Nội dung hiệp định Genève đã được viết và nói nhiều. Bài nầy xin trình bày những chuyện bên lề hiệp định Genève.
1) Đầu tiên, hội nghị tứ cường Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Liên Xô khai mạc
tại Berlin ngày 25-1-1954. Đại diện Liên Xô là ngoại trưởng Mikhailovich
Molotov đề nghị mời thêm Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (tức Trung Cộng)
cùng họp. Ngày 26-4-1954, hội nghị gồm tứ cường và có thêm Trung Cộng,
khai mạc tại Dinh Quốc Liên (Palais des Nations) ở Genève, một ngày bàn
về Triều Tiên và một ngày về Đông Dương.
2) Phái đoàn Anh do ngoại trưởng Anthony Eden lãnh đạo. Phái đoàn Hoa
Kỳ do ngoại trưởng John Foster Dulles dẫn đầu. Đứng đầu phái đoàn Pháp
là ngoại trưởng Georges Bidault. Qua tháng 7-1954, thủ tướng kiêm ngoại
trưởng Mendès-France thay thế. Phái đoàn Liên Xô do ngoại trưởng
Vyacheslav Mikhailovich Molotov lãnh đạo và phái đoàn Trung Cộng do thủ
tướng kiêm ngoại trưởng Châu Ân Lai dẫn đầu.
3) Khi gặp Châu Ân Lai ở phòng Giải lao Dinh Quốc Liên, John Foster
Dulles không bắt tay xã giao Châu Ân Lai và bỏ ra khỏi phòng ngay tức
khắc. (Ural Alexis Johnson và Jef Olivarius McAllister, The Right Hand
of Power, New Jersey, Nxb. Prentice Hall, 1984, tr. 204.) Foster Dulles
rời Genève, thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Bedell Smith thay thế.
4) Trong phiên họp ngày 2-5-1954, Liên Xô đề nghị mở rộng thành phần
tham dự, mời thêm các nước trong hai phe lâm chiến ở Đông Dương. Hội
nghị chấp thuận. Như thế, về vấn đề Đông Dương, ngoài ngũ cường, hội
nghị Genève có thêm Quốc Gia Việt Nam (QGVN), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
(VNDCCH) tức Việt Minh, Lào và Cambodge (Cambodia hay Cao Miên). Chín
phái đoàn bắt đầu họp ngày 8-5-1954, một ngày sau khi kết thúc trận Diện
Biên Phủ (7-5-1954).
5) Phái đoàn QGVN do ngoại trưởng Nguyễn Quốc Định làm trưởng phái
đoàn. Một tuần sau, từ 14-5-1954, phó thủ tướng Nguyễn Trung Vinh được
cử qua làm trưởng phái đoàn thay Nguyễn Quốc Định, nhưng ông Định vẫn ở
lại trong phái đoàn. Khi Ngô Đình Diệm được quốc trưởng Bảo Đại cử làm
thủ tướng, chính thức cầm quyền từ ngày 7-7-1954 (Song thất), thủ tướng
Diệm cử tân ngoại trưởng Trần Văn Đỗ qua Genève thay thế Nguyễn Trung
Vinh. Phạm Văn Đồng, phó thủ tướng VNDCCH, thay Hoàng Minh Giám, giữ
chức bộ trưởng Ngoại giao từ ngày 29-4-1954, dẫn đầu phái đoàn VNDCCH.
Phoui Sananikone, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Ngoại giao và Nội vụ,
lãnh đạo phái đoàn Lào; trong khi Tep Phan, bộ trưởng Ngoại giao, dẫn
đầu phái đoàn Cao Miên. (Trần Văn Tuyên, Hội nghị Genève, hồi ký, Sài
Gòn: Nxb. Chim Đàn, 1964, tt. 21-23.)
6) Trước hội nghị Genève, Châu Ân Lai cùng với Hồ Chí Minh đến Moscow
ngày 1-4-1954 để thảo luận lập trường của khối CS. Ông còn đến Moscow
thêm hai lần (6-4 và 20-4) để tìm hiểu và dung hợp lập trường giữa hai
nước CHNDTH và Liên Xô trước khi qua Genève. Trong các cuộc thảo luận
giữa Châu Ân Lai với giới lãnh đạo Liên Xô, đều có Hồ Chí Minh tham dự.
(Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội
nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch
của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954,
chương 5 “Dốc sức lên kế hoạch”. (diendan@diendan.org.)
7) Từ khi hội nghị Genève khai mạc (8-5) cho đến khi hội nghị chấm
dứt (21-7), vào đầu mỗi phiên họp, các phái đoàn CS sắp hàng một, đi vào
hội trường. Đi đầu là phái đoàn Liên Xô do Molotov dẫn đầu; sau đến
phái đoàn Trung Cộng do Châu Ân Lai dẫn đầu và cuối cùng là phái đoàn
Việt Minh do Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Sau mỗi phiên họp, các phái đoàn CS
cũng sắp hàng đúng thứ tự trên, ra khỏi hội trường và dầu trễ, các phái
đoàn CS đều vào họp riêng rồi mới giải tán. (Trần Văn Tuyên, sđd. tt.
24. Lúc đó Trần Văn Tuyên là một thành viên trong phái đoàn QGVN, chứng
kiến việc nầy.) Kiểu họp nầy CS gọi là “họp giao ban”.
8) Sau hơn một tháng họp hành chưa có kết quả, hội nghị tạm nghỉ ngày
20-6 và dự tính sẽ họp lại ngày 10-7. Các phái đoàn về nước tham khảo ý
kiến. Trong thời gian nầy, xảy ra ba sự kiện quan trọng là:
a) Ngô Đình Diệm được quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng toàn
quyền dân và quân sự Quốc Gia Việt Nam. Thủ tướng Diệm đề cử tân ngoại
trưởng Trần Văn Đỗ làm trưởng phái đoàn QGVN tại Genève.
b) Mendès France lên làm thủ tướng ở Pháp. Điều trần trước quốc hội
Pháp, Mendès France tuyên bố sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng
bốn tuần lễ (khoảng một tháng.) Mendès France chính thức nhận chức ngày
21-6-1954. Nếu tính thêm bốn tuần lễ thì vào 20-7-1954.
c) Châu Ân Lai mời Hồ Chí Minh qua Liễu Châu (Liuzhou), tỉnh Quảng
Tây (Kwangsi), hội đàm từ 3-7-1954. Châu Ân Lai báo cho Hồ Chí Minh và
phái đoàn CS biết rằng có ba cách để đối phó với tình hình mới: 1)
Thượng sách là hòa. 2) Trung sách là đánh rồi hòa. 3) Hạ sách là đánh
tiếp. Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh chấp nhận thượng sách là hòa, để
tránh mở rộng chiến tranh, vì nếu tiếp tục mở rộng chiến tranh, Hoa Kỳ
có thể sẽ can thiệp. Châu Ân Lai còn bàn thêm rằng, sau khi chia hai
Việt Nam, Việt Minh rút quân về phía bắc, nhưng cài người và cất giấu võ
khí ở lại. Hồ Chí Minh và phái đoàn chấp nhận kế hoạch nầy của Châu Ân
Lai.
9) Khi hội nghị tái nhóm, Mendès France đích thân đến Genève, hội đàm
với ngoại trưởng Liên Xô Molotov ngày 10-7, và ngoại trưởng Trung Cộng
Châu Ân Lai ngày 12-7. Ba nước Pháp, Liên Xô và Trung Cộng thỏa thuận
giải pháp chia hai nước Việt Nam. Pháp đòi chia hai Việt Nam ở vĩ tuyến
18; Trung Cộng đề nghị vĩ tuyến 16, rồi đổi vĩ tuyến 17. Tối 12-7, Châu
Ân Lai gặp Phạm Văn Đồng, áp đặt ý định của các cường quốc. Phạm Văn
Đồng tuy đòi chia ở vĩ tuyến 16, nhưng cuối cùng đành chấp nhận vĩ tuyến
17, dọc theo sông Bến Hải. Đại biểu QGVN là bác sĩ Trần Văn Đỗ phản đối
việc chia cắt đất nước bất cứ nơi đâu.
10) Cuối cùng, hiệp ước đình chỉ chiến tranh được ký kết sau 12 giờ
đêm 20-7, qua sáng 21-7-1954 trong lúc kim đồng hồ tại dinh Quốc Liên
(Palais des Nations), vẫn được giữ nguyên ở vị trí 12 giờ đêm 20-7-1954,
cho đúng với lời hứa của Mendès-France khi nhận chức thủ tướng Pháp
ngày 21-6-1954.
11) Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (Hiệp định đình chiến
Genève) ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định thuần tuý quân sự,
chia hai Việt Nam ở vĩ tuyến 17, và nói về việc mỗi bên rút quân, tập
trung quân, thời hạn chuyển quân, mà hoàn toàn không đề cập đến một giải
pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
12) Ngày hôm sau (21-7), các phái đoàn họp tiếp và “thông qua” bản “Tuyên bố cuối cùng ngày 21-7-1954 của Hội nghị Genève về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”.
(Déclaration finale du 21 juillet 1954 de la conférence de Genève sur
le problème du rétablissement de la paix en Indochine). Đây chỉ là lời
tuyên bố, không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố nầy. Khi chủ
tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn,
thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng, VNDCCH, Lào và
Cambodge trả lời miệng rằng “đồng ý”. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ không đồng ý, không ký tên vào bản tuyên bố, và đưa ra tuyên bố riêng của mình.
13) Bản tuyên bố nầy gồm 13 điều, trong đó điều 7 ghi rằng: “Để
cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt
Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào
tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những
nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp
định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm
quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề
đó.” Bản tuyên bố nầy không có chữ ký của các phái đoàn, chỉ có
tính cách dự kiến tương lai, thì về pháp lý, không có tính cách cưỡng
hành nghĩa, là không bắt buộc thi hành.
14) Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô
Đình Diệm lo thi hành hiệp định Genève, tập trung và rút toàn bộ lực
lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy
định của hiệp định Genève. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã
trình bày, mà cho đến nay, không có tài liệu sách vở nào cho thấy là
chính phủ QGVN vi phạm hiệp định Genève. Như thế, trong việc thi hành
hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đầy đủ và đúng đắn hiệp
định.
15) Trong khi đó, chủ tịch nhà nước VNDCCH là Hồ Chí Minh (HCM) hội
họp với thủ tướng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa hay Trung Cộng là Châu Ân
Lai tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng) từ 3 đến 5-7-1954, quyết định
bí mật lưu cài cán bộ đảng viên và chôn giấu võ khí ở lại NVN, trường kỳ
mai phục, để chuẩn bị tiếp tục chiến tranh. Trong số cán bộ được cài
lại, có Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiến… Như thế, nhà
nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, và quyết định tiếp tục
chiến tranh trước khi ký kết hiệp định.
16) Thế mà cộng sản Bắc Việt Nam tức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lấy điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng…”
ghép vào hiệp định Genève, rồi khăng khăng buộc tội Nam Việt Nam tức
Việt Nam Cộng Hòa không tôn trọng hiệp định Genève. Đây là một vụ “đánh lận con đen”,
bóp méo lịch sử, vì hiệp định Genève hoàn toàn không quy định việc tổ
chức tổng tuyển cử. Như thế, việc Bắc Việt Nam đưa ra lý do Nam Việt Nam
không tôn trọng hiệp định Genève về việc tổ chức tổng tuyển cử thống
nhất đất nước, hoàn toàn không đúng với nội dung hiệp định Genève.
TRẦN GIA PHỤNG
(DALLAS, 20-7-2019)
No comments:
Post a Comment