi
trận chiến Long Khánh bắt đầu vào ngày 9 Tháng Tư, thì Tướng Đảo trong
thực tế chỉ có Chiến Đoàn 43 do Đại Tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy.
Chiến Đoàn 43 có nhiệm vụ phòng thủ nội vi thị xã Xuân Lộc hợp cùng
các đơn vị của Tiểu Khu Long Khánh do Đại Tá Phúc làm chỉ huy trưởng.
Phần Chiến Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng gồm các đơn vị trinh sát,
thiết giáp, pháo binh trấn giữ dọc quốc lộ 20 nằm về phía Bắc-Tây Bắc
Long Khánh từ Kiệm Tân là cứ điểm chận đường từ Đà Lạt xuống đến Ngã Ba
Dầu Giây. Đây là giao điểm của hai quốc lộ I và 20, nút chận về Biên
Hòa, nơi đặt bản doanh của Quân Đoàn III, Sư Đoàn 3 Không Quân cách Sài
Gòn 30 cây số về hướng Bắc.
Trước khi trận chiến bùng nổ lớn, Thiếu Tướng Đảo khẩn thiết yêu cầu
Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn hoàn trả lại Trung
Đoàn 48 từ Tây Ninh về. Nhận lại được trung đoàn này, Tướng Đảo sử dụng
trấn giữ mặt đông của thị xã Xuân Lộc, đường đi vào quận Tánh Linh thuộc
tỉnh Bình Tuy.
Cũng nói thêm về một đơn vị tăng phái đặc biệt. Đấy là Tiểu Đoàn 82
Biệt Động Quân Biên Phòng của Thiếu Tá Vương Mộng Long. Nguyên Tiểu Đoàn
82 vốn thuộc Quân Khu II, khi mặt trận Ban Mê Thuộc bị vỡ, Thiếu Tá
Long vừa đánh vừa rút lui xuống đồng bằng.
Từ Ban Mê Thuộc, Thiếu Tá Long đưa đơn vị vượt Cao Nguyên Di Linh băng rừng đi bộ về Bảo Lộc, xong tiếp tục cắt rừng theo hướng Tây-Nam để về Long Khánh. Tướng Đảo đã dùng trực thăng bốc toán quân 200 người sống sót còn lại của đơn vị này về phòng thủ Long Khánh. Với quân số như kể trên, Sư Đoàn 18 Bộ Binh quả thật đã gánh một nhiệm vụ quá khổ dẫu trong thời bình yên chứ chưa nói về tình thế khẩn cấp của Tháng Tư, 1975.
Cần nhắc lại rằng trước 1972 để phòng thủ vùng Long Khánh-Biên Hòa đã
phải tăng cường một lữ đoàn thuộc lực lượng Hoàng Gia Úc-Tân Tây Lan,
Lữ Đoàn 11 Chiến Xa Hoa Kỳ cùng những đơn vị Bộ Binh, Nhảy Dù Mỹ. Ngoài
ra còn có Sư Đoàn Mãng Xà Vương Thái Lan tăng phái, trách nhiệm vùng
Long Thành, dọc quốc lộ 15, đường đi VũngTàu.
Tướng Lê Minh Đảo nắm quyền chỉ huy Sư Đoàn 18 từ sau trận chiến mùa
Hè 1972, và ông đã mau chóng tạo nên sự biến đổi thần kỳ cho đơn vị với
bản lãnh của một võ tướng là Sống-Chết cùng Binh Sĩ-Đơn Vị. Đối mặt binh
đội của Tướng Đảo là Quân Đoàn IV Cộng Sản BắcViệt do Trung Tướng Hoàng
Cầm chỉ huy. Sau trận mở màn chiếm đóng Phước Long cuối năm 1974 với
chứng tỏ phía Mỹ hoàn toàn im lặng. Cũng tương tự như phản ứng thụ động
của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ để mặc Hải Quân Trung Cộng chiếm đóng Hoàng Sa, tấn
công tiêu diệt Hạm Đội Việt Nam trong Tháng Giêng, 1974.
Để đánh Long Khánh, Tướng Hoàng Cầm được cả một bộ chính trị đảng
Cộng Sản Hà Nội trực tiếp chỉ đạo, yểm trợ, bao gồm: Văn Tiến Dũng, tổng
tham trưởng quân đội miền Bắc; Phạm Hùng, bí thư Trung Ương Cục Miền
Nam; Lê Đức Thọ, bí thư Trung Ương Đảng giữ nhiệm vụ chính ủy chiến
dịch. Tất cả đồng có mặt tại Lộc Ninh, nơi chỉ cách chiến trường Long
Khánh, Xuân Lộc hơn 100 cây số đường chim bay.
Ngoài ra sau này khi thắng lợi nghiên về phía quân Cộng Hòa, bộ tư
lệnh mặt trận Cộng Sản đã tăng cường thêm Sư Đoàn 325, đơn vị tổng trừ
bị quân đội miền Bắc, là lực lượng nỗ lực chính đánh chiếm Nha Trang,
Phan Rang và Trung Đoàn 95B biệt lập từ vùng châu thổ Sông Cửu Long kéo
lên tăng cường. Cuối cùng nâng tỷ số tác chiến lên thành 8 đánh 1.
Lúc 5 giờ 40 sáng 9 Tháng Tư, 1975, chiến dịch đánh chiếm Xuân Lộc
bắt đầu với một trận mưa pháo 2,000 quả đạn từ nhiều vị trí cùng đổ
xuống trung tâm thị xã Xuân Lộc như đã từng tàn sát An Lộc trong mùa Hè
1972. Đúng 6 giờ 40, tám xe tăng được lính Trung Đoàn 165, đơn vị tiền
phong của Sư Đoàn 7 Cộng Sản tùng thiết xông vào trung tâm thị xã Xuân
Lộc, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 18.
Lính Cộng Sản ngỡ rằng sau đợt pháo hung hãn, và đội hình ào ạt với
những chiếc T54, thế nào cũng sẽ tràn ngập mục tiêu dễ dàng như đã xẩy
ra ở Vùng I và II của Tháng Ba vừa qua. Nhưng hoàn toàn không phải là
như thế.
Những xe tăng này mắc kẹt giữa bãi mìn của một hệ thống tám lớp kẽm
gai và mìn bẫy mà Thiếu Tướng Đảo đã sẵn bố trí. Không chỉ thế, những
phi cơ A37 và F5 từ phi trường Biên Hòa được gọi đến chỉ sau ít phút cất
cánh, và trên đồng trống, giữa những khu rừng cao su đội hình của toán
quân Cộng Sản trở nên thành mục tiêu lộ liễu, trần trụi dưới hỏa lực phi
pháo của quân ta.
Mặt Đông của thị xã, dọc quốc lộ I, Trung Đoàn 209 cũng của Sư Đoàn 7
Cộng Sản số phận cũng không mấy khả quan hơn. Bởi đơn vị Cộng Sản gặp
phải Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long. Lính Biệt
Động quyết đánh địch để trả hận lần lui quân bi thảm của tháng trước từ
mặt trận Ban Mê Thuộc. Hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 209 bị chôn chân
trước tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động và Tiểu Đoàn 3 thuộc
Trung Đoàn 48 của Tướng Đảo.
Chiều tối 9 Tháng Tư, phía Cộng Sản lại dụng tâm gây căng thẳng bằng
cách pháo vào khu vực thị xã với khoảng 2,000 quả đạn trên khắp các vị
trí, kể cả khu vực dân chúng, nhà thương, nhà chùa, nhà thờ là những nơi
dân chúng chạy vào ẩn núp với hy vọng tội nghiệp là Cộng Sản sẽ nương
tay…
Khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo thấy thấp thoáng bức tượng Tiếc Thương tạc hình Người Lính Chờ Đợi in hình trong không gian mờ khói đạn. (Hình minh họa: Flickr manhhai) |
Đến 5 giờ 30 sáng ngày 11, đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Kết quả cũng tương tự như ngày 9, quân Cộng Hòa giữ chắc vị trí, có khác chăng thêm một số chiến xa bị bắn hạ trên tuyến phòng ngự và một số tù binh bị bắt. Tướng Đảo không quên ra lệnh xuất kho quân tiếp vụ để nuôi số tù binh mới mẻ này.
Những ngày thất bại này được Hoàng Cầm viết lại trong Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: “Trong ba ngày đầu tiên của chiến dịch, Sư Đoàn 7 bị tổn thất 300 chiến sĩ; Sư 341 thiệt hại 1,200 bộ đội… Tất cả pháo 85 và 57 ly đồng bị phá hủy.”
Cùng ngày Không Quân VNCH cũng góp thêm vào chiến thắng qua hủy diệt hơn 100 xe quân sự tăng viện cho mặt trận.
Ở Sài Gòn, không khí lạc quan bừng lên, Tổng Thống Thiệu thúc giục Tướng Toàn cố gắng giữ vững Xuân Lộc để có thế đảo ngược tình thế… Để “B52 có thể trở lại!” Tướng Toàn sử dụng Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi từ Trảng Bom cố mở đường tiếp cận với cánh quân Xuân Lộc, nhưng lực lượng thiết kỵ không thành công trong việc phá chốt ở Ấp Hưng Lộc, Biên Hòa.
Không thành công trong việc dùng chiến xa để giải tỏa áp lực Cộng Sản tại Xuân Lộc, Tướng Toàn sử dụng một thành phần hữu hiệu hơn. Đấy là Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm bốn tiểu đoàn 1, 2, 8 và 9 được Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù trực tiếp yểm trợ. Cuộc hành quân không vận lớn nhất của trận chiến thực hiện trong hai ngày 11, 12 đưa đơn vị tổng trừ bị cuối cùng của miền Nam vào trận.
Sự xuất hiện của lực lượng nhảy dù tại trận địa đặt nên vấn đề nghiêm trọng đối với bộ tư lệnh chiến dịch Cộng Sản. Chiều 11 Tháng Tư, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ và Trung Tướng Trần Văn Trà – bộ trưởng Quốc Phòng của tổ chức gọi là Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam – thay thế Tướng Hoàng Cầm duyệt soát lại kế hoạch tấn công theo chiều hướng mới.
Bộ Tư Lệnh Cộng Sản quyết định mở một mặt trận giả nhằm đánh lạc hướng quân đội Cộng Hòa bằng cách chuyển hướng tấn công theo đường đi vòng Xuân Lộc để thực sự tiến thẳng về Sài Gòn. Lực lượng Cộng Sản dần rút đi theo kế hoạch mới của họ nên Tướng Đảo lập tức ra lệnh cho các đơn vị chiếm lại những vị trí bị địch chiếm giữ, tiếp nhận thực phẩm, quân trang, đạn dược và tải thương.
Cũng quả thực ông không biết được sự thay đổi quan trọng về kế hoạch mới của Trung Ương Cục Miền Nam chỉ đạo từ Hà Nội. Nhưng ông làm được gì hơn với chức vụ tư lệnh một sư đoàn bộ binh trong giờ phút nguy nan nhất của cuộc chiến khi người Mỹ sắp xếp lại một trật tự mới trên toàn thế giới qua liên hệ với Trung Cộng bằng cách giải quyết hy sinh miền Nam.
Hai trái bom CBU 55 “Daisy Cutter” nặng 15,000 cân Anh rơi xuống từ lòng chiếc C130 phá toang một vùng rộng lớn trong phòng tuyến của quân Cộng Sản dọc quốc lộ 20 tăng cường thêm sự quyết tâm giữ vững Long Khánh của phía quân Cộng Hòa, nhưng cũng chính là màn khói vô tình giúp cho lần rút đi theo kế hoạch mới của phía Cộng Sản để lại 235 xác bộ đội đếm được trên trận địa.
Không một ai trong Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hòa, nơi Phòng Hành Quân Tổng Tham Mưu Sài Gòn ước tính được ý niệm hành quân của phía Cộng Sản là sẽ siết chặt Biên Hòa-Sài Gòn với hai gọng kềm theo hai hướng Bắc và Đông bằng cách cắt quốc lộ I ở Dầu Giây và quốc lộ 15 ở Long Thành.
Tòa Đại Sứ Mỹ phấn khởi trước chiến thắng Long Khánh cố nài Quốc Hội Mỹ chuẩn chi $722 triệu quân viện khẩn cấp cho Việt Nam. Nhưng trong phiên họp ngày 17 Tháng Tư, Ủy Ban Quân Sự Thượng Viện đã bác bỏ thẳng thừng qua câu nói bất cận nhân tình của hai Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits và Edmund Muskie: “Cho tiền để lo việc di tản thì bao nhiêu cũng được chứ một xu cho ngân sách quân sự cho Thiệu cũng không có.”
Cuối cùng, ngày 20 Tháng Tư, Tướng Toàn tư lệnh và Đại Tá Thọ, trưởng Phòng Hành Quân Quân Đoàn III, đích thân đến giao cho Tướng Đảo một lệnh mơ hồ như vô cùng kích động: “Lệnh của Tổng Thống Thiệu Sư Đoàn 18 rút bỏ Xuân Lộc về bảo vệ mặt trận Sài Gòn.”
Tướng Đảo chỉ có đúng nửa ngày để hoàn tất một kế hoạch rút quân bao gồm lực lượng một sư đoàn cơ hữu cùng các đơn vị tăng phái và yểm trợ, chưa kể thành phần diện địa của Tiểu Khu Long Khánh. Nhưng như một phép lạ, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã hoàn tất cuộc lui binh về Bà Rịa, bảo toàn đơn vị, vũ khí, thậm chí đến hai khẩu pháo 175 ly hạng nặng cũng giao lại đủ cho quân đoàn.
Cũng một phần, lực lượng giữ nhiệm vụ hậu vệ đoàn di tản là Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy. Trung Tá Đỉnh là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 Dù. Tiểu đoàn 6 là đơn vị đã giải tỏa An Lộc trong trận đánh ngày 8 Tháng Sáu, 1972, mà đơn vị Cộng Sản đóng chốt ở Xa Cam, Nam An Lộc chỉ còn đúng một người bị bắt làm làm tù binh tên gọi là Nguyễn Văn Tiền.
Một điều cần ghi thêm là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh Sư Đoàn, dù đã bất chấp lệnh của tổng tham mưu, nên đã gởi một đơn vị nhảy dù khác là Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Lô, đơn độc đưa quân đi ngược Tỉnh Lộ 2 từ Bà Rịa lên Long Khánh đón đoàn quân di tản. Tiểu Đoàn 7 Dù là đơn vị cuối cùng chận giặc nơi Cầu Xa Lộ, cửa ngõ chính của Sài Gòn ở hướng Bắc trong buổi sáng 30 Tháng Tư.
Khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, buông súng, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dừng quân trên xa lộ Biên Hòa, nhìn về hướng Trường Bộ Binh Thủ Đức, Long Thành, Bà Rịa, và xa kia là Xuân Lộc, Long Khánh, gần hơn Trung Liệt Đài của Nghĩa Trang Quân Đội Long Bình… Ông thấy thấp thoáng bức tượng Tiếc Thương tạc hình Người Lính Chờ Đợi in hình trong không gian mờ khói đạn…
Người lính cuối cuộc chợt thoáng nhớ những lời thơ ngắn: “Vì anh là lính áo rằn/ Ra đi nào biết mấy trăng mới về…” Những câu thơ của em ông, Cố Trung Tá Lê Hằng Minh, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến “Trâu Điên,” người lính đã ra đi từ một ngày Hè năm 1966 nơi chiến trường Thị Thiên, ở chân cầu Câu Nhi Phường.
Phường Câu Nhi, quận Phong Điền, Thừa Thiên là những nơi đâu? Rất nhiều Người Lính đã ra đi, không trở về từ những vùng đất không hề biết.
Hôm ấy, sáng 30 Tháng Tư, 1975, rất nhiều người lính không còn chốn trở về – Những Người Lính Mất Quê Hương.
Cali, 15 Tháng Tư,
Ngày mất Phan Rang, 1975,
Mùa Chúa Thương Xót 2019.
Phan Nhật Nam
No comments:
Post a Comment