Monday, April 29, 2024

NGÀY 28 THÁNG 2 NĂM, 1975 : CUỘC HỌP VIỆT MỸ CĂNG THẲNG NHẤT TRONG 20 NĂM CUỘC CHIẾN

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng


Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng thuật lại không khí căng thẳng tột độ tại cuộc họp giữa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phái đoàn Quốc hội Mỹ ở thời điểm cuối của Chiến tranh Việt Nam.
Mắt chớp chớp, gương mặt căng thẳng. Dường như ông đang cố gắng đè nén sự phẫn nộ để giữ bình tĩnh. Nhìn Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong buổi họp hôm ấy, chúng tôi cảm nhận được sự chua cay của người lãnh đạo Miền Nam Việt Nam, một nước nghèo, thật nghèo - vì chiến tranh kéo dài mà phải nhờ vả đồng minh.
Sự xót xa đã lên cao độ sau trận chiến Phước Long, vì cho tới biến cố này, đã có nhiều giao tranh trong hai năm 1973-1974 sau Hiệp định Paris, nhưng quân lực VNCH đã chiếm lại được tất cả những khu vực bị mất đi. Bây giờ - trong bối cảnh khả năng chiến đấu bị co cụm vì sắp hết phương tiện, một tỉnh đầu tiên bị mất, lại chỉ cách Sài Gòn có khoảng 100 cây số.
Như được ghi lại trong cuốn Bức Tử VNCH – Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm của chính tác giả (Nguyễn Tiến Hưng) xuất bản nay mai, chính quyền Gerald Ford cũng như tất cả các nước đã ‘công nhận’ Hiệp định Paris kể cả Liên Hiệp Quốc đều phớt lờ, không có phản ứng gì cụ thể.
Tòa Bạch Ốc tuyên bố lơ mơ: “đang theo dõi tình hình một cách chặt chẽ,” và gửi văn thư tới Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc, tố cáo Bắc Việt “vi phạm trắng trợn” hiệp định ngưng bắn. Chỉ có vậy.
Gói viện trợ 300 triệu USD
Ngày 24 và 25/1/1975, Tổng thống Thiệu gửi hai văn thư liên tục cho Tổng thống Ford nói tới tình trạng cạn kiệt đạn dược của quân đội VNCH vì – trong trận Phước Long - họ “phải đếm từng viên đạn trước sức mạnh hùng hậu của quân đội Bắc Việt để chiến đấu được lâu hơn.”
Ông Ford yêu cầu Quốc hội vãn hồi số tiền 300 triệu USD bị Quốc hội cắt.
Một phái đoàn gồm 6 dân biểu lưỡng đảng được phái tới Sài Gòn để ‘thẩm định’ việc hoàn lại số tiền này.
Đang lúc xính vính, cực kỳ nguy hiểm, Miền Nam lại gặp thêm một bất hạnh nữa: Đa số người trong phái đoàn lại là những người có cả một quá trình chống chiến tranh, chống viện trợ, chống Chính phủ Miền Nam. Họ thuộc cả Đảng Dân chủ lẫn Cộng hòa. Như vậy mà lại được phái đi để “thẩm định” xem có nên hay không nên cắt giảm viện trợ “quân sự”, cũng chẳng khác gì cử những người cả đời “ăn chay” đi thẩm định xem nên hay không nên cho mở thêm tiệm bán thịt!
Xin kể ba người (trên sáu) làm thí dụ, chẳng hạn như:
Ông Paul Mc Closkey, Đảng Cộng hòa, dân biểu California, là người đã chống đối mạnh mẽ ông Nixon khi ông này ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ hai vào năm 1972, chống Nixon trên căn bản một lập trường hoàn toàn chống chiến tranh VN. Nhưng Mc Closkey đã không thành công. Sau này, năm 2004, ông ủng hộ ông John Kerry thuộc Đảng Dân chủ, rồi trở thành Dân chủ luôn.
Bà Bella Savitzky Abzug, Đảng Dân chủ, dân biểu New York, có biệt danh là “Battling Bella” – “Bella hiếu chiến”. Nhưng bà chỉ ‘hiếu chiến’ cho những lý tưởng mà bà hằng ôm ấp như ‘nữ quyền’, ‘quyền người đồng giới tính’, ‘hòa bình’ theo kiểu ‘make love not war’ của cuối thập niên 1960, ‘chống quân dịch’ và đặc biệt là cực lực chống Chiến tranh Việt Nam.
Ông Donald Fraser, Đảng Dân chủ, dân biểu Minnesota, một người ‘lý tưởng’, luôn chủ trương phải cắt hết viện trợ cho những quốc gia không tôn trọng ‘nhân quyền’ trong khối các nước không theo cộng sản, bất kể nước đó có ở trong tình trạng chiến tranh hay không.
Phái đoàn được ‘hướng dẫn’ bởi Dân biểu John Flynt thuộc Đảng Dân chủ, một cựu quân nhân, tương đối có thiện cảm với VNCH. Nhưng ‘hướng dẫn’ hoàn toàn không có nghĩa là ‘trưởng phái đoàn’ vì các dân biểu đều ngang hàng với nhau trên vị thế, không ai hơn ai.
Khi biết được thành phần phái đoàn thì chuông báo động ở Sài Gòn đã rung lên. Mặc dù đang trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng, toàn thể bộ máy chính phủ, quân đội, cảnh sát đã mất rất nhiều thời giờ và công sức, họp hành liên tục để bàn tính xem nên ứng xử như thế nào, rồi chuẩn bị cho cuộc viếng thăm. Yêu cầu của phái đoàn là phải để cho họ được tự do muốn đi đâu thì đi, muốn gặp ai thì gặp. Đây là một cái thế tiến thoái lưỡng nan.
Nếu đáp ứng yêu cầu này thì thật là nguy hiểm vì phái đoàn, với những thành viên có quá trình như kể trên, sẽ chỉ biết “vạch lá tìm sâu”, sẽ lợi dụng cơ hội để chụp hình, ghi âm những cáo buộc họ đã được nghe về chính phủ, để chứng minh là lập trường trong quá khứ của họ là đúng. Nhưng đang ở vào thế kẹt, phía Việt Nam phải chấp nhận tất cả mọi yêu sách. Cả một chương trình linh động được sắp xếp. Và phái đoàn sẽ được tự do muốn làm gì thì làm, muốn gặp ai thì gặp, tuyên bố gì thì cứ việc tuyên bố. Kể cả được tự do đi “thanh tra” những “cấm địa” như cơ sở quân sự, khám Chí Hòa, “chuồng cọp Côn Sơn.”
Tổng thống Thiệu còn nghĩ tới cả khía cạnh con người của bà Bella Abzug và nói với Ngoại trưởng Vương Văn Bắc trong một buổi họp: “Này ông Bắc, ông trông 'séduisant' (có sức quyến rũ), ông nên săn sóc bà Abzug giùm tôi.”
Mọi người bật lên cười, bớt chút căng thẳng.
Cuộc họp căng thẳng
Vừa đáp xuống Tân Sơn Nhất, phái đoàn đã xé lẻ, mỗi người một ngả, đi gặp đủ mọi thành phần: chống chính phủ, phản chiến, nào bà Ngô Bá Thành, nào ông Huỳnh Tấn Mẫm, nào Cha Thanh, rồi vào khám Chí Hòa phỏng vấn “tù chính trị”...
Hầu hết các câu hỏi chỉ xoay quanh những vấn đề: tham nhũng, độc tài, lạm quyền của Chính phủ Thiệu, bằng chứng Miền Nam đã vi phạm Hiệp định đình chiến.
Phái đoàn không thiết tha gì tới những vi phạm Hiệp định đình chiến của Miền Bắc, thí dụ như vận chuyển quân đội, quân cụ, đạn dược vào Miền Nam. Dân biểu McCloskey còn cố ý tới Sài Gòn ngày 24/2, trước tất cả các thành viên khác, để yêu cầu được đi thăm các trại giam tù nhân chiến tranh.
Trong một bữa cơm chiêu đãi do Thủ tướng Trần Thiện Khiêm mời, bà Abzug công khai bày tỏ thái độ. Khi chủ nhân mời khách nâng ly rượu chúc mừng, bà ngồi yên, không động đậy gì cả.
Sau khi đi thăm viếng các nơi, phái đoàn trở về Sài Gòn họp với Tổng thống Thiệu ngày thứ Sáu 28/2 để đúc kết tình hình. Chúng tôi cùng tham dự để ghi chép và giúp ông về Anh ngữ những khi cần.
Vận động mãi để hoàn lại “con số 300 triệu đô la định mệnh”, Dinh Độc Lập hy vọng sau khi đúc kết tình hình và được hoàn toàn tự do trong các cuộc tiếp xúc, phái đoàn sẽ có ít nhất là một vài phát biểu có chút thiện cảm đối với Miền Nam, vì số tiền 300 triệu này là chỉ để đáp ứng nhu cầu cấp thời.
Như nước đổ lá khoai, mọi nỗ lực đều vô ích, diễn tiến buổi họp rất tiêu cực. Riêng chúng tôi, dù đã đoán trước là bầu không khí sẽ không được cởi mở, thân mật, nhưng không ngờ nó lại trở nên căng thẳng, hằn học đến thế.
Không thấy phái đoàn bình luận gì về nhu cầu viện trợ mà chỉ đặt những câu hỏi rất khiêu khích, cái khiêu khích của những người chỉ cố tìm những bằng cớ một chiều, để chứng minh là họ đã có một lập trường đúng trong quá khứ, không phải của những người đi tìm đâu là sự thật, chứ đừng nói tới việc tìm cách giúp một đồng minh đã cùng với Hoa Kỳ chiến đấu trong 20 năm:
– “Tại sao ông đã vi phạm Hiệp định Paris đang khi ông lại đặt điều kiện là Bắc Việt phải thi hành Hiệp định Paris?”
– “Ông đã đòi Bắc Việt rút quân như một điều kiện điều đình, ông vẫn còn muốn viện trợ quân sự?”
– “Ông muốn viện trợ kinh tế mãi sao? Chừng bao lâu nữa?”
Tôi ghi lại từng chữ một phát biểu khác:
“Chúng tôi nghĩ rằng viện trợ Hoa Kỳ sẽ tùy thuộc vào một số yếu tố, như việc thả tù binh chính trị, chống tham nhũng, việc thành lập một lực lượng thứ ba. Quý vị đã làm gì cho các vấn đề này? Chúng tôi rất quan tâm.”
Sau gần 50 năm rồi mà mỗi khi hồi tưởng tới cuộc họp này, bộ mặt căng thẳng của Tổng thống Thiệu vẫn còn hiện lên rõ ràng trong trí nhớ chúng tôi.
Bà Bella Abzug thì mặt đằng đằng sát khí. Bà dân biểu Millicent Fenwick (New Jersey) thì cứ tiếp tục phì phèo ống điếu ngay trong buổi họp và trước mặt một tổng thống.
Bữa tiệc cuối tại Dinh Độc Lập
Sáng hôm sau, Tổng thống Thiệu điện thoại cho chúng tôi thật sớm. Với một giọng đầy phẫn nộ, ông nói: “Mấy người phách lối này không có ngay đến cả một phép lịch sự tối thiểu đối với đồng minh. Anh soạn cho tôi mấy câu để tôi đọc trong bữa tiếp tân chiều nay.”
Để giúp tôi có một khái niệm, ông gọi tôi vào văn phòng và cho tôi xem một phần của hồ sơ Dinh Độc Lập. Đây là lần đầu tiên chúng tôi được đọc một số tài liệu quan trọng này.
Chiều ngày 1/3, Dinh Độc Lập mở tiệc khoản đãi các vị “quốc khách” (tại Phòng Khánh tiết) vì hôm sau phái đoàn lên đường ra về. Dù có tin đồn là một số khách sẽ tẩy chay không đến dự, nhưng rồi tất cả mọi người trong phái đoàn đều đã đến đúng giờ. Tại bàn tiệc, nhân viên nghi lễ lại sắp xếp cho bà Abzug ngồi đối diện ngay với chúng tôi. Ngồi xuống rồi, mấy phút sau bà ta mới mở cái mũ thật bự trên đầu ra. Đội cái mũ này, bất cứ ở nơi nào, là “thói quen” hay “cách tạo dáng” đặc biệt của bà.
Đã nghiên cứu trước về con người này, chúng tôi tìm đủ cách làm cho bà ta thoải mái và có thái độ hòa nhã hơn. Nào là nói về những chuyến đi thăm Brooklyn (vùng phụ cận New York) nơi sinh trưởng của bà, nào là về đường Mott Street ở Phố Tàu New York vì bà thích ăn cơm Tàu. Phòng Hành chính Dinh Độc Lập còn đặt những món ăn hấp dẫn từ nhà hàng Bát Đạt ở Chợ Lớn cho bà thưởng thức.
Nhưng chẳng ăn thua gì. Bà ta chỉ nhoẻn miệng cười, rồi ngồi yên, làm như không nghe tôi nói gì.
Sau vài ly rượu vang dường như để cho mạnh giọng lên, Tổng thống Thiệu đứng lên đọc bài diễn văn vào lúc sắp kết thúc:
“Trong hai mươi năm qua, nhân dân Miền Nam đã được nghe đi nghe lại lời nói của năm vị tổng thống Hoa Kỳ, thuộc cả lưỡng Đảng.
Những lời đó đã được các vị dân biểu nước Mỹ liên tục ủng hộ, là Hoa Kỳ quyết tâm cung cấp cho Việt Nam Cộng Hòa đầy đủ viện trợ chừng nào họ còn sẵn sàng chống lại sự xâm lăng của cộng sản để bảo vệ tự do của họ.
Lời cam kết đó đã được nhắc lại một lần nữa trong dịp ký kết Hiệp định Paris.
Vấn đề giản dị là như thế này: 'Liệu những lời cam kết ấy của Hoa Kỳ có còn giá trị nào không?' Đó là thông điệp tôi muốn quý vị chuyển tới Đại hội thứ 94 của Quốc hội Hoa Kỳ.”
Rồi dường như không kiềm chế nổi, ông đi ra ngoài bản văn đã soạn và nhấn mạnh từng chữ:
“Tôi xin phép được ngợi khen những người bạn đích thực của chúng tôi đang hiện diện ở đây về sự khôn ngoan và tầm nhìn xa của họ. Tôi xin phép được nhắc lại ở đây ý nghĩa của một câu ngạn ngữ Việt Nam: Quà tặng đã quan trọng, nhưng cách tặng quà còn quan trọng hơn nhiều."
Chắc bà Abzug chẳng nghe thấy câu này vì bà dường như đã ngủ say trên bàn tiệc, sau mấy ngày ngược xuôi đi tìm chứng cớ chống viện trợ. Bà gục đầu xuống, cái cằm mỡ chạm tới ngực. Mặt bà đờ đẫn, chẳng còn để ý tới người chủ tiệc đang đứng nói gì.
Không khí buổi tiệc thật căng thẳng. Bỗng một cơn gió mạnh thổi thốc qua lớp cửa kính lớn mở ngỏ. Những ngọn nến trên các chúc đài cao bằng bạc trên bàn tiệc theo nhau phụt tắt. Nến rớt vung vãi. Gió tiếp tục thổi. Lớp màn cửa mỏng màu trắng (sau màn vàng) tung bay lất phất, trông như những lá cờ đầu hàng.
“Một điềm gở đấy,” tôi ngoảnh mặt sang thì thầm với ông Philip Habib, Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ. Habib gật đầu như đồng ý.
Đó là quang cảnh bữa tiệc buổi chiều ngày 1/3/1975 tại Dinh Độc Lập. Tòa nhà này: từ khi Dinh Toàn quyền Đông Dương thời thuộc địa – gọi là Dinh Norodom - được Tổng thống Ngô Đình Diệm thu hồi và đổi thành Dinh Độc Lập thời Đệ nhất rồi tới Đệ nhị Cộng hòa, đã chứng kiến biết bao nhiêu biến cố, bao nhiêu buổi hội họp lịch sử, cùng với những buổi tiếp tân, những bữa tiệc chiêu đãi quan khách.
Dip khoản đãi Phái đoàn Quốc hội Mỹ chiều thứ Bảy, ngày 1/3/1975, là bữa tiệc chót ở khuôn viên lịch sử này.
Đây cũng là cử chỉ trang trọng cuối cùng của Miền Nam Việt Nam đối với một nước đồng minh sau 20 năm kết nghĩa xương máu.
Qua đặc vụ, chắc chắn Bộ chính trị ở Hà Nội đã theo dõi sát sao cuộc viếng thăm của phái đoàn Quốc hội từ đầu cho đến cuối để quyết định xem có nên khởi động ngay tức khắc cuộc tổng tấn công Miền Nam hay không.
Về tới Washington, phái đoàn đã không đạt được đồng thuận nên Quốc hội vẫn quyết định cắt thêm 300 triệu đô la viện trợ quân sự. Và đây là tín hiệu bật đèn xanh rõ ràng nhất cho Miền Bắc, sau khi các tín hiệu khác đã liên tục nhấp nháy từ khi Phước Long thất thủ.
‘Chiến dịch Tây Nguyên’
‘Tây Nguyên’ là miền đồi núi mà Miền Nam gọi là Cao nguyên Trung phần. Theo Đại tướng Văn Tiến Dũng ghi lại trong hồi ký Đại Thắng Mùa Xuân (1977) thì “Việc chọn lựa địa điểm nào để mở màn chiến dịch này lại là một để tài tranh luận tại Hội nghị (của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương).” Nhưng sau cùng đã “chọn chiến trường Tây Nguyên làm hướng chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công lớn và rộng khắp nơi năm 1975.”
Khi thái độ của phái đoàn Quốc hội Mỹ đã rõ rệt, Bắc Việt đợi cho họ rời khỏi Sài Gòn rồi mới bắt đầu khởi động. Hai ngày sau khi phái đoàn đã về tới Washington bình yên, sáng ngày 4/3/1975, quân đội Bắc Việt mới tiến quân để chốt lại Quốc lộ 19 giữa cao nguyên và vùng duyên hải.
Về địa thế thì trước đây người Pháp luôn quan niệm rằng: bên nào giữ được vùng cao nguyên thì giữ được vùng duyên hải Trung phần, và trong việc giữ cao nguyên thì bằng mọi giá phải giữ cho được Quốc lộ 19 giữa An Khê và đèo Mang Yang. Liên đoàn lưu động số 100 của Pháp (từng có kinh nghiệm ở chiến tranh Triều Tiên) đã bị tiêu diệt hoàn toàn ở nơi đây, rồi quân trú phòng ở Kontum cũng phải rút về Pleiku. Trong cuộc chiến 1965-1973, hoạt động của quân đội Bắc Việt cũng thường tập trung vào khu vực Kontum-Pleiku, nơi có những trận đẫm máu như Pleime, Ia Drang, Dakto.
Một tuần sau khi chốt Quốc lộ 19, ngày 10/3/1975, quân đội Bắc Việt khai hỏa ở Ban Mê Thuột vào lúc 2 giờ sáng.
Nơi đây, lực lượng của VNCH chỉ có khoảng 3.000 quân đồn trú, trong đó phần lớn lại là thành phần hậu cần của sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, nghĩa là không phải hoàn toàn là thành phần tác chiến. Dù vậy, khi bị tấn công ào ạt, quân trú phòng vẫn chống trả mạnh mẽ, và ban ngày với sự yểm trở của không quân, đã phản kích quyết liệt. Tuy nhiên, trước sức mạnh áp đảo – với hơn 3 sư đoàn bộ binh và thiết giáp cùng với pháo binh yểm trợ, quân đội Bắc Việt đã làm chủ được thị xã Ban Mê Thuột vào lúc 11 giờ sáng ngày 11/3/1975.
Xem như vậy, đối với VNCH, cuộc họp nảy lửa Việt-Mỹ tại Dinh Độc Lập ngày 28/2/1975 quả là một hồi chuông báo tử vì đã phát đi tín hiệu bật đèn xanh thật rõ ràng.

* Bài viết thể hiện quan điểm của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.

Friday, March 22, 2024

BỐN MƯƠI NĂM NGÀY NHẬP CUỘC

 

 Trần Ngọc Nguyên Vũ

Cho dù rằng có ai trong chúng ta đã đi trọn quãng đường trần, thì khi nhìn lại cả một đời mình, cuối cùng rồi cũng chỉ như là một thoáng mây bay… Nhưng với 40 năm ngược xuôi trong cuộc sống, chắc hẳn chúng ta cũng đã để lại cho nhau nhiều kỷ-niệm… Mà kỷ-niệm thì bao giờ cũng bắt đầu từ ở một khoảng thời gian nào đó, và trong một khoảng không-gian nào đó của con người, và trong cuộc đời của chúng ta thì có biết bao nhiêu là nơi chốn mà chúng ta đã dừng chân, nơi nào cũng trân qúy, nơi nào cũng đầy ắp những tình-cảm mến thương nói sao cho hết… 

Và cuộc sống của chúng ta, dầu muốn dầu không, thì nó cũng đã gắn liền với số-phận nổi trôi của đất nước, bồng-bềnh như những đám mây trời vô định, biết dừng lại nơi đâu để kể lể tâm-tình…Nhưng dù có dừng lại ở đâu đi chăng nữa, thì chúng ta cũng chẳng thể nào quên được một nơi mà hơn một lần trong đời chúng ta đã đến…

…Quang Trung, Thủ-Đức, Nha-Trang, Đà-Lạt đó! Cái mốc của nơi chốn và thời gian đã in dấu chân hồ hải của những người trai từ các nẻo đường đất nước tụ về…Kẻ trước người sau, quỳ gối dưới ánh nến lung-linh trong gian vũ-đình-trường cao rộng, giơ tay thốt lên một lời thề cho Tổ-Quốc, Danh-Dự và Trách- Nhiệm, và sau đó đã khoác lên mình bộ áo của những người được mang danh là Người Lính VNCH… Rồi chia tay nhau để bung tỏa ra khắp bốn phương trời, mỗi người gánh trên vai một định-mệnh riêng biệt của đời mình, cùng với định-mệnh khắc-nghiệt chung của dân-tộc… Bây giờ thì đã 40 năm trôi qua; dù rằng cái khoảng thời gian của một phần đời người đã mất có làm phai nhạt đi ít nhiều những mầu sắc trong cuộc sống, nhưng có ai trong chúng ta mà không nhớ đến cái giây phút của một lần cuối cùng gặp gỡ…

…Ðể coi nào… Cái lần cuối đó chúng ta đã gặp nhau ở đâu nhỉ? Có phải chúng ta đã gặp lại nhau trong một phi-vụ Bắc phạt trên vùng trời Vĩnh-Linh vần vũ, căng thẳng qua những đường bay sấm sét, để rồi sau đó lúc trở về, trong hợp đoàn xuôi Nam, anh đã bay lui lại thật xa… xa lắm… như để chiêu-niệm cho chiếc số hai vắng bóng… Hay là vào một buổi chiều nào nhạt nắng, ngồi trong chiếc quán lá cheo leo nơi ghềnh đá, trên bờ sông Cửu-Long. Bên này là Nakhon Phanom của Bắc Thái, bên kia là buôn Thakhet của vương quốc Lào, anh đã chia sẻ cùng tôi sự lo âu về những hiểm nguy, bất trắc có thể xẩy ra cho phi-vụ vượt biên trong đêm, bỏ lại một dòng sông nơi có những cô Nòong Sảo đang đùa nghịch, phơi bầy tấm thân trần trong làn nước lạnh…

Tôi cũng còn nhớ chúng ta đã gặp lại nhau tại Ðà-Nẵng với đỉnh Sơn-Chà quanh năm mây trắng phủ trong dịp Tết Mậu-Thân tang tóc thuở nào, để thấy anh hiên-ngang hiến dâng hơn nửa phần thân thể của mình cho đại-cuộc… Hay vào một đêm không trăng sao, trước khi rời tần số của Panama đài, anh đã chẳng kịp nói với tôi một lời giã biệt, âm thầm bỏ lại cả một bờ cát dài quằn-quại nằm nghe trùng dương gào thét… Hay một buổi trưa buồn hiu-hắt, trên sân bay Cam-ly với những đám mây chĩu nặng tâm tình của vùng núi đồi trầm lặng, mình đã cùng nhau khiêng chiếc quan-tài của người trai anh-dũng đã hy-sinh, vừa được thiên táng giữa vòm trời lửa đạn, để trả lại những kỷ-vật của anh về với vòng tay ấp ủ ngàn đời của mẹ Việt Nam yêu dấu… Hay là vào một buổi chiều âm-u sương, khói đạn của một Mùa Hè Ðỏ Lửa năm nào trên đỉnh ngọn Charlie dậy mùi tử-khí. Trong khi rời vùng, anh đã bình-thản nhận lệnh C&C, quay lại miền đất chết, leo xuống sợi giây thừng ngắn ngủi, từ chiếc trực-thăng lơ-lửng giữa trời, để thòng cánh tay rắn chắc cho tôi nắm lấy, rồi chúng ta cùng đong đưa trong làn mưa đạn của quân thù, trước cặp mắt ngơ-ngác của tử-thần…

Cũng có thể chúng ta đã gặp nhau dưới mái tôn nóng bỏng trong một hangar nào đó, ngổn ngang những đầu máy, những thân xác phi-cơ ghim đầy lỗ đạn ở Phù-Cát, Phan-Rang, hay PleiKu, Tân-Sơn-Nhất, Biên-Hòa, Bình- Thủy… anh đã đưa bàn tay đầy dầu mỡ, nắm lấy tay tôi trao đổi đôi lời tâm- sự… Rồi tới cái buổi quay lưng… Trước khi cất bước, tôi đã thấy anh quắc mắt thốt lên một lời thề cho ngày trở lại…

…Tất cả những hình ảnh nhạt-nhòa đó dường như còn đang lẩn-khuất đâu đây trong dòng thời gian cuồn cuộn chẩy… Anh Lính VNCH ơi, bây giờ anh đang ở đâu? Có phải anh đang cô-đơn xoải cánh giữa vùng trời mịt mù giông bão, hay đã dừng chân nơi chốn lạ, và đêm về anh có nghe thấy những ưu-tư khắc-khoải của cố-nhân… Còn tôi, tôi vẫn nhớ ngày hôm ấy, nhớ cả khung trời mây trắng bay… và chỉ mong được một lần gặp gỡ để cùng nhau làm nốt cái chuyện ngày xưa, mà vì nghịch-cảnh chúng ta đành dang-dở…

…Anh Lính VNCH ơi! 40 năm trời biền biệt… nổi trôi theo với dòng đời của một thời luân lạc… 40 năm trời miệt-mài đi trên con đường thiên lý có bao giờ anh dừng chân nơi một quán nước bên đường để được thấy, và nghe những biểu-tượng, và lời tự-tình dân-tộc. Những lời tình-tự thầm-lặng mà nghe như vang-dội cả một bầu trời… với tiếng vọng thiết-tha của những người đã từng thầm yêu và ngưỡng-mộ cái hào-khí của Người Lính VNCH:

Công Chúa Ngọc-Hân mơ Nguyễn-Huệ

Bởi say sự nghiệp khách anh hùng
Tôi ước sao người trai nước Việt

Sẽ là những bậc Nguyễn Quang-Trung (1)

…Tiếng vọng mênh-mông cơ hồ như sương khói, bàng-bạc ôm phủ lòng người Không-Quân viễn xứ… Ðến bao giờ thì chúng ta đáp lại khát vọng này của cố-nhân?

…Thôi thì… đêm nay chúng ta hãy thả hồn phiêu bạt, tạm dừng ở một nơi nào đó trên cái vùng đất mà ngày xưa chúng ta đã đến… Ðể có thể gặp lại những con người của một thời ly loạn, đã từng gắn bó đời mình với vùng trời quê-hương mịt mù khói lửa… Ðể chiêm-ngưỡng cái hào-khí của những người trai trẻ nhìn đời bằng những tia nhìn khinh bạc, lạnh lùng leo lên chiếc quan tài bay, lao mình vào vùng trời lửa đạn, bỏ lại một ngày cho đời mình, một ngày cho những quằn-quại đau thương của dân-tộc, và một ngày cho những đôi mắt vời vợi chờ trông nơi chốn chân mây ở tận cuối trời… Và đêm nay, hãy dừng lại ở một nơi nào đó thật yên lặng, cho lòng lắng xuống, để thấy xót-xa cho kiếp hồng-nhan của những người vợ, của những người tình, đã dắt dìu nhau qua suốt một quãng thời gian, dọc theo với chiều dài của dòng sinh-mệnh, chưa từng hưởng trọn được một ngày vui, nhưng vẫn một dạ sắt son, một lòng gắn bó cho đến phút cuối đời… Và xin hãy dừng lại một nơi nào đó để nghe những vần thơ cổ:

Hồn tử-sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh-phu trăng dõi dõi soi
Chinh-phu tử-sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn (2)

Những vần thơ u-uất như một luồng âm phong thổi luồn qua con đường độc đạo từ Phú-Bổn dẫn vào tử lộ 7… Thoát ra cổ thành Quảng-Trị, trườn mình trên đại-lộ kinh hoàng, quật ngược trở về Huế, Lăng-Cô, leo lên chót đỉnh của Ải-Vân Quan rồi cuồn cuộn đổ xuống Ðà-Nẵng, Pleiku, Kontum, lẩn khuất ngược nguồn theo với dòng Dabla huyền-hoặc… Quấn lấy Phù-Cát, Phan-Rang, Nha-Trang, Ban-Mê-Thuật… Phủ trùm lên Sài-Gòn, Biên-Hòa, Bình-Thủy, và trải dài đến tận Sóc-Trăng, Châu-Ðốc, Cà-Mâu, Phú-Quốc, để rồi biến mất vào với quãng trống vắng vô tận của vùng núi rừng trùng điệp… Một quãng trống không có khoảng cách của thời gian và không- gian… Nó cứ hun hút chìm sâu vào trong cùng thẳm tâm hồn của người còn lại, khi nhắc đến những người đã từng một thời được gọi là Anh Lính Chiến VNCH… Những người lính chiến đã hiên-ngang nằm xuống làm viên gạch lót đường cho đồng bạn các anh tiếp tục cất bước…Những người đã chẳng còn bao giờ nhìn thấy cái thành, cái bại thường tình của thế- nhân…

…Các Anh Lính VNCH của vùng trời quê-hương ngày xưa ơi! Các anh có nghe gì không? Ðêm nay, bạn bè, thân nhân các anh đứng đó, đang nâng niu từng giọt âm-thanh chân thành nhắc đến những tên tuổi thân thương của một thời mà mãi mãi chẳng bao giờ phai mờ trong tâm khảm… Ðêm nay dù rằng bên ngoài không có ánh trăng soi đường cho hồn tử-sĩ, nhưng đã có những ánh nến huyền-ảo được thắp lên bằng cả một khối chân tình của những tri-kỷ để đón các anh về tự cõi hư-vô…

…Ðêm nay, ngoài thân nhân, bạn bè đồng đội của các anh, những người đã cùng các anh chung lưng sát cánh, còn có những người đã từng hơn một lần thầm yêu, và ngưỡng-mộ cái hào-khí của các anh… Những Người Tình Chưa Một Lần Hò Hẹn mà ngày xưa đó, đã gởi đến các anh những tiếng thổn-thức thầm lặng của con tim, thì bây giờ đây, lại thêm một lần nữa thầm lặng gởi đến các anh một vòng hoa tưởng-niệm. Vòng hoa gói trọn ân-tình bằng những lời yêu thương thầm kín của Một Người Ái-Mộ Lính…

…Còn chúng ta, những Người Lính của QLVNCH còn lại… Ðến bao giờ thì chúng ta sẽ cùng nhau trở về vùng trời quê-hương yêu dấu bằng những chuyến bay chất đầy Hào-Khí Của Tiền-Nhân? Và của những người đang:

…bao năm mài gươm dưới nguyệt
Mà tưởng nghe hồn thép réo sông sâu… (3)

(Miền đất tạm dung. Mùa tưởng-niệm!)

Trần Ngọc Nguyên Vũ

Chú Thích: (1) Thơ Ngân-Giang
(2) Chinh Phụ Ngâm
(3) Thơ Vũ H. Chương

Sunday, February 25, 2024

CHO NGƯỜI NẰM XUỐNG TRÊN QUÊ HƯƠNG

 PHAN NHẬT NAM

Cảm giác Sự Chết vốn sẵn có từ lâu qua thân phận Người Lính trên Quê Hương Miền Nam Việt Nam. Đấy là Năm 1965, với cơn mưa u uất mùa hạ Miền Nam, nơi Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp. Mưa không đủ lớn, không dài lâu để cho ta có cảm giác được tẩy rửa, cuốn trôi. Mưa âm âm, ngột ngạt làm bốc dầy thêm mùi xác chết của những đơn vị gồm Tiểu Đoàn 2, Trung đoàn 7 Sư đoàn 5 Bộ Binh; Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân; và Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù với những người lính mà sức chịu đựng dường như vô hạn dưới khối nặng của thùng đạn, ba-lô, nón sắc, vũ khí họ mang trên vai, vác lên lưng, để từng ngày cúi gầm mặt bước xuống vùng sình lầy mênh mông, trèo lên dốc đá núi thăm thẳm, lội xuyên rừng rậm ngút ngàn không tiếng nhỏ than van, ghìm lại hơi thở dài nặng nhọc...

 Tất cả những người lính cao thượng khắc kỷ vừa kể ra vào những ngày của tháng 6 năm 1965 ấy đã là những xác chết căng cứng, da tím sẫm bốc mùi xanh xao tanh tưởi... Những khuôn mặt, dạng người tinh anh tươi trẻ của tuần, tháng trước biến dạng thành những khối thịt ủng lầy máu sẫm, đất bùn đỏ, nhầy nhụa thêm bởi thấm mưa của bao ngày nằm nơi đụng trận, một chốn gọi là xã Đồng Xoài, Quận Đôn Luân, Tỉnh Bình Dương, nơi chỉ xa Sài Gòn khoảng năm-mươi cây số đường chim bay.

Rồi từ Giao Thừa Mậu Thân, bắt đầu ở Huế, ngõ Âm Hồn, lối đi ra đường Mai Thúc Loan, hướng Cửa Đông Ba. Khoảng đường u thẫm chập dầy bóng đen đêm Xuân 1968... Với tình thế nguy biến qua cảnh tượng người lính xao xác chạy dọc những khu nhà đổ nát, vừa chạy tránh đạn, vừa kéo xác đồng đội... Người Lính kéo xác đồng đội ngang qua căn nhà có xác người đàn bà chết trong vị thế quỳ trước chiếc bàn thờ xiêu đổ tung toé, hẳn đang khấn lạy, cầu xin... Nhưng còn có những xác chết chỉ còn thân người, bởi chiếc đầu đã bị cắt lià, vất tung đâu đó. Bên cạnh, thây cô gái tóc dài lây lất, khuôn mặt chỉ còn những tảng thịt rời rã. Nhận biết đấy là người thiếu nữ do chiếc áo dài trắng và áo len màu tím than, màu riêng biệt đặc trưng của người thiếu nữ xứ Huế. Nhưng, như một an ủi khốn cùng, dù ở Huế, hay quanh ngoại ô Sài Gòn, vùng Nhị Bình, Thạch Lộc, Hóc Môn, Gia Định trong dịp chiến loạn Mậu Thân 1968, người sống vẫn còn khả năng phân biệt đấy là xác chết của lính hay của dân; của dân chúng Huế hay gã bộ đội Sinh Bắc-Tử Nam, hoặc cán binh Mặt trận giải phóng... qua áo quần, dạng tướng, đôi dép Nhật làm ở Chợ Lớn, giày botte de saut của lính Cộng hòa hay loại dép râu mang theo từ Miền Bắc của bộ đội cộng sản. Thây chết nằm suốt dọc cù lao sông Sài Gòn chảy qua Bình Phước, Bình Triệu, Thạnh Lộc, Nhị Bình, Gò Vấp... Cả một vùng hoa mai tàn tạ trong ánh nắng lung linh mùi tử khí.

Tiếp đến năm 1972, cảnh chết trên quê hương miền Nam tăng vụt cường độ với bất hạnh, tang thương nhân lên gấp bội phần cho dù trí tưởng tượng về tình huống khốn cùng từ lâu đã được người Việt hằng mang nặng, chuẩn bị gánh chịu. Trên chín cây số từ La Vang, nam Quảng Trị đến Cầu Trường Phước lớp nhựa đường đã hoàn toàn chảy nhão, đun nóng sôi bởi một thứ lửa nhân tạo. Lửa được cháy lên do từ áo quần, tay nải, bao bị, gồng gánh, và tế bào thịt da của người tẫm vào lưỡi lửa của xe cộ, xăng nhớt. Tất cả biến thái nên thành ngọn lửa bền bỉ âm ỉ. Thế nên trên quãng đường chín cây số nam Thị Xã Quảng Trị mà giới báo chí Miền Nam đặt nên tên đau thương Đại Lộ Kinh Hoàng hoàn toàn không còn dạng thây ma để được gọi nên là xác chết, mà chỉ là những mảnh xương cốt rời rã, lăn lóc, lẫn lộn đất, đá, cát vương vãi dưới gầm khung xe cháy nám, nơi ổ súng cong queo, sau những bụi lùm trơ trọi, những gò, đụn oan khiên mà ổ mối đùn lên gây tanh mùi máu.

Trong cùng lúc, vào thời điểm đầu mùa Hè, 1972 ở An Lộc nơi Bệnh viện Tiểu Khu Bình Long cũng xẩy ra tình cảnh kinh hoàng đau thương tương tự. Vì pháo binh yểm trợ cho các sư đoàn 5, 7 bộ binh cộng sản đã học được một kinh nghiệm hữu dụng: "Ban ngày chỉ pháo xuống nhiều điểm bên trong thị xã để dân chúng tin rằng "bộ đội giải phóng" không pháo kích vô chỗ bệnh viện!" Nhưng vào ban đêm, Trường Trung Học Cộng Đồng, Bệnh Viện Tiểu Khu Bình Long... nơi lớp lớp người bị thương đang lê lết trong bãi máu, giữa những người hấp hối để cầu sống sót, cầu được lúc bình yên. Cho dẫu bình yên được chết... Những nơi nầy biến thành những điểm tập trung của pháo binh cộng sản. Điễn hình chỉ trong một đêm 10 Tháng Tư, 1972 đã có hơn tám ngàn quả đạn 130 ly rơi xuống xé toang đám xác người. Người sống lẫn kẻ chết, tất cả đồng tung lên ngật ngật với thân thể con người chỉ còn là những mảnh vụn tơi tả lẫn với bụi, khói, mảnh thép.

Chiều ngày 28 tháng 4, với tình cảnh sống-chết đan kín, xen kẻ cùng nhau trong suốt chặng đường dài hơn một thập niên như trên vừa kể ra... Tất Cả Hiện Đủ Trong Buổi Sáng Ngày 30 tháng Tư Năm 1975. Sự Chết bắt đầu trùm chiếc cánh tối tăm hung hiểm lúc 6 giờ 15 chiều ngày 28 tháng 4, khi chuỗi bom dưới cánh của những chiếc A37 do viên phi công phản trắc Nguyễn Thành Trung hướng dẫn rơi xuống phi đạo Tân Sơn Nhất. Đạn phòng không bắn lên, phi cơ F5 đuổi theo muộn màng, vô vọng. Cửa ngõ tháo chạy của Sài Gòn đóng sập lại. Cuối cùng, Tân Sơn Nhất thật sự vùng vẫy, hấp hối, chìm dần trong lửa hoả ngục khi dàn đại pháo, hỏa tiễn cộng sản từ Đồng Dù, Củ Chi, ranh giới Hậu Nghĩa, Gia Định bắt đầu đổ xuống không ngắt nhịp. Từng trái đạn 130 ly, từng hỏa tiễn 122 ly chính xác rơi xuống. Tân Sơn Nhất vật vã, co quắp, rã chết, sụp vỡ, hấp hối trong khói đen, lửa ngọn. Cuộc hành hình kéo dài từ 1 giờ sáng ngày 29 tiếp tục đến rạng đông. Ở căn cứ DAO, Văn phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ, ba ngàn người tỵ nạn chờ đợi di tản bằng C130, hoặc C141 qua Guam đưa mắt nhìn lên trời, giữa vũng lửa, đếm rõ từng viên đạn pháo rơi xuống. Đống hành lý khổng lồ gồm quý kim, vàng, kim cương, giấy bạc Năm Trăm Trần Hưng Đạo của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam; giấy bạc đô-la của ngân khố Mỹ. Tất cả cùng trộn lẫn với thịt da thân thể người thành một thứ pháo bông tan tác bay tung toé, hiện thực nơi trần thế cảnh địa ngục vô vàn mà nhà thơ Dante người Ý đã diễn tả qua thi ca.


 

Sáng 29 tháng 4, những tướng lãnh đã ra đi, những sĩ quan cao cấp cũng rời bỏ nhiệm sở, đơn vị. Nhưng, Trung Úy Phi Công Trang Văn Thành còn lại. Thành có danh hiệu "Thành mọi" bởi nước da ngâm đen quá độ ra chỗ đậu tàu.. Anh nổ máy chiếc C119 Hỏa Long, đơn độc bay lên trời xanh bảo vệ, cứu viện Tân Sơn Nhất. Từ trên cao, Trung Úy Thành thấy rõ những vị trí pháo của binh đội cộng sản.. Anh nghiêng cánh, chúc mũi chiếc Hỏa Long căm phẫn trút xuống tràng đạn 7.62 ly, và tất cả hỏa lực cơ hữu của hai khẩu đại bác 20 ly gắn dưới cánh. Lửa nháng lên dưới thân tàu, toán phòng không cộng sản phản pháo, nhưng không kịp, Thành bình tĩnh, tài giỏi lách ra khỏi vùng hỏa tập lưới đạn của giặc. Anh đáp xuống lại phi đạo thân yêu quen thuộc đang bốc khói mù bởi cuộc dội bom chiều hôm trước, và cuộc pháo kích cường tập từ sau nửa đêm về sáng của ngày đau thương tang tóc nầy. Mặc, Thành một mình tự tay nạp đạn vào tàu, anh trở lại bầu trời trên phi cảng Tân Sơn Nhất - Cửa ngõ của Miền Nam. Anh nhìn xuống những vị trí pháo cộng sản mà giờ nầy tạm ngưng hoạt động vì vừa bị anh tấn công.. Hóa ra cả một quốc gia chỉ còn được lần cứu viện bi hùng tuyệt vọng nầy. Thành chúc mũi tàu, bấm chặt hệ thống kích hỏa bên cạnh chỗ ngồi, một mình anh lấy đường nhắm.. Một mình anh.. Phải chỉ một mình anh - Trung úy Trang Văn Thành, "Thành Thiếu Sinh Quân". Thành hạ thấp hơn để đường đạn thêm phần chính xác. Thân tàu rung mạnh.. Lửa! Lửa! Lửa cháy ngang cánh trái con tàu, ngay bình xăng, sát cạnh ghế ngồi.. Thành giật mạnh chốt thoát hiểm để bung thân ra khỏi con tàu. Tất cả kẹt cứng. Anh dùng tay đẩy cửa buồng lái phóng mình ra, chiếc dù bung mạnh.. Các múi, dây dù vướng vít rối rắm. Thành bị giữ chặt bởi chiếc dù và khung cửa. Lửa bừng bừng! Lửa ào ạt... Người phi công chìm trong lửa, gục chết giữa không gian trên quê hương.

Sáng 30 tháng 4, năm 1975. Sàigòn vắng lạnh. Trời bỗng nhiên trở mưa. Cơn mưa ngắn, từng giọt khô nồng, u uất. Chiếc xe Zil Trung Cộng từ hướng đường Trần Hưng Đạo, chạy chậm rãi qua bùng binh chợ Bến Thành.. Những người đi đường nhìn lên, ngó mông trống trải. Xe tới trước thềm Hạ Viện, đám thiếu nữ dáng dấp nhà nông nhẩy xuống, một người đội mũ tai bèo, chắc là người chỉ huy trung đội lính phụ nữ, từ ca-bin xe bước ra, chỉ chỏ, ban lệnh, kéo từng người vào vị trí gọi là “chiến đấu”... Các đồng chí, các đồng chí... bố trí đây nì, sẵn sàng tác chiến... Giọng người vùng miền Bắc Trung Việt cấm cẳng, the thé. Những thiếu nữ thôn quê ngồi bất động nghiêm trọng. Tất cả đều mặc áo quần mới, áo mầu xanh dương, quần đen, vải nội hoá còn nguyên dấu hồ, dây đạn đeo chéo qua thân, miết xuống những thớ thịt ở ngực, phần bụng. Băng đạn trên thân người mới tinh màu đồng đỏ au.

Từ Công Trường Lam Sơn, đầu đường Nguyễn Huệ, đám đông dần tập trung để xem mặt “bộ đội Việt cộng”. Thêm hai xe đổ quân trước rạp Rex. Lính cộng sản nhẩy xuống, chạy vội vào hàng hiên, nằm, trườn, bò, nháo nhác. Tiếng đập đục rầm rập từ những cơ sở ngoại quốc, những khối cửa sắt lay động, phá bung, những tấm kiếng tủ lớn bị đập vỡ, đồ đạc kéo lê hỗn độn, vội vàng trên mặt đường. Người mỗi lúc mỗi đông. Người dồn dập ùn ùn, la ó, chưởi thề, giành giựt. Đám đông chạy về phía Building Brink, khu Đồn Đất, nhà thương Grall, những nơi có cơ sở của Mỹ kiều, những văn phòng mà chủ nhân đã bỏ đi. Bất chợt, tất cả lắng lại để nghe rất rõ .. Có người tự tử. Có người mới bắn chết. Ai? Lính hả? Không biết, chỉ thấy mặc đồ lính mình. Ở đâu? Ở ngoãi, chỗ tượng Thủy Quân Lục Chiến.. Lời trao đổi đứt khúc, vội vã, mất hút giữa những tiếng thở dồn dập, bước chân cuống cuồng nôn nóng của đám đông đang hăm hở tiến tới những kho hàng, cơ sở đầy ắp vật dụng, thức ăn, rượu, bia. Tiếng súng nổ, đạn bay lên trời... Và những gã thanh niên mang băng đỏ dẫn đám lính cộng sản chạy lúp xúp vào cổng Tòa Đô Chính. Phía khối tượng đài Thủy Quân Lục Chiến thấy hình hài một Người Lính vừa tự sát. Buổi Sáng 30 tháng Tư, 1975, chen giữa âm sắc xích xe tăng đổ nhào cửa Dinh Độc Lập có tiếng nổ khô nhỏ của viên đạn ghim vào, nằm sâu trong đầu Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long.

Trước cổng Trại Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu Đoàn 1 Dù, Thiếu Tá Trần Công Hạnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 Dù tròng mắt khô khan ráo hoảnh sau bao ngày đêm không ngủ sáng lên ánh mắt dứt khoát quyết định ở lại với những lính của đơn vị khi lắng nghe báo cáo cuối cùng của đại đội giữ Ngã Tư Bảy Hiền vừa bắn cháy thêm hai xe tăng của quân Miền Bắc... Có một xác con trẻ trần truồng không biết ai ném ra từ bao giờ lên mặt đường. Một cô gái mặc áo dài trắng nữ sinh đi đến, gác chiếc xe đạp mini cạnh lề đường, bình thản, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy góc cạnh chụp thây đứa trẻ chết. Tay đứa bé mà giờ nầy đã miết xuống mặt nhựa đường do đám người chạy loạn từ khu Ngã Tư Bảy Hiền giẫm lên. Cô gái nhỏ giải thích: "Chụp để làm chứng tội ác Mỹ-Ngụy trước khi bọn chúng rẫy chết!" Hóa ra Sự Ác do cộng sản giáo dục có thể chụp xuống lòng người mau chóng đến thế sao?" Bấy giờ chỉ mấy mươi phút sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh.

Một trung đội lính Dù mà thật sự chỉ khoảng hơn một Tiểu đội giữ nhiệm vụ an ninh cư xá Sĩ quan Bắc Hải đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, trước 1972 là Tư lệnh phó Sư đoàn Dù. Chuẩn Tướng Hậu đang trải chiếc bản đồ trên mui xe jeep, bàn tính với những viên sĩ quan. Khi biết lệnh đầu hàng đã thi hành, ông vất tung chiếc bản đồ, gầm lên lời nguyền rủa.. Dẫu vừa nhận lệnh.. "Anh em ai về nhà nấy" từ Tiểu Đoàn Trưởng Hạnh. Nhưng viên Thiếu úy trả lời quyết liệt: "Tôi không đầu hàng, tôi với trung đội sẽ ra bến tàu tiếp tục chiến đấu..". Thiếu úy Huỳnh Văn Thái tập họp trung đội, hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di chuyển. Trung đội lính ra khỏi cư xá theo lối cổng Đường Tô Hiến Thành, rẽ vào Nguyễn Tri Phương, đi về phía chợ Cá Trần Quốc Toản, hướng bến tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái không ra đến bến Bạch Đằng, khi tới đến bùng binh Ngã Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành vòng tròn, đưa súng lên trời đồng hô lớn... Việt Nam Cộng Hoà Muôn Năm.. Con chết đây cha ơi! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực nổ sau lời hô vĩnh quyết cùng đất nước Miền Nam.

Cùng lúc, trong ngõ nhỏ băng ra Chợ Ông Tạ, tại một căn nhà đã diễn nên hoạt cảnh uy nghi bi tráng của cả một gia đình quyết tử cùng vận nước. Thiếu Tá Đặng Sĩ Vĩnh thuộc Khoá 1 Nam Định, chuyên ngành tình báo đặc biệt, biệt phái ngoại ngạch qua ngành viễn thông, phụ trách đường dây quốc ngoại. Người con trai lớn của gia đình, Trung Úy Đặng Trần Vinh sĩ quan Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu. Hai người cùng trao đổi lời đối thoại sau khi có lệnh đầu hàng. Tùy con, riêng bố đã quyết như đã nói với con từ trước. Nếu bố đã quyết như thế, con và các cháu cũng đồng lòng. Toàn gia đình uống chậm những liều thuốc độc cực mạnh đã chuẩn bị từ trước. Cuối cùng Trung Úy Đặng Trần Vinh kết thúc bi kịch với viên đạn bắn tung phần sọ não sau khi đứng chào tấm Đại Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ với lời hô khiến sông núi cũng quặn thắt thương đau. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm!

Ở Vùng IV, đồng bằng châu thổ Sông Cửu Long, chị Nguyễn Thị Thàng vợ một Nghĩa Quân Đồn Giồng Trôm, thay chồng giữ đồn đến trái lựu đạn cuối cùng. Chị kết thúc đời mình bên cạnh thây của chồng, các con, với những vũ khí, máy truyền tin đã bị phá hủy.. Không để cho Việt cộng một cái gì cả! Người chồng đã dặn chị trước khi lâm tử. Cùng lần với những danh tướng vị quốc vong thân Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn... rất nhiều người không ai biết cấp Thiếu, Trung úy kể cả binh sĩ, hạ sĩ quan,.. cũng không thiếu những người dân, những người dân thường đã chết cùng lần vĩnh quyết Miền Nam. Phần những người còn sống nơi Miền Nam phần lớn, nếu không nói là hầu hết sau khi đã đi qua biên giới tử sinh nầy đều có mặc cảm phạm tội - Tội đã sống sót. Đấy là cảm ứng có thật kể từ ngày 15 tháng 3 khi nhìn đoàn người di tản dọc Tỉnh Lộ 7 từ Pleiku về Phú Bổn, xuống Tuy Hoà. Khi đứng trên Đèo Hải Vân ngày 25 tháng 3, chứng kiến đoàn người chạy loạn từ Quảng Trị, Huế vào Đà Nẵng. Khi nghe ra tiếng hờn đau ai oán của người đàn bà chân trần, tóc rối, lật vạt áo dài ra để thấy đứa con nhỏ đã chết từ lâu trên tay. Sáng 30 Tháng Tư, mỗi người Việt nơi Miền Nam từ hoàn cảnh riêng hiểu ra một Mối Đau Chung - Mối đau lần chết thật với Miền Nam.

Người Nhật là một dân tộc vĩ đại qua nghi lễ hiến tế, tức Sepuku (mổ bụng tự sát) khi danh dự cá nhân, tập thể, tổ quốc bị xúc phạm. Dân tộc Việt Nam không có nghi thức uy hùng, dũng cảm ấy. Tuy nhiên, Người Việt cũng có phương thức riêng để bày tỏ Lòng Yêu Nước, cách gìn giữ phẩm giá Con Người. Người Việt xử dụng Cái Chết để chứng thực nguyện vọng kia qua cách thế im lặng và đơn giản nhưng không kém phần cao thượng. Cuối cùng, bi kịch không chỉ xẩy ra với thời điểm 30 tháng tư, 1975 mà sau đó, suốt hai thập niên 70, 80, hai triệu người Việt Nam, không phân biệt người Nam, hay người Bắc những người đã sống lâu dài dưới chế độ cộng sản Hà Nội từ 1945, từ 1954... Tất cả đã cùng phá thân băng qua biển lớn, xuyên rừng rậm vùng Đông-Nam Á, với giá máu 600.000 người chết trên đường di tản ra khỏi nước. Hóa ra Dân Tộc Việt, những người Việt Nam bình thường đã đồng lần thực hiện một điều mà họ không hề diễn đạt nên lời: Chết vì Tự Do để bảo vệ Phẩm Giá, Quyền Làm Người. Người Việt Nam đã và đang hiện thực điều mầu nhiệm nầy qua từng ngày vượt sống trên quê hương khổ nạn, với chính thân xác của mình. 41 năm sau Ngày 30 Tháng Tư ý nghĩa cao thượng nầy vẫn luôn hiện thực với những thế hệ Việt thứ hai, thế hệ người Việt thứ ba...

Phan Nhật Nam
Ngày 30-4-1975 của 41 năm sau

Saturday, January 20, 2024

CHUYỆN CHƯA KỂ VỀ TRẬN HOÀNG SA

         Sau đây là lời kể của Thiếu Tá Phạm Văn Hồng (Sĩ Quan Lãnh Thổ Phòng 3 thuộc Quân Đoàn I) câu chuyện của 45 năm trước về trận Hoàng Sa với nhiều tình tiết khá đặc biệt mà ông chưa hề phổ biến trên báo chí lâu nay.

          Nhận lệnh ra Hoàng Sa với nhiệm vụ thiết lập phi trường
         Buổi sáng 15-1-1974 tôi nhận lệnh thượng cấp ra đảo Hoàng Sa để thiết lập một phi trường quân sự, lúc đó tôi là Sĩ Quan Lãnh Thổ Phòng 3 thuộc Quân Đoàn I nên việc thượng cấp giao cho là hợp lý. Chiều hôm đó, thay vì di chuyển bằng xe quân sự, thì nhân viên Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng là ông Kosh lại lấy chiếc Falcon chở tôi cùng đi với ông qua bên Tiên Sa.
          Đến nơi vào khoảng 5, 6 giờ chiều, trời đã gần tối, chúng tôi lên chiếc HQ16 do Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự là Hạm Trưởng; HQ16 đưa chúng tôi ra tới đảo Hoàng Sa vào khoảng 9 giờ sáng hôm sau. Trời hừng sáng, tôi thức dậy và nhìn ra khơi, xa xa có mấy chiếc tàu nhỏ đang di chuyển, dần dần những chiếc tàu đó nhắm hướng HQ16 chạy tới, nó cứ chờn vờn trước mũi tàu mình và nói theo ngôn ngữ lúc bấy giờ gọi là “kỳ đà cản mũi”.
         Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự lấy làm lạ và nói với tôi: “Hình như nó muốn khiêu khích mình”. Nó giả dạng tàu đánh cá, cho một vài tên mặc quần đùi, ở trần ra ngồi bên mạn thuyền thả câu, câu cá. Chúng tôi mặc kệ nó và ở đó vài tiếng sau thì đổ bộ lên bờ.
         Ngoài tôi làm toán trưởng, còn có một Trung Úy Liên Đoàn 8 Công Binh Kiến Tạo, một Trung Úy Liên Đoàn 10 Công Binh Chiến Đấu, hai Hạ Sĩ Quan đi theo hai Trung Úy và ông Kosh, như vậy toán chúng tôi có tất cả 6 người đặt chân xuống đảo.
         Hai Trung Ùy lo đi thám sát địa hình, đo đạc để có dữ kiện thiết lập phi trường. Ở trên đảo có sẵn một toán Khí Tượng nên cần biết gì về thời tiết, Nhóm Khí Tượng sẵn sàng cung cấp đầy đủ. Ngoài Nhóm Khí Tượng còn có một đơn vị Địa Phương Quân trú đóng.
Biển Đông dậy sóng.
           Sáng ngày 18-4-1974 từ trên đảo nhìn ra biển thấy tình hình khác hẳn mấy ngày trước. Tàu của Trung Cộng nhỏ nhưng khá nhiều, còn bên Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa thấy có bốn chiếc HQ16, HQ4, HQ10 và HQ5. Hai chiếc HQ5 và HQ16 là Tuần Dương Hạm; chiếc HQ4 là Khu Trục Hạm . HQ4 nhỏ hơn nhưng hỏa lực mạnh hơn. Còn HQ10 là Hộ Tống Hạm.
          Chiều ngày 18 tôi nhận được lệnh của Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự nói sẽ cho dzu dzu (một loại xuồng cao su) đến đón chúng tôi lên HQ5. HQ5 bây giờ được gọi là Soái Hạm (tàu chỉ huy) vì có Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đang ở trên đó để tổng chỉ huy. Tôi lên HQ5 và chờ đến khoảng 10 giờ thì loa phóng thanh nói: “Mời Thiếu Tá Phạm Văn Hồng lên đài chỉ huy để gặp Hải đội trưởng”.
          Tôi lên phòng chỉ huy, Đại Tá Hà Văn Ngạc vỗ vai tôi và nói: “Toa à, cái thằng Kosh này là bạn moa, nó nhát gan, nó sợ và muốn lên đảo, nó bảo ở trên tàu nguy hiểm quá, vậy toa đi với nó lên đảo trở lại”. Rồi ông ra lệnh lấy dzu dzu đưa chúng tôi vào đảo. Cặp vào đảo thì đã khuya, anh em Địa Phương Quân họ cũng đã ngủ hết .
          Suốt một đêm vật vã với sóng gió, tôi cũng mệt nhoài nên sáng hôm sau khi nghe có tiếng heo kêu tôi mới thức dậy thì trời đã sáng rõ. Sở dĩ có tiếng heo kêu là vì mấy anh em Địa Phương Quân khi nhận lệnh ra giữ đảo, biết nhiệm kỳ của mình sẽ ăn Tết trên đảo nên họ mang một con heo ra nuôi để Tết mổ thịt.
          Khi vừa rửa mặt xong thì nghe mấy anh em Điạ Phương Quân nhao nhao nói: “Có lẽ không xong rồi Thiếu Tá ơi!” Và tôi bắt đầu nghe tiếng súng nổ; lúc đó vào khoảng hơn 10 giờ sáng ngày 19-1-1974. Tôi leo lên sân thượng của Đài Khí Tượng nhìn ra biển thấy hai chiếc tàu Trung Cộng chưa chìm nhưng đang trong tư thế sắp chìm và tôi nghĩ chắc chắn sẽ chìm, còn bên phía Hải Quân mình tôi thấy các lằn đạn của tàu Hải Quân Trung Cộng cũng đang ghim vào chiến hạm của mình. Hai bên đang thi nhau nã đạn. Tiếng súng lớn, súng nhỏ thi nhau nổ dòn dã.
           Tôi xuống phòng truyền tin, ở đây chỉ có mỗi chiếc máy C.25 để anh em liên lạc với tàu khi lên xuống thôi. Tôi nghe âm thoại viên của Hải Quân nói: “Thiếu Tá Hồng, tôi đã mất liên lạc, nhờ Thiếu Tá gọi ngay về Đà Nẵng giúp, nói là tàu tôi đã bị nghiêng 30 độ, mắt thần chúng tôi đã bị hư”.
           Đó là tất cả những gì tôi nghe được qua máy truyền tin C.25. Tôi nhờ bên Đài Khí Tượng cho sử dụng máy Motorola, anh em bên Khí Tượng cho biết, họ chỉ lên máy mỗi đầu giờ, bây giờ đang là giữa giờ, lên máy không có tín hiệu nhận.
           Nhưng anh em bên Đài Khi Tượng vẫn mở máy. May quá, có Phú Quốc lên máy. Tôi nhờ Phú Quốc gọi về Sài Gòn, yêu cầu Sài Gòn gọi ra Đà Nẵng nói Đà Nẵng “lên máy”. Nói thì nghe ngắn gọn như vậy nhưng lúc đó mất rất nhiều thời gian, không như bây giờ có cell phone, liên lạc với nửa vòng trái đất cũng chỉ trong tíc tắc!
           Khi tôi liên lạc được với Đà Nẵng, tôi yêu cầu Đà Nẵng gọi “Uy Dũng” là tên Tổng Đài Quân Đoàn I của chúng tôi, tôi cho số máy của Trung Tâm Hành Quân và số máy của Quân Đoàn I, yêu cầu liên lạc ngay với tôi qua tổng đài của Ban Khí Tượng ngoài đảo Hoàng Sa. Lúc đó tiếng súng giữa các chiến hạm của ta và của Trung Cộng đã tạm lắng dịu nhưng súng bắt đầu nổ trên đảo.
          Tôi lên Đài Khí Tượng quan sát thì thấy các chiến hạm của ta ở vòng ngoài, còn tàu Trung Cộng thì lại ở vòng trong, có nghĩa là chúng tôi đã bị tàu Trung Cộng bao vây. Những chiếc tàu của Trung Cộng theo anh em Hải Quân ta cho biết là những chiếc Kronstad, tất cả đều quay mũi tàu của họ vào đảo, còn các chiến hạm của ta thì quay mũi ra phía ngoài biển. Các chiếc Kronstad tiến sát vào bờ và đổ quân, chúng dàn hàng ngang tiến lên đảo.
         Lúc này trên đảo bên ta chỉ có một Trung Đội Địa Phương Quân hơn 20 quân nhân, bốn năm anh em chuyên viên Khí Tượng và thêm toán chúng tôi 6 người nữa mà phải đương đầu với khoảng một tiểu đoàn Trung Cộng.
         Cũng cần biết thêm là theo anh em đi thám sát đo đạc để lập phi trường có cho biết, chu vi đảo chỉ chừng 1 cây số 6. Nếu thiết lập phi trường thì chỉ có thể làm phi đạo dài 500 thước, ngang 300 thước mà thôi, và phi đạo như thế chỉ sử dụng cho các loại phi cơ 123 Caribou chứ loại C.130 không thể hạ cánh được.
          Cho nên với chu vi gần 2 cây số mà chỉ có khoảng 20 người, làm sao kiểm soát hết được, trong khi đó sở trường của Trung Cộng luôn luôn là “lấy thịt đè người”. Với quân số ít oi và vũ khí cũng không có gì mạnh mẽ lắm, mỗi người chỉ có vài gắp đạn nên bắn mấy lần là hết đạn. Tuy nhiên anh em vẫn chiến đấu với biển người Trung Cộng.(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
 Mưu mô quỷ quyệt của bọn Trung Cộng
           Để nắm vững tình hình trên đảo về quân số cũng như cách bố phòng của ta, vào khoảng đầu tháng 10 năm 1973, thời điểm tháng 10 thường hay có mưa bão xảy ra ở vùng biển Đà Nẵng, nên bọn Trung Cộng cho một chiếc tàu giả dạng tàu đánh cá vào đảo xin tránh bão.
           Việt Nam Cộng Hòa mình vốn có tính nhân đạo và thật thà, thấy họ xin núp bão thì đồng ý ngay, lại còn tiếp tế cho họ nước uống nữa, chúng làm bộ thân thiện với ta, tặng cho anh em quân nhân những bộ bài có hình khỏa thân, và rủ lính của ta chơi trò “trốn tìm”, mục đích là dò xem mình có hầm hố gì không.
          Nhưng các anh em Điạ Phương Quân của ta đâu có ngờ, đó là mưu mô “thám sát” của lính Tàu. Vì thế khi chúng tấn công lên đảo, chúng đã nắm rõ quân số của ta có bao nhiêu người, vũ khí ra sao, có hầm hố chiến đấu hay không, còn ta, ta không biết gì về địch. Lực lượng hai bên quá chênh lệch như thế nên chúng ta bị thất bại là lẽ đương nhiên.
(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Tin vào lời hứa, tìm cách ẩn trốn và bị bắt
           Khi tôi liên lạc bằng máy Motorola của Đài Khí Tượng trên đảo về Đà Nẵng, tôi được bên Hải Quân cho biết, Thiếu Tá Hồng cứ yên trí, sẽ có máy bay ra yểm trợ. Vì tin lời hứa đó, tôi nghĩ trong lòng rằng không bao giờ tôi đầu hàng, giả sử nếu cùng lắm bên Không Quân ta phải thả bom trên đầu, tôi cũng chịu vì đó là chuyện bình thường của quân đội.
          Vì tôi và anh em trên đảo sẽ được cứu nên tôi tìm cách ẩn trốn vào một bụi cây rậm rạp trên đảo, do đó khi chúng đã bắt hết các anh em, chúng kiểm soát danh sách và biết rằng còn thiếu một viên Thiếu Tá là tôi, cả một tiểu đoàn lính Trung Cộng dàn hàng ngang lùng sục làm sao mà tôi thoát được, và tôi bị chúng bắt sống lúc xế trưa.
Cuộc đời tù binh
          Sau khi Trung Cộng bắt được tôi, chúng không đánh đập nhưng có dọa nạt và áp đảo tinh thần. Khoảng 2, 3 giờ chiều chúng cho chúng tôi ăn cơm, ăn với thịt heo của anh em Địa Phương Quân nuôi, như tôi đã trình bày ở phần trước, nói là thịt heo nhưng thật sự chỉ có mỡ thôi, còn nạc bọn lính Trung Cộng ăn hết rồi. Ăn xong nó nhốt chúng tôi trong căn nhà có lẽ trước đây dùng chứa phân chim hay làm cái gì đó tôi không biết rõ.
          Đến khuya, chúng nó bắt tất cả anh em ra xếp một hàng dọc ngoài sân. Tôi nghĩ trong đầu chắc chúng đem đi xử bắn chúng tôi. Một vài anh em trong bọn tôi có vẻ lo lắng, thấy thế tôi mới trấn an: “Các anh cứ bình tĩnh, dù chúng ta có chết cũng chết cho Tổ Quốc, đừng sợ, cứ bình tĩnh và giữ vững khí phách của một Người Lính VNCH”. Nhưng cuối cùng chúng không bắn ai hết!(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Di chuyển qua Trung Quốc
             Gần rạng sáng chúng cho chúng tôi lên tàu, tôi nghe ngoài biển có nhiều tiếng lào xào, nhìn ra thì thấy nhiều chiếc dzu dzu đang chèo vô bờ. Nó chuyển chúng tôi cứ 4, 5 người xuống một xuồng cao su (dzu dzu) và đưa ra tàu Kronstad. Nhóm sĩ quan nó đưa riêng lên một tàu, mấy chục anh em Hạ sĩ quan, binh sĩ lên các tàu khác và tàu bắt đầu di chuyển.
           Khoảng trưa hôm sau, tức là trưa 20-1-1974, chúng tôi tới đảo Hải Nam. Nó cho tôi lên bờ trước, sau đó mới đưa các anh em còn lại lên, rồi nó đưa đám sĩ quan vào phòng ăn riêng gồm tôi và 1 Trung Úy Hải Quân, 1 Sĩ Quan Địa Phương Quân, 2 Sĩ Quan Công Binh và anh Kosh, cả thảy là 6 người.
            Sau khi ăn cơm xong, chúng đưa chúng tôi ra phi trường để bay về Quảng Châu. Khi lên máy bay chúng đưa tên Kosh lên ngồi trên cabin, còn anh em chúng tôi ngồi ở khoang dưới. Đến Quảng Châu trời đã tối. Riêng nhóm Hạ sĩ quan, binh sĩ và nhân viên Đài Khí Tượng chúng nhập chung thành một toán cho xuống tàu lớn chở về sông Châu Giang cũng thuộc thành phố Quảng Châu.
            Hôm sau tất cả đám tù binh gồm 49 người, tính luôn cả anh Kosh người Mỹ; trong đó có 23 chiến sĩ Địa Phương Quân, 6 người toán chúng tôi, 5 nhân viên Khí tượng và 14 quân nhân Hải Quân, có thêm một sĩ quan nữa là HQ Trung Úy Nguyễn Văn Dũng.
            Tôi bị gọi lên lấy khẩu cung nhiều lần, chúng cố tình khai thác tôi về tổ chức quân đội VNCH, nhưng tôi viện lý do “bí mật quân sự”, phòng nào biết phòng đó, tôi chỉ nói một cách tổng quát và cứ lập đi lập lại rằng, bên quân đội chúng tôi bảo mật rất kỹ, tôi chỉ biết danh số có những phòng gì, còn mỗi phòng có những ai, làm việc gì, điều đó tôi không biết. Tôi thấy nó chú tâm vào anh Hải Quân Trung Úy nhiều hơn tôi, có lẽ muốn điều tra, khai thác kỹ về Hải Quân của ta để dự phòng những trận hải chiến sau này có thể xảy ra.
           Sau khi bị giam một tuần lễ, chúng lựa ra mỗi toán một người để thả. Người đầu tiên là anh Kosh, chúng cho biết anh này bị một bệnh mà họ gọi nguyên văn là “mãn tính kinh niên” nên cho về sớm, bên Khí Tượng thả một người, bên Địa Phương Quân thả một người, bên Hải Quân thả một anh bị thương nhẹ.(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Vai trò của ông Kosh trong âm mưu của Mỹ.
            Lần xuống đảo trước, tôi và anh Kosh này ngồi bên nhau, anh ta kể, anh là Trung Úy Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh, anh làm cho Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ. Lần này anh đi với tôi trong vai trò giám định để xem thực hiện phi trường tốn phí ra sao và đề nghị Tòa Tổng Sự chi trả.
           Trên nguyên tắc thì như vậy, nhưng thực tế đây chỉ là phi trường ảo mà thôi, không có thật, anh ta đi với chúng tôi trong một sứ mạng đặc biệt đã được Hoa Kỳ và Trung Cộng bí mật dàn dựng từ trước. Sứ mạng đó là dùng chúng tôi làm con cờ thí, làm vật tế thần cho Trung Cộng có cớ xâm lăng Hoàng Sa. Đây là điều bí mật từ trước tới nay chưa có báo chí nào loan tải. Chúng ta hãy xem thái độ và cách hành xử của anh Kosh này cũng như sự đối xử của nhà cầm quyền Trung Cộng thì sẽ rõ.
           Trên giấy tờ, anh này đi công tác với chúng tôi chỉ có vài ngày, nhưng khi anh mở cái sắc của anh ra, trong đó có đến hai cây thuốc lá. Nếu tính thời gian công tác, anh hút nhiều lắm cũng chỉ 5, 6 gói thuốc, vậy anh mang tới 20 gói thuốc để làm gì? Ngoài thuốc lá, trong sắc tay của anh có đầy đủ dụng cụ mưu sinh thoát hiểm như lưỡi câu, thuốc chống cá mập.
           Sau khi bị bắt, trong buổi chiều ngồi cạnh tôi trên đảo, anh mở một hộp cá ra ăn, anh mời tôi một lát cá. Tôi để ý thấy hộp cá nhỏ và mỏng hơn hộp cá mòi Sumaco của Marốc, anh đưa cho tôi một lát mỏng như miếng khô mực đã bị ép rất sát, anh nói với tôi: “Anh ăn đi, no đấy!” Tôi nghĩ anh chàng này đùa dai, miếng cá mỏng dính và nhỏ xíu thế này làm sao no.
          Vậy mà khi ăn xong, tuy không no thiệt nhưng mà ngang dạ liền. Tiếp theo là sự kiện anh đang ở trên HQ16 lại đòi lên bờ và bảo ở dưới tàu nguy hiểm quá, mà lúc đó trận hải chiến chưa xảy ra. Phải chăng anh đã biết trước sẽ có hải chiến và ở trên tàu khi đánh nhau thì nguy hiểm thật, nên lên đảo để quân Trung Cộng làm bộ bắt cho chắc ăn hơn, và chúng ta thấy, người đầu tiên Trung Cộng thả là anh chàng Kosh này.
           Nói đến đây, tôi cũng xin mở dấu ngoặc là bây giờ biết anh chàng này đóng vai trò gì trong kế hoạch của Mỹ, nhưng tôi cũng phải cám ơn anh ta, nếu anh không đòi xuống đảo, thì tôi ở trên chiến hạm HQ16 cũng không còn sống trên cõi đời để thuật lại chuyện bí mật này, vì khi ở trên tàu, tôi cứ thích đứng ở trên cái pháo tháp, mà khi hải chiến xảy ra, pháo tháp của HQ16 đã bị trúng đạn Trung Cộng.(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Sự đổi chác giữa Mỹ và Trung Cộng
            Khoảng 10 giờ sáng, sau khi chúng tôi bị đưa vào trại giam có tên là “Trại Thu Dung Tù Binh” thuộc Huyện Hoàng Hóa, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông thì có một toán cán bộ Trung Cộng đến.
           Đám này nói tiếng Việt rất rành và hầu hết đều nói giọng Bắc, dấu hỏi, dấu ngã phân minh, chính xác. Một tên trưởng toán nói với chúng tôi: “Hiện bây giờ, tiến sĩ Kissinger của Mỹ đang ngồi ở Bắc Kinh, chiều hôm nay mọi người sẽ biết tin này, chúng tôi sẽ mang đến đây một chiếc radio mở cho các anh nghe”.
          Buổi chiều họ mang radio đến và mở cho chúng tôi nghe, đồng thời mở luôn cả đài phát thanh Úc Đại Lợi cho nghe luôn. Trong bản tin của đài phát thanh Trung Cộng có loan thế này: “Trong cuộc chiến đấu, chí nguyện quân Trung Quốc đã bắt được một đám tù binh Miền Nam Việt Nam, trong đó có tên Thiếu Tá Phạm Văn Hồng”.
          Hồi đó, nếu ai có theo dõi tin tức trên các đài phát thanh cũng đã nghe thấy như vậy. Điều đó cho thấy rõ ràng đã có âm mưu dàn xếp giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng. Mỹ muốn dùng Hoàng Sa của VNCH làm món quà để bình thường hóa quan hệ với Trung Cộng. Muốn trao Hoàng Sa cho Trung Cộng, chính quyền Hoa Kỳ thời bấy giờ phải tạo ra một cuộc chiến, để Trung Cộng có cớ xâm chiếm Hoàng Sa, và VNCH chúng ta tuy mắc bẫy, nhưng chúng ta đã cho Hoa Kỳ, Trung Cộng và cả thế giới thấy tinh thần yêu nước của chúng ta như thế nào.
          Hải Quân VNCH chúng ta dám hiên ngang đương đầu chống lại bọn Hải Quân xâm lược hùng mạnh hơn mình gấp bội. Chúng ta đã anh dũng và hy sinh nhiều sĩ quan, binh sĩ Hải Quân cũng như thiệt hại một số chiến hạm, nhưng chúng ta cũng đã đánh chìm một số tàu Trung Cộng tương đương và chắc chắn nhiều tên gọi là chí nguyện quân của chúng đã bị tử thương.(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Thêm bằng chứng về âm mưu giữa Mỹ và Trung Cộng trao đổi Hoàng Sa
           Trước khi kể cho anh nghe chuyện trao trả tù binh, tôi cần nói thêm chuyện này: Sau khi về đến Việt Nam, tôi gặp Trung Tá Lâm (Khóa 10 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt), Trung Tá Lâm kể chuyện với tôi:
– Không Quân của mình đã chuẩn bị sẵn sàng từ phi trường Biên Hòa bay ra Đà Nẵng, rồi từ Đà Nẵng bay ra Hoàng Sa oanh kích, và các phi công cũng chấp nhận sẽ chơi theo kiểu Nhật, khi phi cơ bay ra Hoàng Sa thì đủ nhiên liệu nhưng lúc về thì không; do đó, các anh phi công sẽ bỏ phi cơ và nhảy dù xuống biển, tàu của Hải Quân ta ứng trực sẵn sàng để tiếp cứu. Mọi việc đã chuẩn bị đâu vào đấy, nhưng phút chót lệnh này bị hủy bỏ!
           Thêm nữa, có Đại Tá Lê Khắc Lý, lúc đó là Tham Mưu Trưởng Tiền Phương Quân Đoàn I, Trung Tướng Lâm Quang Thi là Tư Lệnh Tiền Phương, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng là Tư Lệnh Quân Đoàn I ở Đà Nẵng; các vị này gọi tôi ra thuyết trình hai lần, buổi sáng cho các cơ quan hành chánh Thừa Thiên – Huế, buổi chiều cho các quân nhân đồn trú nghe về trân chiến Hoàng Sa tại Phú Văn Lâu.
           Sau buổi thuyết trình, Đại Tá Lê Khắc Lý vỗ vai tôi và nói: “Toa à, cố vấn mới nói chuyện với moa, moa bảo nó: ‘Tôi không hiểu tại sao Trung Cộng nó lại đánh chiếm Hoàng Sa?’ Cố vấn Mỹ đã ‘hố’ khi trả lời tôi: ‘Trung Cộng lấy Hoàng Sa, anh ngạc nhiên lắm à?’, moa mới nói trớ đi: ‘Không, ý tôi nói là tại sao nó lại chiếm vào lúc này?’” Rồi Đại Tá Lý nói tiếp: “Toa thấy không, tụi nó có kế hoạch cả rồi, nó đã sắp xếp hết rồi!”
            Thời đó, Ngoại Trưởng Henry Kissinger chuyên môn đi đêm, và Tổng Thống Mỹ Richard Nixon muốn bắt tay với Trung Cộng thì phải có một cái gì đó trao đổi. Tôi nghĩ món quà chính người Mỹ muốn tặng Trung Cộng là Hoàng Sa của ta, bởi Trung Cộng muốn làm chủ Biển Đông mà Mỹ giao Hoàng Sa cho Trung Cộng, họ đâu có mất gì, chỉ tội nghiệp cho đất nước Việt Nam chúng ta là thân phận một nước nhược tiểu!(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Cách đối xử của Trung Cộng với tù binh
            Phải công bằng mà nói, viết lịch sử thì phải viết trung thực, không nên viết theo kiểu tuyên truyền, cho nên tôi nói rất thật là bọn Trung Cộng hơn hẳn bọn cộng phỉ bắc việt trong cung cách đối xử với tù binh. Họ cho chúng tôi ăn uống theo quy chế tù binh chiến tranh đã được quốc tế qui định, như tôi mang cấp bậc Thiếu Tá thì để tôi ở một phòng riêng, bốn Trung Úy thì cứ hai ông một phòng, như vậy chúng tôi có ba phòng ở liền nhau, còn ông Kosh người Mỹ một phòng riêng. Mỗi ngày họ đem đồ ăn lên tận phòng cho chúng tôi, còn anh em Hạ Sĩ Quan và binh sĩ thì ăn ở nhà ăn tập thể của quân đội Trung Cộng.
            Sau thời gian 2, 3 tuần phải học tập mỗi ngày vào buổi tối để nghe cán bộ Trung Cộng tuyên truyền thế này thế nọ. Tuần lễ thứ tư họ dẫn chúng tôi đi thăm vài nơi (mấy anh chàng Trung Cộng nói tiếng Bắc, bảo là dẫn chúng tôi đi tham quan).
           Đầu tiên thăm một bệnh viện rồi thăm mấy hợp tác xã. Tôi để ý, hầu như tất cả các nơi gọi là Trụ Sở Hợp Tác Xã đều là những ngôi chùa xưa kia, bởi vì kiểu dáng là chùa, chữ đắp trên tường tuy bị đục bỏ hết nhưng vẫn còn dấu tích rõ ràng, điều đó cho thấy tín ngưỡng đã bị đè bẹp tại nước cộng sản đông dân nhất thế giới này!
          Sau khi thăm các hợp tác xã, họ dẫn đi thăm nhà máy cơ khí. Tại đây họ giới thiệu là nơi đúc các khẩu thượng liên và súng AK, sau đó lại dẫn đi xem nhà máy làm xe đạp, gọi là xe đạp Hồng Kỳ thì phải, rồi thăm một vài cư xá của công nhân. Tôi có hỏi một công nhân, lương hàng tháng được bao nhiêu, thì người công nhân nói được trên 100 Nhân Dân Tệ, trong lúc đó chiếc xe đạp Hồng Kỳ trị giá 130 Nhân dân tệ, cho ta thấy mức sống của một công nhân trong chế độ cộng sản Trung Quốc như thế nào.(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Trao trả tù binh
           Tôi còn nhớ hôm đó là thứ Bảy, có lẽ ngày 16, 17 tháng 2 năm 1974, sau khi cho chúng tôi ăn uống xong, họ tập trung lại và tuyên bố sẽ trả chúng tôi về Việt Nam. Họ phát cho mỗi người một bộ quần áo màu xanh và cái mũ mà anh em chúng tôi gọi đùa là cái bánh tiêu. Một tên cán bộ hỏi tôi muốn về miền nào, Bắc hay Nam Việt Nam. Tôi trả lời: “Chúng tôi là người Việt Nam, Bắc hay Nam đều là Tổ Quốc tôi, nhưng hiện tại hai miền có hai thể chế khác nhau, tôi không chấp nhận chế độ của miền Bắc, tôi yêu cầu trả chúng tôi về miền Nam ”.
            Họ đưa chúng tôi từ huyện Hoàng Hóa về thành phố Quảng Châu, đường dài hơn 40 cây số, rồi lại từ Quảng Châu đưa ra Tô Giới tức là Thẩm Quyến để trao trả chúng tôi tại Hồng Kông.
           Ngay khi chúng tôi bước qua lằn ranh từ Thẩm Quyến sang Hồng Kông, người đầu tiên chúng tôi gặp là ông Tổng Lãnh Sự VNCH tại Hồng Kông. Ông niềm nở đón tiếp chúng tôi và cho người mang đến cho tất cả anh em chúng tôi mỗi người một bộ quần áo dân sự mới toanh. Khi lên xe buýt ra phi trường Khải Đức, chúng tôi vứt bỏ lại trên xe bộ quần áo xanh do bọn Trung Cộng cấp phát và thay đồ dân sự.
           Ra đến phi trường, chúng tôi hết sức xúc động thấy Phó Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư Lệnh Phó Hải Quân và một sĩ quan cao cấp bên Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị (tôi không nhớ tên) đến đón. Vị này mang cho chúng tôi quân phục đầy đủ, ai binh chủng gì thì mặc quân phục binh chủng đó, ông còn mang cho tôi cặp lon Thiếu Tá nữa. Chúng tôi lại thay đồ dân sự và mặc quân phục về nước. Chính Phủ VNCH thuê nguyên một chuyến Boeing 727 của Hàng Không Việt Nam qua Hồng Kông đón chúng tôi trở về sau một tháng bị bọn Trung Cộng bắt làm tù binh.
          Về đến phi trường Tân Sơn Nhứt, ngoài thân nhân, chúng tôi còn được đại diện các cơ quan Chính Phủ và Quân Đội đón tiếp, choàng vòng hoa và đưa về trại an dưỡng Lê Văn Duyệt để nghỉ ngơi. Câu chuyện bí ẩn trận Hoàng Sa và cuộc đời tù binh của tôi kết thúc.
 Viễn Đông: Sau khi miền Nam rơi vào tay việt cộng, lúc đó Thiếu Tá đang ở đâu?
              Th/t. Phạm Văn Hồng: Tôi phục vụ tại Đà Nẵng, và Đà Nẵng bị bỏ ngỏ ngày 29-3-1975, ngày 5-4-1975, tôi bị bọn việt cộng bắt được và đưa vào trại tù.
Viễn Đông: Thiếu Tá bị giam giữ đến ngày nào thì được thả về?
           Th/t. Phạm Văn Hồng: Bọn việt cộng thả tôi vào tháng 2 năm 1982.
Viễn Đông: Trong thời gian bị tù, cán bộ Việt Cộng có tra vấn gì về vụ Hoàng Sa cũng như thời gian Thiếu Tá bị bắt làm tù binh ở Trung Cộng?
            Th/t. Phạm Văn Hồng: Không những bọn cán bộ mà ngay cả rất nhiều anh em cùng cảnh ngộ như tôi đều hỏi vụ này, đến nỗi tên tôi được anh em gọi là “Hồng Hoàng Sa”. Một hôm, trong buổi gọi là “tọa đàm” anh em có nêu vấn đề Hoàng Sa ra hỏi tên cán bộ cao cấp từ Trung Ương đến chủ tọa. Tên cán bộ này ấp úng và sau một phút suy nghĩ hắn nói bừa: “Chuyện Hoàng Sa, đảng và nhà nước ta đã có hướng giải quyết cụ thể và đã giải thích trên báo Quân Đội Nhân Dân số… ngày…” rồi y vội vàng chuyển qua đề tài khác ngay.
Viễn Đông: Khi được về với gia đình, Thiếu Tá làm gì, ở đâu cho đến khi sang định cư tại Hoa Kỳ?
            Th/t. Phạm Văn Hồng: Khi ra khỏi tù, tôi không về trình diện, tôi trốn lên Sài Gòn và tìm cách vượt biên. Tôi vượt biên tổng cộng 25 lần không thoát, ba lần bị bắt vào tù tiếp. Sau đó, tôi trốn sang Campuchia, ghi tên giả làm Việt Kiều yêu nước, mục đích để tránh theo dõi. Khi bọn bộ đội việt cộng rút về nước năm 1990, tôi xin được giấy chứng nhận là Việt Kiều yêu nước do tòa đại sứ việt cộng ở Campuchia cấp, thế là tôi về nước an toàn và cho tạm trú tại Sài Gòn. Tôi lén gửi hồ sơ sang Bangkok, Thái Lan.
            Đến khi có lệnh nộp hồ sơ đi Mỹ theo diện HO, tôi được xếp vào danh sách HO 39 nhưng khi họ đối chiếu với hồ sơ tôi nộp lén ở Bangkok, thấy khớp nhau nên họ đôn lên HO 29 và gia đình tôi qua Mỹ vào năm 1995.
Viễn Đông: Qua sự kiện Hoàng Sa, Thiếu Tá muốn nói thêm điều gì còn trăn trở chưa nói ra được?
            Th/t. Phạm Văn Hồng: Chuyện dĩ vãng đã đi vào lịch sử, nhiều người đã kể lại trận chiến Hoàng Sa với đầy đủ chi tiết, và chúng ta sẽ còn nghe nhiều lần khác nữa, vẫn không thừa, vì đó là những điều chúng ta cần nói để vinh danh các Chiến Sĩ Quân Lực VNCH, đặc biệt binh chủng Hải Quân, để các thế hệ con em chúng ta biết về cha ông của chúng đã không hổ thẹn với tiền nhân, với Quang Trung – Nguyễn Huệ…
          Tôi không thuộc binh chủng Địa Phương Quân nhưng có một điều tôi mong ước, đó là khi vinh danh các anh hùng gìn giữ bờ cõi Tổ Quốc, chúng ta đừng quên các chiến sĩ Địa Phương Quân cũng như các anh em chuyên viên Khí Tượng, họ đã đóng góp phần mình vào việc gìn giữ một phần hải đảo thiêng liêng của tổ quốc, họ đáng được Tổ Quốc Ghi Ơn bên cạnh tất cả các Chiến Sĩ Quân Lực VNCH đã Vị Quốc Vong Thân.
         (Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)