PHAN NHẬT NAM
Cảm
giác Sự Chết vốn sẵn có từ lâu qua thân phận Người Lính trên Quê Hương
Miền Nam Việt Nam. Đấy là Năm 1965, với cơn mưa u uất mùa hạ Miền Nam,
nơi Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp. Mưa không đủ lớn, không dài lâu để cho
ta có cảm giác được tẩy rửa, cuốn trôi. Mưa âm âm, ngột ngạt làm bốc dầy
thêm mùi xác chết của những đơn vị gồm Tiểu Đoàn 2, Trung đoàn 7 Sư
đoàn 5 Bộ Binh; Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân; và Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù với
những người lính mà sức chịu đựng dường như vô hạn dưới khối nặng của
thùng đạn, ba-lô, nón sắc, vũ khí họ mang trên vai, vác lên lưng, để
từng ngày cúi gầm mặt bước xuống vùng sình lầy mênh mông, trèo lên dốc
đá núi thăm thẳm, lội xuyên rừng rậm ngút ngàn không tiếng nhỏ than van,
ghìm lại hơi thở dài nặng nhọc...
Tất
cả những người lính cao thượng khắc kỷ vừa kể ra vào những ngày của
tháng 6 năm 1965 ấy đã là những xác chết căng cứng, da tím sẫm bốc mùi
xanh xao tanh tưởi... Những khuôn mặt, dạng người tinh anh tươi trẻ của
tuần, tháng trước biến dạng thành những khối thịt ủng lầy máu sẫm, đất
bùn đỏ, nhầy nhụa thêm bởi thấm mưa của bao ngày nằm nơi đụng trận, một
chốn gọi là xã Đồng Xoài, Quận Đôn Luân, Tỉnh Bình Dương, nơi chỉ xa Sài
Gòn khoảng năm-mươi cây số đường chim bay.
Rồi
từ Giao Thừa Mậu Thân, bắt đầu ở Huế, ngõ Âm Hồn, lối đi ra đường Mai
Thúc Loan, hướng Cửa Đông Ba. Khoảng đường u thẫm chập dầy bóng đen đêm
Xuân 1968... Với tình thế nguy biến qua cảnh tượng người lính xao xác
chạy dọc những khu nhà đổ nát, vừa chạy tránh đạn, vừa kéo xác đồng
đội... Người Lính kéo xác đồng đội ngang qua căn nhà có xác người đàn bà
chết trong vị thế quỳ trước chiếc bàn thờ xiêu đổ tung toé, hẳn đang
khấn lạy, cầu xin... Nhưng còn có những xác chết chỉ còn thân người, bởi
chiếc đầu đã bị cắt lià, vất tung đâu đó. Bên cạnh, thây cô gái tóc dài
lây lất, khuôn mặt chỉ còn những tảng thịt rời rã. Nhận biết đấy là
người thiếu nữ do chiếc áo dài trắng và áo len màu tím than, màu riêng
biệt đặc trưng của người thiếu nữ xứ Huế. Nhưng, như một an ủi khốn
cùng, dù ở Huế, hay quanh ngoại ô Sài Gòn, vùng Nhị Bình, Thạch Lộc, Hóc
Môn, Gia Định trong dịp chiến loạn Mậu Thân 1968, người sống vẫn còn
khả năng phân biệt đấy là xác chết của lính hay của dân; của dân chúng
Huế hay gã bộ đội Sinh Bắc-Tử Nam, hoặc cán binh Mặt trận giải phóng...
qua áo quần, dạng tướng, đôi dép Nhật làm ở Chợ Lớn, giày botte de saut
của lính Cộng hòa hay loại dép râu mang theo từ Miền Bắc của bộ đội cộng
sản. Thây chết nằm suốt dọc cù lao sông Sài Gòn chảy qua Bình Phước,
Bình Triệu, Thạnh Lộc, Nhị Bình, Gò Vấp... Cả một vùng hoa mai tàn tạ
trong ánh nắng lung linh mùi tử khí.
Tiếp
đến năm 1972, cảnh chết trên quê hương miền Nam tăng vụt cường độ với
bất hạnh, tang thương nhân lên gấp bội phần cho dù trí tưởng tượng về
tình huống khốn cùng từ lâu đã được người Việt hằng mang nặng, chuẩn bị
gánh chịu. Trên chín cây số từ La Vang, nam Quảng Trị đến Cầu Trường
Phước lớp nhựa đường đã hoàn toàn chảy nhão, đun nóng sôi bởi một thứ
lửa nhân tạo. Lửa được cháy lên do từ áo quần, tay nải, bao bị, gồng
gánh, và tế bào thịt da của người tẫm vào lưỡi lửa của xe cộ, xăng nhớt.
Tất cả biến thái nên thành ngọn lửa bền bỉ âm ỉ. Thế nên trên quãng
đường chín cây số nam Thị Xã Quảng Trị mà giới báo chí Miền Nam đặt nên
tên đau thương Đại Lộ Kinh Hoàng hoàn toàn không còn dạng thây ma để
được gọi nên là xác chết, mà chỉ là những mảnh xương cốt rời rã, lăn
lóc, lẫn lộn đất, đá, cát vương vãi dưới gầm khung xe cháy nám, nơi ổ
súng cong queo, sau những bụi lùm trơ trọi, những gò, đụn oan khiên mà ổ
mối đùn lên gây tanh mùi máu.
Trong
cùng lúc, vào thời điểm đầu mùa Hè, 1972 ở An Lộc nơi Bệnh viện Tiểu
Khu Bình Long cũng xẩy ra tình cảnh kinh hoàng đau thương tương tự. Vì
pháo binh yểm trợ cho các sư đoàn 5, 7 bộ binh cộng sản đã học được một
kinh nghiệm hữu dụng: "Ban ngày chỉ pháo xuống nhiều điểm bên trong thị
xã để dân chúng tin rằng "bộ đội giải phóng" không pháo kích vô chỗ bệnh
viện!" Nhưng vào ban đêm, Trường Trung Học Cộng Đồng, Bệnh Viện Tiểu
Khu Bình Long... nơi lớp lớp người bị thương đang lê lết trong bãi máu,
giữa những người hấp hối để cầu sống sót, cầu được lúc bình yên. Cho dẫu
bình yên được chết... Những nơi nầy biến thành những điểm tập trung của
pháo binh cộng sản. Điễn hình chỉ trong một đêm 10 Tháng Tư, 1972 đã có
hơn tám ngàn quả đạn 130 ly rơi xuống xé toang đám xác người. Người
sống lẫn kẻ chết, tất cả đồng tung lên ngật ngật với thân thể con người
chỉ còn là những mảnh vụn tơi tả lẫn với bụi, khói, mảnh thép.
Chiều
ngày 28 tháng 4, với tình cảnh sống-chết đan kín, xen kẻ cùng nhau
trong suốt chặng đường dài hơn một thập niên như trên vừa kể ra... Tất
Cả Hiện Đủ Trong Buổi Sáng Ngày 30 tháng Tư Năm 1975. Sự Chết bắt đầu
trùm chiếc cánh tối tăm hung hiểm lúc 6 giờ 15 chiều ngày 28 tháng 4,
khi chuỗi bom dưới cánh của những chiếc A37 do viên phi công phản trắc
Nguyễn Thành Trung hướng dẫn rơi xuống phi đạo Tân Sơn Nhất. Đạn phòng
không bắn lên, phi cơ F5 đuổi theo muộn màng, vô vọng. Cửa ngõ tháo chạy
của Sài Gòn đóng sập lại. Cuối cùng, Tân Sơn Nhất thật sự vùng vẫy, hấp
hối, chìm dần trong lửa hoả ngục khi dàn đại pháo, hỏa tiễn cộng sản từ
Đồng Dù, Củ Chi, ranh giới Hậu Nghĩa, Gia Định bắt đầu đổ xuống không
ngắt nhịp. Từng trái đạn 130 ly, từng hỏa tiễn 122 ly chính xác rơi
xuống. Tân Sơn Nhất vật vã, co quắp, rã chết, sụp vỡ, hấp hối trong khói
đen, lửa ngọn. Cuộc hành hình kéo dài từ 1 giờ sáng ngày 29 tiếp tục
đến rạng đông. Ở căn cứ DAO, Văn phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ, ba ngàn
người tỵ nạn chờ đợi di tản bằng C130, hoặc C141 qua Guam đưa mắt nhìn
lên trời, giữa vũng lửa, đếm rõ từng viên đạn pháo rơi xuống. Đống hành
lý khổng lồ gồm quý kim, vàng, kim cương, giấy bạc Năm Trăm Trần Hưng
Đạo của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam; giấy bạc đô-la của ngân khố Mỹ. Tất
cả cùng trộn lẫn với thịt da thân thể người thành một thứ pháo bông tan
tác bay tung toé, hiện thực nơi trần thế cảnh địa ngục vô vàn mà nhà
thơ Dante người Ý đã diễn tả qua thi ca.
Sáng
29 tháng 4, những tướng lãnh đã ra đi, những sĩ quan cao cấp cũng rời
bỏ nhiệm sở, đơn vị. Nhưng, Trung Úy Phi Công Trang Văn Thành còn lại.
Thành có danh hiệu "Thành mọi" bởi nước da ngâm đen quá độ ra chỗ đậu
tàu.. Anh nổ máy chiếc C119 Hỏa Long, đơn độc bay lên trời xanh bảo vệ,
cứu viện Tân Sơn Nhất. Từ trên cao, Trung Úy Thành thấy rõ những vị trí
pháo của binh đội cộng sản.. Anh nghiêng cánh, chúc mũi chiếc Hỏa Long
căm phẫn trút xuống tràng đạn 7.62 ly, và tất cả hỏa lực cơ hữu của hai
khẩu đại bác 20 ly gắn dưới cánh. Lửa nháng lên dưới thân tàu, toán
phòng không cộng sản phản pháo, nhưng không kịp, Thành bình tĩnh, tài
giỏi lách ra khỏi vùng hỏa tập lưới đạn của giặc. Anh đáp xuống lại phi
đạo thân yêu quen thuộc đang bốc khói mù bởi cuộc dội bom chiều hôm
trước, và cuộc pháo kích cường tập từ sau nửa đêm về sáng của ngày đau
thương tang tóc nầy. Mặc, Thành một mình tự tay nạp đạn vào tàu, anh trở
lại bầu trời trên phi cảng Tân Sơn Nhất - Cửa ngõ của Miền Nam. Anh
nhìn xuống những vị trí pháo cộng sản mà giờ nầy tạm ngưng hoạt động vì
vừa bị anh tấn công.. Hóa ra cả một quốc gia chỉ còn được lần cứu viện
bi hùng tuyệt vọng nầy. Thành chúc mũi tàu, bấm chặt hệ thống kích hỏa
bên cạnh chỗ ngồi, một mình anh lấy đường nhắm.. Một mình anh.. Phải chỉ
một mình anh - Trung úy Trang Văn Thành, "Thành Thiếu Sinh Quân". Thành
hạ thấp hơn để đường đạn thêm phần chính xác. Thân tàu rung mạnh.. Lửa!
Lửa! Lửa cháy ngang cánh trái con tàu, ngay bình xăng, sát cạnh ghế
ngồi.. Thành giật mạnh chốt thoát hiểm để bung thân ra khỏi con tàu. Tất
cả kẹt cứng. Anh dùng tay đẩy cửa buồng lái phóng mình ra, chiếc dù
bung mạnh.. Các múi, dây dù vướng vít rối rắm. Thành bị giữ chặt bởi
chiếc dù và khung cửa. Lửa bừng bừng! Lửa ào ạt... Người phi công chìm
trong lửa, gục chết giữa không gian trên quê hương.
Sáng
30 tháng 4, năm 1975. Sàigòn vắng lạnh. Trời bỗng nhiên trở mưa. Cơn
mưa ngắn, từng giọt khô nồng, u uất. Chiếc xe Zil Trung Cộng từ hướng
đường Trần Hưng Đạo, chạy chậm rãi qua bùng binh chợ Bến Thành.. Những
người đi đường nhìn lên, ngó mông trống trải. Xe tới trước thềm Hạ Viện,
đám thiếu nữ dáng dấp nhà nông nhẩy xuống, một người đội mũ tai bèo,
chắc là người chỉ huy trung đội lính phụ nữ, từ ca-bin xe bước ra, chỉ
chỏ, ban lệnh, kéo từng người vào vị trí gọi là “chiến đấu”... Các đồng
chí, các đồng chí... bố trí đây nì, sẵn sàng tác chiến... Giọng người
vùng miền Bắc Trung Việt cấm cẳng, the thé. Những thiếu nữ thôn quê ngồi
bất động nghiêm trọng. Tất cả đều mặc áo quần mới, áo mầu xanh dương,
quần đen, vải nội hoá còn nguyên dấu hồ, dây đạn đeo chéo qua thân, miết
xuống những thớ thịt ở ngực, phần bụng. Băng đạn trên thân người mới
tinh màu đồng đỏ au.
Từ
Công Trường Lam Sơn, đầu đường Nguyễn Huệ, đám đông dần tập trung để
xem mặt “bộ đội Việt cộng”. Thêm hai xe đổ quân trước rạp Rex. Lính cộng
sản nhẩy xuống, chạy vội vào hàng hiên, nằm, trườn, bò, nháo nhác.
Tiếng đập đục rầm rập từ những cơ sở ngoại quốc, những khối cửa sắt lay
động, phá bung, những tấm kiếng tủ lớn bị đập vỡ, đồ đạc kéo lê hỗn độn,
vội vàng trên mặt đường. Người mỗi lúc mỗi đông. Người dồn dập ùn ùn,
la ó, chưởi thề, giành giựt. Đám đông chạy về phía Building Brink, khu
Đồn Đất, nhà thương Grall, những nơi có cơ sở của Mỹ kiều, những văn
phòng mà chủ nhân đã bỏ đi. Bất chợt, tất cả lắng lại để nghe rất rõ ..
Có người tự tử. Có người mới bắn chết. Ai? Lính hả? Không biết, chỉ thấy
mặc đồ lính mình. Ở đâu? Ở ngoãi, chỗ tượng Thủy Quân Lục Chiến.. Lời
trao đổi đứt khúc, vội vã, mất hút giữa những tiếng thở dồn dập, bước
chân cuống cuồng nôn nóng của đám đông đang hăm hở tiến tới những kho
hàng, cơ sở đầy ắp vật dụng, thức ăn, rượu, bia. Tiếng súng nổ, đạn bay
lên trời... Và những gã thanh niên mang băng đỏ dẫn đám lính cộng sản
chạy lúp xúp vào cổng Tòa Đô Chính. Phía khối tượng đài Thủy Quân Lục
Chiến thấy hình hài một Người Lính vừa tự sát. Buổi Sáng 30 tháng Tư,
1975, chen giữa âm sắc xích xe tăng đổ nhào cửa Dinh Độc Lập có tiếng nổ
khô nhỏ của viên đạn ghim vào, nằm sâu trong đầu Trung Tá Cảnh Sát Quốc
Gia Nguyễn Văn Long.
Trước
cổng Trại Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu Đoàn 1 Dù, Thiếu Tá Trần Công
Hạnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 Dù tròng mắt khô khan ráo hoảnh sau
bao ngày đêm không ngủ sáng lên ánh mắt dứt khoát quyết định ở lại với
những lính của đơn vị khi lắng nghe báo cáo cuối cùng của đại đội giữ
Ngã Tư Bảy Hiền vừa bắn cháy thêm hai xe tăng của quân Miền Bắc... Có
một xác con trẻ trần truồng không biết ai ném ra từ bao giờ lên mặt
đường. Một cô gái mặc áo dài trắng nữ sinh đi đến, gác chiếc xe đạp mini
cạnh lề đường, bình thản, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy góc cạnh chụp
thây đứa trẻ chết. Tay đứa bé mà giờ nầy đã miết xuống mặt nhựa đường
do đám người chạy loạn từ khu Ngã Tư Bảy Hiền giẫm lên. Cô gái nhỏ giải
thích: "Chụp để làm chứng tội ác Mỹ-Ngụy trước khi bọn chúng rẫy chết!"
Hóa ra Sự Ác do cộng sản giáo dục có thể chụp xuống lòng người mau chóng
đến thế sao?" Bấy giờ chỉ mấy mươi phút sau lệnh đầu hàng của Dương Văn
Minh.
Một
trung đội lính Dù mà thật sự chỉ khoảng hơn một Tiểu đội giữ nhiệm vụ
an ninh cư xá Sĩ quan Bắc Hải đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ
Trung Hậu, trước 1972 là Tư lệnh phó Sư đoàn Dù. Chuẩn Tướng Hậu đang
trải chiếc bản đồ trên mui xe jeep, bàn tính với những viên sĩ quan. Khi
biết lệnh đầu hàng đã thi hành, ông vất tung chiếc bản đồ, gầm lên lời
nguyền rủa.. Dẫu vừa nhận lệnh.. "Anh em ai về nhà nấy" từ Tiểu Đoàn
Trưởng Hạnh. Nhưng viên Thiếu úy trả lời quyết liệt: "Tôi không đầu
hàng, tôi với trung đội sẽ ra bến tàu tiếp tục chiến đấu..". Thiếu úy
Huỳnh Văn Thái tập họp trung đội, hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di
chuyển. Trung đội lính ra khỏi cư xá theo lối cổng Đường Tô Hiến Thành,
rẽ vào Nguyễn Tri Phương, đi về phía chợ Cá Trần Quốc Toản, hướng bến
tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái không ra
đến bến Bạch Đằng, khi tới đến bùng binh Ngã Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành
vòng tròn, đưa súng lên trời đồng hô lớn... Việt Nam Cộng Hoà Muôn Năm..
Con chết đây cha ơi! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực nổ sau
lời hô vĩnh quyết cùng đất nước Miền Nam.
Cùng
lúc, trong ngõ nhỏ băng ra Chợ Ông Tạ, tại một căn nhà đã diễn nên hoạt
cảnh uy nghi bi tráng của cả một gia đình quyết tử cùng vận nước. Thiếu
Tá Đặng Sĩ Vĩnh thuộc Khoá 1 Nam Định, chuyên ngành tình báo đặc biệt,
biệt phái ngoại ngạch qua ngành viễn thông, phụ trách đường dây quốc
ngoại. Người con trai lớn của gia đình, Trung Úy Đặng Trần Vinh sĩ quan
Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu. Hai người cùng trao đổi lời đối thoại sau khi
có lệnh đầu hàng. Tùy con, riêng bố đã quyết như đã nói với con từ
trước. Nếu bố đã quyết như thế, con và các cháu cũng đồng lòng. Toàn gia
đình uống chậm những liều thuốc độc cực mạnh đã chuẩn bị từ trước. Cuối
cùng Trung Úy Đặng Trần Vinh kết thúc bi kịch với viên đạn bắn tung
phần sọ não sau khi đứng chào tấm Đại Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ với lời hô
khiến sông núi cũng quặn thắt thương đau. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm!
Ở
Vùng IV, đồng bằng châu thổ Sông Cửu Long, chị Nguyễn Thị Thàng vợ một
Nghĩa Quân Đồn Giồng Trôm, thay chồng giữ đồn đến trái lựu đạn cuối
cùng. Chị kết thúc đời mình bên cạnh thây của chồng, các con, với những
vũ khí, máy truyền tin đã bị phá hủy.. Không để cho Việt cộng một cái gì
cả! Người chồng đã dặn chị trước khi lâm tử. Cùng lần với những danh
tướng vị quốc vong thân Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê
Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn... rất nhiều người không ai biết cấp
Thiếu, Trung úy kể cả binh sĩ, hạ sĩ quan,.. cũng không thiếu những
người dân, những người dân thường đã chết cùng lần vĩnh quyết Miền Nam.
Phần những người còn sống nơi Miền Nam phần lớn, nếu không nói là hầu
hết sau khi đã đi qua biên giới tử sinh nầy đều có mặc cảm phạm tội -
Tội đã sống sót. Đấy là cảm ứng có thật kể từ ngày 15 tháng 3 khi nhìn
đoàn người di tản dọc Tỉnh Lộ 7 từ Pleiku về Phú Bổn, xuống Tuy Hoà. Khi
đứng trên Đèo Hải Vân ngày 25 tháng 3, chứng kiến đoàn người chạy loạn
từ Quảng Trị, Huế vào Đà Nẵng. Khi nghe ra tiếng hờn đau ai oán của
người đàn bà chân trần, tóc rối, lật vạt áo dài ra để thấy đứa con nhỏ
đã chết từ lâu trên tay. Sáng 30 Tháng Tư, mỗi người Việt nơi Miền Nam
từ hoàn cảnh riêng hiểu ra một Mối Đau Chung - Mối đau lần chết thật với
Miền Nam.
Người
Nhật là một dân tộc vĩ đại qua nghi lễ hiến tế, tức Sepuku (mổ bụng tự
sát) khi danh dự cá nhân, tập thể, tổ quốc bị xúc phạm. Dân tộc Việt Nam
không có nghi thức uy hùng, dũng cảm ấy. Tuy nhiên, Người Việt cũng có
phương thức riêng để bày tỏ Lòng Yêu Nước, cách gìn giữ phẩm giá Con
Người. Người Việt xử dụng Cái Chết để chứng thực nguyện vọng kia qua
cách thế im lặng và đơn giản nhưng không kém phần cao thượng. Cuối cùng,
bi kịch không chỉ xẩy ra với thời điểm 30 tháng tư, 1975 mà sau đó,
suốt hai thập niên 70, 80, hai triệu người Việt Nam, không phân biệt
người Nam, hay người Bắc những người đã sống lâu dài dưới chế độ cộng
sản Hà Nội từ 1945, từ 1954... Tất cả đã cùng phá thân băng qua biển
lớn, xuyên rừng rậm vùng Đông-Nam Á, với giá máu 600.000 người chết trên
đường di tản ra khỏi nước. Hóa ra Dân Tộc Việt, những người Việt Nam
bình thường đã đồng lần thực hiện một điều mà họ không hề diễn đạt nên
lời: Chết vì Tự Do để bảo vệ Phẩm Giá, Quyền Làm Người. Người Việt Nam
đã và đang hiện thực điều mầu nhiệm nầy qua từng ngày vượt sống trên quê
hương khổ nạn, với chính thân xác của mình. 41 năm sau Ngày 30 Tháng Tư
ý nghĩa cao thượng nầy vẫn luôn hiện thực với những thế hệ Việt thứ
hai, thế hệ người Việt thứ ba...
Phan Nhật Nam
Ngày 30-4-1975 của 41 năm sau