Thursday, December 14, 2023

TUỐT GƯƠM RA ! AI ĐÁNH AI?!

 

Phan Nhật Nam

Tiểu đoàn 1 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, Quảng Trị, 1969 (ảnh: UPI Color/Bettmann Archive via Getty Images)      

“Bác” sai từ Đại Hội Tours! (*)

(*) Thành Phố Tours,

Đại Hội thành lập Đảng Xã Hội/Cộng Sản Chi Bộ Pháp/

Đệ Tam Quốc Tế (25-30/12/1920)

Lời Người Viết:

Tuần lễ đầu Tháng Mười Một 2023, người viết đã đề cập về sách “Tuốt Kiếm Phương Xa”, do Phan Lê Dũng chuyển dịch từ Drawn Swords in a Distant Land của George J. Veith. Bài viết không có mục đích thông thường là nhận định, phê bình một cuốn sách, nhưng nhắm tìm hiểu thế nào là Người/Việc (ngoại giao-chính trị-xã hội) của, từ Quốc hội-chính phủ-chính giới Liên Bang Hoa Kỳ đối với chiến tranh Đông Dương/Việt Nam (1945-1954-1975).

Bài viết đã có kết luận tương tự như nhận định của Giáo sư Peter Zinoman (chuyên về sử học/Lịch sử Việt Nam) của Đại Học Berkeley (CA) cho thấy: Bi (thảm) kịch Việt Nam có một đầu mối: “Dĩ Mỹ Vi Trung/Tất cả do từ, của, với Mỹ là Trung Tâm”. Mà suy ra (cho cùng) cũng thấy/hiểu thêm về tình trạng toàn cầu hỗn loạn hiện nay – Cũng từ, tại, với Mỹ. Không (mấy) sai.

Bài viết sau đây (cũng) từ sách của George J. Veith/Bản dịch do Phan Lê Dũng nhằm tìm ra mối liên hệ hữu cơ (trực tiếp): Rút gươm ra để Ai Đánh Ai?      

Dẫn Nhập

Cần lặp lại: Tháng Mười Một 1963 đã xảy ra hai biến cố quan trọng. Trước tiên ở Sài Gòn,  nổ ra cuộc đảo chính quân sự trong Ngày 1 Tháng Mười Một, hậu quả là lần sát hại Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và người em, cố vấn Ngô Đình Nhu trong Ngày 2. Về phía Mỹ, vào Ngày 22 Tháng 11, Tổng thống Mỹ đời thứ 35, John F. Kennedy, bị bắn tử thương tại Dallas, Texas.

Có nhiều lý do, nguồn giải thích về vụ sát hại (60 năm trước) hai vị nguyên thủ của hai quốc gia, không thể kể ra (đủ) trong một bài viết. Người viết CHỈ có thể đúc kết lý do cốt lõi qua thực tế lịch sử được soi rạng từ 60 năm qua. Nguyên nhân ấy là:

Trong lần gặp Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield (Mùa Xuân 1963) với tư cách riêng, TT/ Kennedy ĐÃ nói rõ: “Tôi chỉ có thể rút ra khỏi Việt Nam trong năm 1965 – Sau khi tôi tái đắc cử (sau bầu cử tổng thống 1964)” (Seymour M. Hersh, The Dark Side of Camelot. Boston New York, Little Brown and Company. 1997. Page 430). Phần cuối trang 430, nói rõ thêm về TT/NĐDiệm: “Ngô Đình Diệm bị giết là vì ông ấy muốn thực hiện một điều gì (tương tự như cuộc rút quân dự trù 1965 của TT Kennedy) từ 1963 – Đưa quân Mỹ ra khỏi Việt Nam”.

Trên đây là luận chứng về phía Mỹ và VNCH, thế nhưng về phía đảng cộng sản tại Hà Nội với người cầm đầu có tính danh HCM thì như thế nào? HCM và Trung ương Đảng CSVN-Đệ Tam Quốc Tế CS đã có những dự kiến, mưu định, sách lược, kế hoạch lật đổ chế độ “không cộng sản” của Quốc gia Việt Nam (1948-1955); hai kỳ VNCH (1955-1975) ra làm sao? Bài viết trình bày tiếp cũng căn cứ trên nội dung của “Tuốt Kiếm Phương Xa”/Drawn Swords in a Distant Land.

Một

Sách Drawn Swords in a Distant Land có những nhận định (trung trực) trân trọng: “Miền Nam Việt Nam có riêng câu chuyện của họ nhưng lại bị bỏ qua. Đó là câu chuyện của “Những Ước Mơ”… Ước mơ tự do, ước mơ độc lập, và ước mơ ấm no cho toàn dân. Còn Cộng Sản thì chỉ có độc nhất một tham vọng, đó là giành lấy chiến thắng bằng mọi giá.” Lần đầu tiên, một người viết sử (thuộc thế hệ người Mỹ sinh trưởng, lớn lên sau chiến tranh Việt Nam (1945-1955-1975) khám phá ra “Sự Thật của Miền Nam”: “Sài Gòn đã (phải) thực hiện đồng thời hai mục tiêu: Chiến thắng cộng sản và Xây dựng dân chủ…

Sách “Tuốt Kiếm Phương Xa” cho thấy VNCH không hề là sản phẩm của Mỹ. Vào lúc tối hậu, MNVN không thể vừa xây dựng và chiến đấu! (Tuốt Kiếm Phương Xa, NXB Tiếng Quê Hương. US 2023, trang 22-23).

Trên đây là tóm lược (khá) khách quan và chính xác về phần của VNCH, nhưng về phần CS với/HCM thì thế nào? Sách Tuốt Kiếm Phương Xa có phân tích: “… Sau Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918), Hồ sang Pháp, Nga, Trung Hoa và nhiều quốc gia khác kêu gọi độc lập (cho An Nam – Pnn). Yêu cầu Pháp giúp xây dựng một nước cộng hòa thuộc địa, nhưng khi thấy họ (chế độ Thực Dân Pháp ở Đông Dương –Pnn) không giữ lời hứa cải cách, xây dựng một nước cộng hòa (?), ông bắt đầu tỉnh ngộ. Lời hứa giải phóng các nước thuộc địa thoát khỏi ách thực dân áp bức của Lenin đã thu hút ông và Hồ quay sang chủ nghĩa Mác-xít. Ông trở thành người cộng sản hăng say. (Tuốt Kiếm Phương Xa, trang 34/Drawn Swords in a Distant Land – Encounter Books, US. 2021, Page 10)

Sự thật có phải như nhận định trên hay không dù George J. Veith không thiếu lương tri, lương năng trung trực? Nguyên Ngọc là bút danh của Nguyễn Văn Báu, một cán bộ văn hóa cao cấp của chế độ cộng sản Hà Nội, sinh năm 1932 tại Quảng Nam. Ông gia nhập bộ đội Việt Minh từ 1950 hoạt động vùng Khu V cộng sản gồm các tỉnh Quảng Nam-Quảng Ngãi-Bình Định-Phú Yên, địa giới hành chánh của Quốc Gia Việt Nam (1948-1955) và VNCH (1955-1975).

Sau thời gian ở đơn vị tác chiến, ông chuyển sang làm phóng viên báo Quân Đội Nhân Dân Liên Khu V (?) với bút danh Nguyên Ngọc. Sau Hiệp Định Genève (20/Tháng Bảy 1954), Nguyên Ngọc tập kết ra Bắc, viết cuốn Đất Nước Đứng Lên kể về cuộc chiến chống Pháp (1946-1954). Năm 1962, trở về Nam, Nguyên Ngọc hoạt động lại ở Khu V, và được bầu làm Chủ Tịch chi hội Văn Nghệ Giải Phóng Miền Trung Trung Bộ (?).

Sau 1975, Nguyên Ngọc được nhà nước Hà Nội cắt cử giữ những chức chưởng văn hóa-chính trị quan trọng như, Phó Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn Việt Nam, Tổng Biên Tập báo Văn Nghệ. Trong thời kỳ gọi là “Đổi Mới” và phong trào “Cởi Trói Văn Nghệ” sau 1986, Nguyên Ngọc đã thực hiện những thay đổi quan trọng về nội dung, hình thức tờ báo ông phụ trách. Nhưng cuối cùng, ông phản tỉnh nhận ra – Đảng/Giới Cầm Quyền cộng sản là một lừa gạt. Năm 2011, Nguyên Ngọc rút tên khỏi danh sách đề cử Giải Thưởng HCM. Năm 2015, cùng với 19 nhà văn, nhà thơ tuyên bố từ bỏ Hội Nhà Văn Việt Nam. Năm 2018, Nhà Văn Nguyên Ngọc/Đảng viên văn hóa trung kiên Nguyễn Văn Báu tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng Sản Việt Nam sau hơn 60 năm theo đảng (1950-2018).

Tại một thời điểm sau 2018, trong một buổi gặp thân hữu có tham dự của Nguyễn Thị Bình, cựu Phó Chủ tịch nước (1992-2002); cựu Bộ trưởng Ngoại giao (1969-1976); cựu Bộ trưởng Giáo dục (1976-1987). Trong một lúc bất ngờ, bà Bình hỏi: “Theo các anh, hãy nói thật, (chúng) ta sai từ bao giờ?” Nguyên Ngọc với “lương tâm/tri năng/bản lãnh” của một “nhà văn chiến sĩ cách mạng” nói lên lời tâm huyết “thành thật” cuối đời: “Chúng ta đã sai từ Đại Hội Tours (Đại Hội Đảng Xã Hội Pháp, Thành Phố Tours, 1920-Pnn). Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Thị Bình không đồng ý, nhưng hôm sau bà tìm đến Nguyên Ngọc, ngỏ ý với vẻ buồn rầu (buồn rầu thiệt tình-Pnn): “Hôm qua, chị không ngủ, suy nghĩ suốt đêm, nay buộc phải thừa nhận đồng ý với em!”

Hai

Đối thoại giữa bà Nguyễn Thị Bình và Nguyên Ngọc như trên (tuy có thật) nhưng không đúng và không đủ vì những lẽ như sau:

1/Đại Hội Tours tức Đại Hội Thợ Thuyền Quốc Tế lần Thứ 18 (25-30 Tháng Mười Hai  1920) tại Thành Phố Tours, nước Pháp. Năm 1920, cả bà Bình (sinh năm 1927) và cán bộ Báu/Nguyên Ngọc (sinh năm 1932) đều chưa ra đời. Đảng cộng sản Đông Dương/CSVN cũng phải đến 3 Tháng Hai, 1930 mới được thành hình ở Trung Hoa. Thế nên khi nói “Ta/Chúng ta/Đảng CSVN sai từ Đại Hội Tour (1920) là cách nói lấy có, làm ra vẻ “thành thật/can đảm nhận lỗi” – Nhưng rõ ràng là đánh tráo mối tội có thật từ, của “một kẻ khác” mà bà Bình và Nguyên Ngọc không có can đảm/bản lĩnh để nói (trắng) ra!

2/Nói như #1 là “đánh tráo TỘI” cho một nhân sự khác: Đấy là người thanh niên tên Nguyễn Sinh Cung, quê Nghệ An (sinh 1890/1892? – theo những tài liệu chính thức, nhưng chưa chắc đúng-Pnn). Ngày 5 Tháng Sáu 1911, Nguyễn Sinh Cung/Nguyễn Tất Thành lấy tên Văn Ba lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên tàu buôn Đô Đốc Latouche-Tréville. Sau hơn một tháng đi biển, tàu cập bến Marseille.

Tại Pháp, Nguyễn Sinh Cung/Nguyễn Tất Thành viết thư gởi đến Tổng thống Pháp, xin được nhập học Trường Thuộc Địa (École Coloniale) với hoài bão sẽ “giúp ích cho nước Pháp”. Thư xin học bị từ chối, Nguyễn Tất Thành qua Mỹ, Anh làm việc lao động nặng để sinh sống, cuối năm 1917 trở lại Pháp. Tóm lại, quá trình từ 1911 đến 1917, cụ thể cho thấy, thanh niên Nguyễn Sinh Cung/Nguyễn Tất Thành đã phải bận rộn về sinh kế như tất cả mọi người Việt trẻ tuổi, không nghề nghiệp, không học vấn ở hải ngoại. Thế thì “tội của Bác” sai như thế nào với Đại Hội Tours?”

3/Trong thời gian từ 1919 đến 1923, ở Paris, thanh niên Nguyễn Tất Thành gia nhập Nhóm “Những Người An Nam Yêu Nước/Groupe des Patriotes Annamites/The Group of Vietnamese Patriots. Lưu ý: Nhóm “gồm nhiều người/Des ParioteS/Vietnamese PatriotS” bao gồm những nhân sự có danh tính, học vị cao: Phó Bảng Phan Chu Trinh, Luật Sư Phan Văn Trường, Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh. Trước khi dự Hội Nghị Tours, 1920, Ngày 18 Tháng Sáu 1919, nhân (tiếm) danh của Nhóm Người Annam Yêu Nước, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Ngoại trưởng Mỹ đang tham dự Hội Nghị Versailles Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc An Nam/Revendications du Peuple Annamite/Claims of the Annamite People – Lá thư chỉ có thể do Luật Sư Phan Văn Trường, đại diện nhóm soạn thảo.

4/Năm 1923, với (tiếm) danh Nguyễn Ái Quốc (chưa có HCM-Pnn), Nguyễn rời Paris đi Moscow vào học trường Đại Học Thợ Thuyền Phương Đông về những điều gọi là “lý thuyết đấu tranh giai cấp”, mà nay, qua thế kỷ 21, chẳng thấy “giai cấp đấu tranh” nơi đâu, chỉ thấy thuần một giai cấp đảng viên cộng sản trấn áp toàn thể các dân tộc ở Cuba, Trung Cộng, Bắc Triều Tiên, Việt Nam… Cần kể thêm hiện tượng “Nhà nước (gọi là) XHCN đàn áp các chính phủ quốc gia nhược tiểu” như giới cầm quyền Bắc Kinh đã và đang cố công thực hiện – Tai họa toàn cầu mà nhà xã hội học người Hung, Tibor Mende (1915-1984) đã báo động về hiểm họa gọi là XHCN.

Tóm lại, không phải “ta/chúng ta sai từ sau Đại hội Tours” mà “Bác ta” đã dùng đến mấy mươi năm từ “Đại hội Tours” kia thành đầu mối tai họa, trải dài qua Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, Pắc Bó, Hà Nội, Lộc Ninh… từ 2 Tháng Chín 1945; 20 Tháng Bảy 1954; 20 Tháng Mười Hai 1960; 1968; 1972; 1973… đến 30 Tháng Tư 1975 tại Sài Gòn với những tay em, học trò đắc lực như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ… Những người mà bà Bình và Nguyên Ngọc (cũng) không dám gọi nên tên.

Chiến công đánh chiếm Quảng Trị Mùa Hè 1972 của lực lượng cộng sản Bắc Việt sau nầy được đúc nên tháp chuông tưởng niệm, khánh thành Ngày 29 Tháng Tư 2007 – Đúng ngày pháo cộng sản tàn sát (dân) trên Đại Lộ Kinh Hoàng, 29 Tháng Tư – 1 Tháng Năm 1972. Bà Nguyễn Thị Bình, Cựu Phó Chủ Tịch Nước (1992-2002) đã đến chủ tọa buổi lễ, dâng hương tưởng niệm. Bản tin Báo Sài Gòn Giải Phóng không hề đề cập tới vong linh hàng ngàn người dân Quảng Trị (không kể lính) bị thảm sát trên Đại Lộ Kinh Hoàng trong những ngày Hè năm 1972 vì đấy là “ngụy quân-ngụy dân của chế độ ngụy Sài Gòn”.

Bà Nguyễn Thị Bình, nhà văn Nguyên Ngọc nhắc đến Đại hội Tours 1920 làm gì? Xa quá. Chuyện mới gần đây thôi.

Ba

Trở lại chuyện nước Mỹ, ngày 16 Tháng Sáu 2023 vừa qua, nhân vật tiếng tăm trong giới truyền thông, báo chí Mỹ từ thập niên 1960 tên Daniel Ellsberg từ trần ở tuổi 92 (sinh 1931). Đây là một chuyên viên cao cấp phân tích quân sự/quốc phòng Mỹ; từ kinh nghiệm phản chiến (Chiến tranh VN trong giai đoạn 1964, 1965…). Ellsberg đã có một quyết định táo bạo (và “can đảm”): Cho tiết lộ 7,000 trang tài liệu về sự “dối trá lịch sử” của, từ (chính quyền, Quốc hội Mỹ) qua điều hành chiến tranh và thất bại (chắc chắn đã thấy tại 1975-Pnn) ở Việt Nam.

Cuộc chiến khiến nước Mỹ bị chia rẽ, tổn thương với hậu quả, hệ quả kéo dài trên nhiều mặt đến hôm nay, thế kỷ 21. Theo hồ sơ Ellsberg tiết lộ, chiến tranh Việt Nam (lần thứ hai) được/bị khởi động từ sự kiện ngày 2 và 4 Tháng Tám 1964 xảy ra nơi Vịnh Bắc Việt, được hợp thức hóa bởi lưỡng viện Quốc Hội Mỹ thông qua Nghị Quyết 1145 (7 Tháng Tám 1964) đồng thuận với số phiếu gần như tuyệt đối (Hạ Viện: 416-0; Thượng Viện: 88-2) cho phép Tổng thống Johnson toàn quyền hành động, mở rộng chiến tranh trừng phạt cộng sản Bắc Việt, cứu nguy Miền Nam, giữ vững Đông-Nam châu Á.

Từ Tháng Tám 1964 đến nay, 2023 là 59 năm – Tất cả vấn đề của Đông Nam Á/Ba nước Đông Dương/Nam-Bắc Việt Nam cho thấy, là Mỹ và Trung Cộng (đã/đang/sẽ) ứng xử với nhau như thế nào?

Vấn đề vừa kể ra trong năm xa xôi 1954, 1964, 1968, 1972, 1975… kia không hiểu những nhân sự như Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon (lúc ấy) thấy ra không/Thấy được bao nhiêu phần? Nhưng bởi Dĩ Mỹ Vi Trung – Người trí thức tiến bộ Daniel Ellsberg năm 1971 phải “can đảm/sáng suốt” cứu nước Mỹ – Pentagon Papers/Hồ Sơ Ngũ Giác Đài được giương lên ngất ngất với Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt/Tonkin Gulf Resolution 1145.

28 Tháng Ba 1965 Mỹ đổ quân lên Đà Nẵng, tuy nhiên từ 15 Tháng Tư 1967 đã thành hình cuộc biểu tình phản đối chiến tranh lớn nhất trong lịch sử Mỹ với hàng trăm ngàn người xuống đường nơi khu Manhattan, New York; 23 Tháng Mười 1967 biểu tình lan rộng tới trước Ngũ Giác Đài, đối mặt Tòa Bạch Ốc với cờ của Mặt Trận Giải Phóng, ảnh HCM và tấm bảng buộc tội Tổng thống Mỹ: “Johnson War Criminal”.

Chiến dịch/đúng ra là chiến lược gọi là “phản đối chiến tranh (ở Việt Nam)” không chỉ tác động về mặt xã hội-văn hóa trong quần chúng Mỹ nhưng là (lại) nguồn mối/hậu quả/hệ quả của một chiến lược lớn: Thông Cáo Thượng Hải 1972 được ký kết giữa Nixon và Châu Ân Lai hiện thực nền tảng ngoại giao cho tám đời Tổng thống Mỹ (bất kể Cộng Hòa hay Dân Chủ). Năm 1995, tại Hà Nội, cựu Bộ trưởng Quốc phòng McNamara than vãn với Tướng Giáp: “Tôi (đã) sai. Tôi sai quá sức/Wrong, terribly wrong”. Hóa ra – Vào cũng bởi Mỹ/Ra cũng với Mỹ – Chết đến 58,220 Người Lính Hoa Kỳ.

Kết Luận

Cuối cùng, câu chuyện kể trên giữa bà Bình và Nguyên Ngọc cho thấy: Bà Bình và những người ủng hộ đường lối (sai) của đảng nhưng không (biết) chắc sai từ thời điểm nào; và cách trả lời của Nguyên Ngọc (thì) cho thấy ông biết chính xác hơn khi nhấn mạnh sai từ khi Hồ Chí Minh (đúng ra là Nguyễn Ái Quốc/Linov – Pnn) giang tay gia nhập Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản tại Đại Hội Tours, 1920.

Mà mục tiêu của Đệ Tam Quốc Tế (thì) đã đóng đinh sâu vào nhận thức của Nguyễn Ái Quốc/HCM và hàng ngũ lãnh đạo đảng từ thập niên 1930. Chính sách của Đảng cộng sản không thay đổi từ đó đến nay. Sách Tuốt Kiếm Phương Xa/Drawn Swords in Distant Land nếu điều chỉnh lại những chi tiết đã kể ra sẽ giúp người đọc thuộc nhiều thế hệ tìm hiểu được một cách khách quan, chính xác hơn mối liên hệ trực tiếp giữa Mỹ/Việt Nam/Nam Việt Nam/cộng sản Bắc Việt trong suốt thời gian dài trước, sau kết thúc 30 Tháng Tư 1975. Để biết rõ ràng hơn Ai Đánh Ai!

Phan Nhật Nam,

Sau 63 năm ở Lính

23 Tháng 11, 1961-2023

Nguồn : https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/tuot-guom-ra-ai-danh-ai/

Wednesday, November 29, 2023

CÓ GÌ TRONG "TUỐT KIẾM PHƯƠNG XA" CỦA GEORGE J. VEITH

 TRỊNH BÌNH AN

Tháng 3 năm 2021, nhà biên khảo George J. Veith ra mắt tác phẩm:

Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams.”

Đây là cuốn sách biên khảo thứ tư của ông về Chiến Tranh Việt Nam.

Tháng 11 năm 2023, cuốn sách được dịch giả Phan Lê Dũng chuyển ngữ, với tựa:

Tuốt Kiếm Phương Xa – Những Giấc Mơ Tan Vỡ Của Miền Nam Việt Nam.”

***

Theo George J. Veith, cái nhìn về “Vietnam War” của thế giới cực kỳ đơn giản:

Hà Nội được ban cho chủ nghĩa dân tộc, còn Sài Gòn được định là phải thua.

Sự sụp đổ thảm hại của Miền Nam tháng Tư 1975 dường như chứng minh cho cách nhìn trên là đúng. Vì lẽ đó, chẳng có gì cần bàn cãi thêm nữa.

Drawn Swords” là chữ rút ra từ Kinh Thánh. Tác giả ngụ ý: Thất bại của Miền Nam chẳng phải lỗi tự người mà là do Trời giáng xuống oan khiên.

Shattered Dreams” bởi vì:

Miền Nam Việt Nam có riêng câu chuyện của họ nhưng lại bị bỏ qua. Đó là câu chuyện củaNhững Ước Mơ” – như lời của một người Miền Nam: “Chúng tôi có rất nhiều ước mơ: ước mơ tự do, ước mơ độc lập, và ước mơ ấm no cho toàn dân. Còn Cộng Sản thì chỉ có độc nhất một tham vọng, đó là giành lấy chiến thắng bằng mọi giá.”

Lần đầu tiên, một sử gia ngoại quốc khám phá ra “Sự Thật của Miền Nam“:

Sài Gòn đã thực hiện đồng thời hai mục tiêu:

Chiến thắng cộng sản và Xây dựng dân chủ.

Để hoàn thành hai nhiệm vụ to lớn ấy, người dân Miền Nam phải vượt qua di sản suy tàn của chế độ thực dân Pháp. Họ phải đương đầu rất nhiều thử thách: Thiếu đoàn kết dân tộc, xung đột quân dân, thể chế chính trị chưa phát triển, và nhiều vấn đề khó khăn khác.

Tệ hơn, họ phải giải quyết khó khăn trong khi sát nách là kẻ thù hung hiểm: Cộng Sản.

Tuốt Kiếm Phương Xa” cho thấy Việt Nam Cộng Hòa không hề là sản phẩm của Mỹ.

Nền kinh tế Miền Nam VN cho tới nay vẫn bị cho là kém cỏi, nhưng sự thực nền kinh tế ấy đã có những ảnh hưởng to lớn nhờ tạo ra được sự bình đẳng trong dân chúng, như chương trình “Người Cày Có Ruộng.”

Tuốt Kiếm Phương Xa” còn xem xét kỹ lưỡng vai trò chủ chốt của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong nỗ lực đem lại hòa bình và chiến đấu chống giặc.

***

Từng là một người lính, khi khép lại cuốn sách trên 10 năm biên soạn, “Jay” không khỏi cảm thán khi nghĩ tới số phận nghiệt ngã của những người lính không cùng màu da, không cùng tiếng nói – những người lính “in a Distant Land.”

Những người Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa không thể giải thích rõ ràng về bản thân họ với những người ngoại quốc. Họ không thể giãi bày với quốc tế về những điều họ đã phải đương đầu.

Kết quả, mặc dù chiến đấu kiên cường bất khuất, Việt Nam Cộng Hòa đã thua trận trước khi quốc gia non trẻ này có thể hoàn thành việc phát triển.

Trong rất nhiều năm, Việt Nam Cộng Hòa đã gánh chịu nhiều định kiến nặng nề. Và, những người Quốc Gia (Nationalists) cũng lặng lẽ ôm mối thống hận. Bởi, họ cho rằng mình có tội – Tội làm mất nước.”

Giờ đây lịch sử phải trả lại công bằng cho Miền Nam Việt Nam.” 

Trịnh Bình An

(11/2023)

Ghi Chú:

George J. Veith– Cựu Đại Úy binh chủng Thiết Giáp Hoa Kỳ từng phục vụ tại Đức quốc. Khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt 4/1975, “Jay” chỉ mới tốt nghiệp trung học nhưng luôn quan tâm tới vấn đề POW/MIA. Hai tác phẩmđầu tiên: “Code-Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War ” (1998),và “Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for American POW/MIAs from the Vietnam War” (2004).

Khi gặp gỡ Thiếu Tướng Lê Minh Đảo để tìm hiểu thêm về mặt trận Xuân Lộc 1975, tướng Đảo yêu cầu Jay thực hiện một cuộc biên khảo trung thực về Việt Nam Cộng Hòa. Kết quả,cho ra đời tác phẩm “Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-75” (2012).Sách tiếng Việt có tựa “Tháng Tư Đen” (2013)do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ phát hành.

Năm 2021, George J. Veith tốt nghiệp tiến sĩ Đại Học Úc Châu “The Univeristy of Aderlain“với luận án về Việt Nam Cộng Hòa.Tác phẩm thứ năm của Jay có tên “Peace, POWs, and Power.” (2023). Mời vào thăm trang nhà của George J. Veith: www.thangtuden.info

Tuốt Kiếm Phương Xa” – 800 trang. Ấn phí $40 usd. Tủ Sách Tiếng Quê Hương xuất bản năm 2023. Để mua sách qua bưu điện, xin gửi chi phiếu về: VLAC /TS Tiếng Quê Hương –  P.O. Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA. Liên lạc email: uyenthaodc@gmail.com. Hay, đặt mua online trên trang Barnes & Noble.https://www.barnesandnoble.com/w/tuot-kiem-phuong-xa-dung-phan/1144049817

Monday, November 6, 2023

NHỚ VỀ MỘT THUỞ XƯA CÒN SAIGON…


Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệmLogo Sài Gòn năm 1870. Khi chiếm Sài Gòn, người Pháp đã sáng tác ra logo này. Hình ảnh hai con cọp trong logo thể hiện đây là vùng đất hoang sơ. Nhưng dòng chữ Latinh Paulatim Crescam có nghĩa là : “Cứ từ từ, tôi sẽ phát triển”. Hình ảnh con tàu hơi nước ở giữa logo cho biết đây là vùng đất nhiều kênh rạch. Phía trên có vương miện 5 cánh như thông báo Sài Gòn sẽ giao thương với năm châu bốn biển. Logo Sài Gòn 1870 thể hiện cách nhìn hoang sơ và triển vọng Sài Gòn của người Pháp. 
Tới thời VNCH, Sài Gòn là "Hòn Ngọc Viễn Đông"

 

NHỚ VỀ MỘT THUỞ XƯA CÒN SAIGON…Đêm Nhớ Về Sài Gòn - Khánh Ly ca

"Ðể đêm đêm ... nhớ về Sài Gòn Thấy mình vừa trở lại quê hương Ðã gặp người một trời yêu thương cho lòng thêm chút ấm Thấy bạn bè thèm ngồi bên nhau Nhắc chuyện người chuyện đời thương đau Tình chia trong đêm sầu"

CHO TOI DUOC MOT LAN - LE THU - SAIGON VIETNAM YESTERDAY PHOTOS"Cho tôi được một lần Nhìn quê hương đợi sáng Ðời thôi oán thôi hờn Mến thương cùng kiếp người " 

Bộ mặt Sài gòn, lúc 1955, người ta còn thấy những thầy Cảnh Sát được gọi là Mã Tà, đứng huýt còi ở các ngã tư đường. Vậy mà chẳng bao lâu chữ gọi mã tà đó đã biến mất.

Và sau này, sẽ còn nhiều cái biến mất như thế.

Nhiều cái biến mất như thế để Sài Gòn như hôm nay

Người ta vẫn còn thấy những xe thổ mộ đủng đỉnh, kêu lóc tóc vui tai với các lục lạc của xe ngựa kéo trên các con đường từ chợ Bến Thành xuống tận Ngã Tư Bảy Hiền, hay từ Bến thành đi chợ Bà Chiểu. Nó vẫn như ngang nhiên thách đố với các tuyến đường xe buýt nay đã chật ních người. Nó vẫn có những khách hàng quen thuộc là những người thuộc giới bình dân, giới buôn thúng bán mẹt.

Nó chỉ dần dần biến mất lúc nào không ai hay khi mà những chiếc xe Lambretta ba bánh nhập cảng từ Ý đã được chế biến lại cùng chạy trên những tuyến đường đó. Xe Lam nhanh hơn, chở tới 12 người, 10 người ngồi ở đằng sau, khi cần, có thể ghé thêm hai người ngồi bên cạnh tài xế. Vậy tất cả là 13 người chứ không 12. Xe lại có nhiều chuyến hơn, cứ đầy là chạy và ngồi thoải mái hơn. Đặc biệt bên hai thành xe có ghi hai câu: Hữu sản hóa, đợt tự chủ. Nếu tôi nhớ không lầm chính sách hữu sản hóa này là ở dưới thời ông Kỳ làm Thủ tướng.

Nhưng xe xích lô ba bánh, xích lô đạp, đặc sản miền Nam vẫn tồn tại trong suốt 20 năm miền Nam còn lại.

Người trung thành nhất với xích lô đạp, phải chăng là thi sĩ Vũ Hoàng Chương? Có thể ông nghèo vì hút thuốc phiện, nhưng mỗi lần đi dạy ở trường Chu Văn An ông luôn luôn đến trường bằng xe xích lô đạp. Quần áo luôn luôn là ủi thẳng nếp, thắt cravate, tay áo manchette bằng vàng, đầu chải bóng. Người chạy xích lô đạp thường tranh nhau mời ông không phải vì ông là thi sĩ, mà vì người ông nhẹ như bấc, không chắc ông có cân nặng bằng nửa số ký của người khác không?

Tác giả Lửa Từ Bi hồi 75 đã đi tù Cộng Sản. Ông nhẹ như bấc, không biết người Cộng sản sợ ông nỗi gì, sợ một người nhẹ như bấc mà đầy đọa ông trong tù. Hỡi những kẻ ngồi lom khom viết bài bênh “Cụ Hồ” nghĩ gì về việc đầy đọa trong tù một thi sĩ trói gà không chặt? Lúc họ thả thì vài ngày sau, ông giã từ cõi thế. Chắc ông cũng chả muốn sống làm gì?

Và có ai ngờ rằng, xích lô đạp vẫn có chỗ của nó sau hơn nửa thế kỷ sinh tồn.

Sau giải phóng, rất nhiều nhà văn, nhà báo, chuyên viên, giáo sư đổi ra đạp xích lô. Đó cũng là một góc cạnh về thế hệ thanh niên miền Nam đọa đầy dưới gót của đôi dép râu?

Và tự nhiên nay nó trở thành biểu tượng nếp sống văn hóa của một thời. Hà Nội nay nhan nhản xích lô đạp dành cho khách du lịch chạy vòng vòng quanh khu phố cổ Hà Nội.

Người ngoại quốc danh tiếng nào đến Việt Nam thì cũng có dịp ngồi trên đó cả. Vợ chồng Brad Pitt và Angelina Jolie cũng có dịp ngồi xe xích lô cho biết mùi vị Việt Nam.

Nhưng cái đổi thay rõ nét nhất là cái áo dài con gái thay thế cho chiếc áo bà ba, chiếc quần hai ống rộng. Chẳng bao lâu sau, chẳng biết từ lúc nào toàn miền Nam mà đặc biệt các nữ sinh Trung Học, từ Sài gòn ra Trung, từ Sài gòn xuống Lục tỉnh. Chỉ áo dài là áo dài. Áo dài Trưng Vương, áo dài Gia Long, áo dài Nguyễn Bá Tòng, áo dài Nữ trung học Lê văn Duyệt, áo dài Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, áo dài Tống Phước Hiệp, Vĩnh Long, áo dài Nữ Trung Học Nha Trang và nhất là áo dài Đồng Khánh Huế.

Và nó cũng mở đầu cho thiên tình khúc tuyệt vời Ngày xưa … Hoàng Thị của Pham Thiên Thư:

Em tan trường vềĐường mưa nho nhỏ..Anh đi theo hoàiGót giày thầm lặngĐường chiều úa nắngMưa nhẹ bâng khuâng

Em tan trường vềCuối đường mây đỏBước em thênh thangÔm nghiêng cặp sáchVai nhỏ tóc dàiÁo em ngày nọPhai nhạt mây mầuChân tìm theo nhauCòn là vang vọng …

Nó biểu tượng cho cái gì tinh khiết, trinh nữ, tinh tuyền và mời gọi. Nó che dấu bằng hai vạt áo dài mà như thể mở, biện chứng kín mà hở. Nó mời mọc mà kín đáo chối từ, nó bày tỏ phái tính, sexy đến ứ cổ họng với nét nổi lên của chiếc quần lót hằn lên tuổi dậy thì. Không có y phục phụ nữ nào trên thế giới lại sexy đến như thế. Ngay cả sau này với mini-jupe cũng không sánh bì.

Nó không cần đến những Cardin, Courrèges, St. Laurent, Paco Robanne. Cùng lắm, nó chỉ thua Le Panty, Monokini, quần lót Le petit bâteau của thập niên 1970 Nhưng những thứ này phải “ăn gian” từng centimét mới có được như thế.

Áo dài không ăn gian. Cạnh đó là hàng nút bấm mong manh như lối ngõ vào bên trong nằm hở ra cạnh sườn. Nó không những chỉ là một nét đẹp con gái mà nó trở thành biểu tượng cho một nếp sống văn hóa Việt Nam.

Sau này, không biết bao nhiêu những tranh ảnh, bìa báo Xuân, báo Tết chụp hình các thiếu nữ trẻ miền Nam trong chiếc áo dài truyền thống đó. Và người ta có thể hãnh diện về điều này mà không có gì phải hổ thẹn khi nói đến. Tuổi thanh xuân thiếu nữ đi liền với nét đẹp con gái ấy.

Nó phản ánh thế hệ thanh thiếu nữ thời ấy mà hễ bất cứ ai không còn là con gái, xồ xề một chút, vùng đùi, vùng mông nở nang một chút là mặc áo dài thường khó coi.

Sự đòi hỏi của tôi có khắt khe quá chăng? Nhưng chính sự đòi hỏi khắc nghiệt ấy làm tăng giá trị chiếc áo dài miền Nam tuổi trẻ. Nhiều phụ nữ, các bà mặc trong các dịp lễ hội. Thấy làm sao.

Rất tiếc sau 75, ra ngoài đường, Sài gòn vắng bóng chiếc áo dài. Cũng là vắng bóng tuổi trẻ miền Nam? Hay tuổi trẻ miền Nam không còn nữa? Người ta không còn phân biệt ai là con gái, ai là đàn bà được nữa, đến như thể ai cũng là đàn bà, đến như thể ai cũng mất cả rồi.

Khi không còn những áo dài đó, Sài gòn buồn thiu. Như cây rừng không còn lá.

Tuổi trẻ miền Nam thời ấy biểu tượng vẫn là hình ảnh cô thiếu nữ mặc áo dài trắng quần trắng. Đừng thứ mầu khác, đừng xanh đỏ lò loẹt. Vén tà áo dài sang bên, hở một bên, kín một bên, cho thấy đùi trinh nữ, cho thấy tuổi dậy thì, hai đùi nhẹ khép lại khi bước đi hay khi ngồi trên chiếc xe vê lô sô lếch thời thượng.

Bây giờ, tôi không thấy những bước đi kiêu sa thiếu nữ như thế nữa. Đó là hình ảnh cô gái, mình ong thon thon ngồi trên chiếc xe Solex trông giống như một con bò ngựa biết bay. Phất phới, tung gió, nhẹ lướt, mái tóc hất lại đẵng sau, đầu buộc bím mầu xanh tím, để lại đằng sau những cái nhìn dõi suôi bắt không kịp. Và những đôi mắt thèm thuồng.

Ingarary gọi đó là một chuỗi diễn hành phái tính (Mascarade de la fénimité )

Giấc mơ em mặc jupe hồng … thôi rồi Sài Gòn ơi!

Xin mượn lời thơ của Nguyên Sa:

Có phải em mang trên áo bayHai phần gió thổi, một phần mâyHay là em gói mây trong áoRồi thở cho làn áo trắng bay?Em cười tà áo bay trênĐám mây ở dưới nỗi phiền muộn xaAnh ngồi chỗ hẹn hôm quaĐám mây ngồi cạnh bài thơ nhẹ nhàng,Giấc mơ mặc áo lụa vàngNơi anh nằm ngủ có hàng Thùy dương(Nhẹ nhàng)

Trong khi đó thì những cậu con trai cỡi xe Vespa, đời ED, đôi kính mầu đen, chiếc áo Montagu, mầu xanh đậm rồ ga hay lượn uốn éo. Nếu Solex là con gái, thì Vespa là con trai. Nếu Solex là con bọ ngựa thì Vespa là con bọ hung. Solex là nữ tính, Vespa là nam tính.

Nếu con gái ăn quà thì con trai Bát phố. Bát phố phải chăng là nói nhại từ tiếng Pháp battre le pavé? Thôi thì là gì cũng được. Và xin mượn lại chữ nghĩa của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng:

… Từ xa phố chợ đến giờChân thôi bỏ lệ gõ bờ lộ quen

Bát phố là một thứ giải trí chiều thứ bảy của con trai Sài gòn. Mà điều căn bản là có mặt. Làm gì, bận bịu gì cũng bỏ đi Bonard bát phố. Sinh viên, học sinh các lớp tú tài, lính tráng đi hành quân ở xa về, công chức các bộ, các nha đều đi dạo phố, ngắm người hay rửa mắt. Mà phần lớn bọn họ là độc thân, chưa có vợ con. Nếu sang một tí thì vào Givral ngồi, tàm tạm thì một ly nước mía Viễn Đông cũng xong.

Đi dạo phố trở thành một thói quen, một nếp sống của con trai Sài gòn. Ngoài Sài gòn, tôi chỉ thấy ở Huế có sinh hoạt bát phố tương tự. Nhưng ở Huế, số con gái đi dạo phổ kể là đông và đi từng nhóm hai ba cô. Họ sợ bị bắt nạt chăng? Cô nào cũng có chiếc nón không phải để che nắng, che mưa mà để che cái nhìn trộm của con trai. Gái Huế đi dạo trên đường Trần Hưng Đạo mới thật là một diễn hành phái tính. 10 lần ra Huế thì y như rằng ra đi là để lại một cái gì?

Con gái biểu tượng nhất, cái Look theo nghĩa bây giờ là hình ảnh cái thân hình dong, lưng thẳng, găng tay trắng, cặp kính mầu, áo dài trắng, phải áo dài trắng mới được, mới con gái, mới trinh nữ, mới thanh khiết. Vạt áo dài phía sau vắt ngang sang bên kia để hở một bên phần đùi trông cộn hẳn lên trên chiếc Vê lô solex mầu đen. Đi xe vê lô solex chứng tỏ con nhà khá một tý, sang trọng và đài các. Cái dáng ngồi solex trông rất con gái, rất phái tính.

Người phụ nữ sinh ra là để như vậy. Les femmes seraient faites ainsi. Quyến rũ bằng chính thân xác mình.

Nhờ áo dài đó mà phụ nữ, cô nữ sinh trở thành phụ nữ hơn. La robe lui permettait de devenir plus féminine. Phải nói là thời thượng và ấn tượng lắm. Cộng thêm cái thói ăn quà vặt. Ăn qùa vặt là rất con gái, rất trẻ, rất bắt mắt. Khi cô nữ sinh ăn quà thì tưởng là ăn quà thật. Nhưng đôi khi cũng chỉ là cái cớ sự cho sự trình diễn, sự được nhìn. Nó như chờ đợi một điều gì đó. Điều mà Thị Nở đã chờ đợi từ tuổi 15, 16 thời con gái, nay đà 30 và bao nhiêu thế hệ con gái cũng đã chờ đợi như thế. Như cơn mưa mùa hạ. Như chồi non hé nụ. Như em chờ anh lúc này. Chí Phèo chỉ đến hoàn tất công việc chờ đợi ấy.

Cuộc đời đôi khi đơn giản là như thế.

Vespa Sài Gòn (thập niên 1960)

Ngoài hai thứ đó ra, con gái cũng đi dạo phố. Con trai đi dạo phố là để ngắm. Con gái đi dạo phố xuất hiện như một trình diễn, ăn diện, mốt, kiểu để được nhìn, để được thừa nhận, để nhận phần lớn là những lời tán tỉnh, khen tặng.

Đó là cả một cái guồng máy của sự xuất hiện. L’engrenage du paraitre .

Và cuối cùng, thú vui giải trí chung cho cả con trai lẫn con gái vẫn là ciné và tiệm sách. Ciné là nơi hẹn hò để trai gái gặp nhau cuối tuần để trò chuyện, để tỏ tình, để lén lút hôn nhau. Những nụ hôn mật ngọt ấy. Quên sao được. Những mối tình của giới trẻ thời đó đến đó và dừng lại ở đó. Sau đó để lại một chút gì. Để kỷ niệm, để nhớ, để mãi mãi là như thế.

Nay gặp nhau cuối đời, lòng như chợt tỉnh, như chấu ủ bếp lửa bừng lên từ đám tro tàn. Gặp nhau muộn phiền, thương hoài ngàn năm.

Viết đến đây lại chợt nghĩ đến Nguyên Sa. Ông đã nói hộ cho tuổi trẻ Sài gòn:

Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mátBởi vì em mặc áo lụa Hà ĐôngAnh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng

Tuổi trẻ miền Nam là như thế. Lành mạnh mà không thiếu lãng mạn, tình tứ. Dắt tay nhau mà đi. Làm thơ tình. Gởi gắm nhắn nhe.

Chân díu bước mà mắt nhìn vương vướngNàng đến gần tôi chỉ dám quay điCả những giờ bên lớp học trường thiTà áo khuất thì thầm chưa phải lúc (Tuổi mười ba)

Nhưng may thay, mọi người Việt Nam, nhất là thanh niên, giới trẻ, lúc bấy giờ đều có một giấc mơ là làm thế nào để có một miền Nam phát triển và phú cường để đối địch với miền Bắc.

Cafe Givral, Mở cửa từ năm 1950

Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.

Chúng tôi đã lớn lên từ đó, trở thành người hữu dụng cũng từ đó.

Như lời Phạm Duy tỏ bày: ”Dưới thời Cộng Hòa thứ nhất, từ khi chế độ nhà Ngô thành lập và tiến dần tới thời thịnh trị rồi mạt vận, miền Nam, nếu chưa được là thiên đường của đông đảo văn nghệ sĩ đi tìm tự do thì cũng là nơi đất lành chim đậu. Một thế hệ văn nghệ sĩ mới đã thành hình và họat động dữ dội bên những vị đàn anh di cư từ miền ngoài. Phòng trà, tiệm bánh, quán nước như Kim Sơn, Mai Hương, La Pagode, Givral, Brodard … là nơi không hẹn mà văn nghệ sĩ tới gặp nhau hằng ngày.”

Trong 9 năm cầm quyền thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chỉ có 3 lần có những biến động chính trị. Nhưng chỉ riêng năm 1964, có 13 lần miền Nam rơi vào những biến động có thể làm lung lay nền Cộng Hòa. Nói như thế để thấy rằng sự ổn định chính trị nằm ở thời điểm nào.

Người nào không nhìn nhận những điều ấy thì chỉ thiệt thòi cho chính họ thôi, bởi vì họ tự mình bôi xóa tuổi trẻ của chính họ. Nhiều người đã bôi xóa như thế để chạy theo vài ảo tưởng chính trị, hoặc nếu ở ngoại quốc thì chạy theo những xu hướng thiên tả vốn chẳng dính dáng gì đến thực tế chiến tranh Việt Nam.

Phần tôi nghĩ rằng, chúng tôi không bước đi những bước đi đơn độc.

Chúng tôi có bạn đồng hành, đồng trang lứa, có những người lính, người sĩ quan VNCH cùng lớn lên ở đấy, đang xả thân thay cho chúng tôi. Và cho dù cuối cùng để mất miền Nam thì những giá trị tinh thần ấy vẫn còn đó.

PHAN NGUYÊN LUÂN thực hiện