KHÓA 1/71 TRƯỜNG BỘ BINH THỦ ĐỨC
TIỂU ĐOÀN 2
ĐẠI ĐỘI 21 - ĐẠI ĐỘI 22 - ĐẠI ĐỘI 23
BẢN TÊN MÀU CỦA KHÓA |
Động viên nhập khóa vào ngày 08 tháng 2 năm 1971, thụ huấn giai đoạn 1 tại Trung tâm Huấn luyện Quang Trung 3 tháng
Ngày 09 tháng 5 năm 1971 chuyển đến Trường Bộ binh Thủ Đức tập huấn giai đoạn 2. Cùng nhập chung với Khóa 1/71 còn có tài nguyên khóa 2/71 và khóa 3/71 gồm các sinh viên đã có dự Huấn luyện quân sự học đường.
Tổng số Sinh viên sĩ quan thụ huấn gần 500 khóa sinh chia thành 3 Đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 gồm các Đại đội 21, Đại đội 22 và Đại đội 23.
Bảng tên trên áo của khóa là nền xanh da trời chữ đỏ.
Sau 9 tuần huấn nhục khóa được gắn ALFA ngày 10 tháng 7 năm 1971.
Trong thời gian thụ huấn khóa đã về ứng chiến 2 lần tại Thủ đô Sài Gòn vào tuần bầu cử Tổng thống,Quốc hội và Lễ tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ II của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu.
Mãn khóa ngày 04 tháng 12 năm 1971 do Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu chủ tọa và đặt tên khóa là KHÓA TỰ LẬP.
Trong bài diễn văn của Tổng thống, Tổng thống đã tuyên bố lập trường bốn không: không chấp nhận, không thương lượng, không liên hiệp và không nhượng đất cho cộng sản.
TOÁN QUỐC QUÂN KỲ KHÓA 1/71 |
SĨ QUAN CÁN BỘ TIỂU ĐOÀN 2
Tiểu đoàn trưởng
Thiếu tá NGUYỄN NHƯ SƠN
Tiểu đoàn phó
Đại úy NGUYỄN SƠN HÀ
ĐẠI ĐỘI 21 ĐẠI ĐỘI 22 ĐẠI ĐỘI 23
Đại
đội trưởng Đại đội trưởng Đại đội trưởng
Đại úy NGUYỄN VĂN NHÂM Đại úy NGUYỄN VĂN PHÁT Đại úy TRẦN VĂN MINH
Đại đội phó Đại đội phó Đại đội phó
Trung úy NGUYỄN ĐỨC THỌ Trung úy TÂN GIA LẬP Trung úy TRẦN ĐỨC MINH
Trung đội 211 Trung đội 221 Trung đội 231
Trung úy NGUYỄN ĐỨC THỌ Thiếu úy VÕ HỒNG TÂM Thiếu úy TRẦN CÔNG KHANH
Trung đội 212 Trung đội 222 Trung đội 232
Đại úy NGUYỄN VĂN NHÂM Thiếu úy LÊ HỮU ĐỨC Trung úy TRẦN ĐỨC MINH
Trung đội 213 Trung đội 223 Trung đội 233
Thiếu úy NGUYỄN VĂN BÉ Trung úy TÂN GIA LẬP
Trung đội 214 Trung đội 224 Trung đội 234
Thiếu úy PHẠM VĂN PHÁP Thiếu úy PHAN VĂN XUẤT Thiếu úy LÊ TẤT LỊCH
Trường Bộ Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà còn có nhiều tên gọi khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử của trường như sau :
Ngày
6 tháng 6 năm 1948, Quốc Trưởng BẢO ĐẠI chỉ thị Thiếu Tướng Nguyễn văn Xuân
, Thủ Tướng Chính phủ Trung ương của nước Việt Nam Thống nhất cả 3 Miền, xúc
tiến việc thành lập QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM (QĐQGVN), khởi sự bằng việc
tổ chức TRƯỜNG SĨ QUAN VIỆT NAM HIỆN DỊCH tại Huế (tiền thân của Trường Võ
Quốc Gia Đà Lạt )
Ngày
11 tháng 5 năm 1950 Quốc trưởng Bảo Đại và Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm, Chính
phủ Trung ương của Việt Nam thống nhất cả 3 Miền, chính thức thành lập Quân
Đội Quốc Gia. Quân số của Quân Đội Quốc Gia dự trù là 60 ngàn người bao gồm
Chủ lực quân và Phụ Phương quân .
Ngày 27
tháng 7 1951 Sắc lệnh số 372/Cab/DN của Chính Phủ Việt Nam động viên Thanh
niên nhập ngũ để huấn luyện thành sĩ quan trừ bị của Quân Đội Quốc Gia Việt
Nam mới thành lập.
Ngày
1 tháng 10 năm 1951 thành lập hai trường Sĩ Quan Trừ Bị , một tại Nam Định (
Bắc Phần ) và một tại Thủ Đức ( Nam Phần ).
Ngày
9 tháng 10 năm 1951 cùng một lúc chính thức khai giảng khoá 1 Sĩ quan trừ
bị tại hai Trường Thủ Đức và Nam Định.
Tháng
6 năm 1952 sau khi hoàn tất huấn luyện khóa 1 trường Nam Định giải tán và
sát nhập vào Trường Thủ Đức.
Trường Thủ
Đức trở thành trường duy nhất có nhiệm vụ đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH).
Trường
Bộ Binh nằm trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú cách thủ đô Sàigòn 18 cây số về
hướng Đông Bắc, Nếu từ phía Biên Hòa nhìn về, Trường Bộ Binh là một bức
tranh tuyệt đẹp với dốc đồi thoải mái, những dãy nhà san sát mái ngói và
nắng ban mai tô vàng bên những hàng cây um tùm xanh mát.
Sau 4 năm
hoạt động trong trách vụ đào tạo Sĩ Quan Bộ Binh đến năm 1955 phạm vi hoạt
động của trường được nới rộng, trường được giao phó thêm nhiệm vụ đào tạo
chuyên viên các ngành vì thế trường cải danh thành Liên Trường Võ Khoa
Thủ Đức gồm các trường:
- Trường Bộ
Binh
- Trường Thiết Giáp
- Trường Pháo Binh
- Trường Công Binh
- Trường Truyền Tin
--Trường Thông Vận Binh
- Trường Quân Chánh
- Trường Thiết Giáp
- Trường Pháo Binh
- Trường Công Binh
- Trường Truyền Tin
--Trường Thông Vận Binh
- Trường Quân Chánh
Vào tháng 10
năm 1961, trước tình trạng khẩn cấp của đất nước, nhu cầu của chiến trường
gia tăng, các trường huấn luyện chuyên môn được tách rời khỏi Liên Trường Võ
Khoa ngoại trừ 2 trường Bộ Binh và Thiết Giáp để lấy chỗ huấn luyện cho các
thanh niên được động viên tới thụ huấn trong một chương trình huấn luyện đại
quy mô của thời bấy giờ.
Từ tháng 10
năm 1962, Liên Trường phụ trách huấn luyện những Sĩ Quan Lục Quân (Bộ Binh)
về theo học lớp Đại Đội Trưởng Bộ Binh.
Kể từ ngày 1
tháng 8 năm 1963, Liên Trường lấy lại danh hiệu Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức và chỉ đảm trách việc đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho toàn thể Lục Quân
Việt Nam .
Đến tháng 4
năm 1964, trường được giao phó thêm việc huấn luyện lớp Tiểu Đoàn Trưởng Bộ
Binh.
Để phù hợp
với nhiệm vụ hiện tại ngày 1 tháng 7 năm 1964, Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức được đổi lại danh xưng Trường Bộ Binh cho đến năm 1975.
Các vị Chỉ
Huy Trưởng liên tiếp và thời gian phục vụ:
1.
Vị Chỉ huy trưởng đầu tiên là một Sĩ Quan người Pháp
Thiếu Tá Bouillet, đảm nhiệm chức vụ từ ngày 09-10-1951 đến 31-10-1953.
2.
Đại Tá Phạm Văn Cảm, Chỉ huy trưởng trường Sĩ Quan Trừ Bị
Thủ Đức từ ngày 01-11-1953 đến ngày 30-9-1956.
3.
Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, Chỉ huy trưởng Liên Trường Võ
Khoa Thủ Đức từ ngày 01-10-1956 đến ngày 26-5-1961.
4.
Đại Tá Nguyễn Văn Chuân, Chỉ huy trưởng Liên Trường Võ
Khoa Thủ Đức từ ngày 27-5-1961 đến ngày 27-7-1961.
5.
Thiếu Tướng Hồ Văn Tố, Chỉ huy trưởng Liện Trường Võ
Khoa Thủ Đức từ ngày 28-7-1961 đến ngày 19-5-1962.
6.
Đại Tá Lam Sơn, Chỉ huy trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức từ ngày 19-5-1962 đến ngày 03-11-1963.
7.
Thiếu Tướng Trần Ngọc Tám, Chỉ huy trưởng Trường Sĩ Quan
Trừ Bị Thủ Đức từ ngày 04-11-1963 đến ngày 07-4-1964.
8.
Chuẩn Tướng Bùi Hữu Nhơn, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh
từ ngày 07-4-1964 đến ngày 20-11-1964.
9.
Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ
ngày 21-11-1964 đến ngày 20-2-1965.
10.
Chuẩn Tướng Trần Văn Trung, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh
từ ngày 21-2-1965 đến ngày 02-12-1966.
11.
Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn, Chỉ huy trưỏng Trường Bộ Binh
từ ngày 02-12-1966 đến 14-4-1967.
12.
Chuẩn Tướng Lâm Quang Thơ, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh
từ ngày 15-4-1967 đến ngày 20-8-1969.
13.
Trung tướng Phạm Quốc Thuần Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh
từ ngày 20-8-1969
14.
Trung tướng Nguyễn Văn Minh
15.
Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi 1975
16.
Đại tá Trần Đức Minh 1975
Thành quả
của Trường Bộ Binh:
Giữa thấp
niên 60 cuộc chiến gia tăng mảnh liệt với sự xâm nhập quy mô của Quân Cộng
sản Bắc Việt vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, để chận đứng làn sóng đỏ chính
quyền VNCH phải gắp rút gia tăng quân của Quân Đội VNCH. Trường Bộ Binh Thủ
Đức phối hợp với Quân Trường Quang Trung (Saigon) và Đồng Đế (Nha Trang) để
huấn luyện hàng chục ngàn Sĩ quan trừ bị mỗi năm. Có những khoá SVSQ Thủ Đức
phải học qua hoặc nhiều khác nhau trong 2 hoặc 3 giai đoạn : Quân trường
Quang Trung huấn luyện căn bản chiến đấu của người lính bộ binh, Quân Trường
Thủ Đức và Đồng Đế huấn
luyện cho sinh viên căn bản Tiểu
đội trưởng và Trung đội trưởng.
Từ ngày thành
lập trường Bộ Binh được chia làm 2 giai đoạn huấn luyện. Giai đoạn từ 1951
đến cuối năm 1967 được xem là thời kỳ huấn luyện bình thường, trong khoảng
thời gian này trường bị gián đoạn huấn luyện từ tháng 2 năm 1955 đến tháng 3
năm 1957 vì ảnh hưởng bởi hiệp định Genève năm 1954. Khoá 6 SVSQ/TB được
tiếp tục huấn luyện vào ngày 25-3-1957. Mức độ hàng năm tuy có tăng lên
nhưng không vượt quá con số 5,619 SVSQ tốt nghiệp, đó là con số cao nhất
trong giai đọan này được ghi nhận vào năm 1966.
Giao đoạn từ
đầu năm 1968 (tức sau Tết Mậu Thân) đến sau vì nhu cầu cấp bách của chiến
trường và sự trưởng thành của QLVNCH nên nhu cầu huấn luyện được gia tăng
rất nhanh, năm 1968 số SVSQ tốt nghiệp là 9,479 Sĩ Quan, năm 1969 số SVSQ
tốt nghiệp lên đến 10,862 Sĩ Quan. Con số 10,862 là con số cao nhất từ ngày
thành lập trường đến nay.
Sau đây là
kết quả tổng quát về số lượng các sĩ quan xuất thân từ trường Bộ Binh qua
74 các khóa đã được đào tạo
Tính từ ngày
9 tháng 10 năm 1951 đến tháng 9 tháng 10 năm 1973 qua 74 khoá :
( Theo Đặc San Bộ Binh Số Đặc Biệt khoá 8 \ 72 (khoá Bất Khuất) và Bản Phúc
trình của James Nach” the RVNAF reserve officer
schools at Thu Duc and Nam Dinh”
)
80,115 Sĩ
Quan Trừ Bị và gần 4,000 SVSQ/TB Đặc biệt
Khóa Tiểu
Đoàn Trưởng và Bộ Binh Cao Cấp: 18 khóa trên 1,500 Sĩ Quan trúng tuyển.
Khóa Đại Đội
Trưởng: 44 khóa trên 5,000 Sĩ Quan thụ huấn.
Ngoài những
khóa trên trường Bộ Binh còn tổ chức các khóa:
- Khóa hoàn
hảo Sĩ Quan Địa Phương Quân.
- Khóa Bổ Túc Quân Sự cho các Sĩ Quan Quân Y Trưng tập, và Sĩ quan Cảnh Sát Quốc gia.
- Khóa đào tạo Sĩ Quan Huấn Luyện Viên và huấn luyện quân sự hàng ngàn Sĩ Quan do các Bộ Tư Lệnh Không Quân, Hải Quân và Cảnh Sát Quốc Gia gửi đến thụ huấn.
- Khóa Bổ Túc Quân Sự cho các Sĩ Quan Quân Y Trưng tập, và Sĩ quan Cảnh Sát Quốc gia.
- Khóa đào tạo Sĩ Quan Huấn Luyện Viên và huấn luyện quân sự hàng ngàn Sĩ Quan do các Bộ Tư Lệnh Không Quân, Hải Quân và Cảnh Sát Quốc Gia gửi đến thụ huấn.
Từ tháng 9
năm 1973 đến tháng 4năm 1975 không có tài liệu chính xác về số Sĩ quan Trừ
Bị Thủ Đức được đào tạo.. Theo sự ước tính qua 14 khoá con số SVSQ Thủ Đức
tốt nghiệp không dưới 15 ngàn người. Như vậy tổng cộng lại Trường Bộ Binh
Thủ Đức đã đào tạo khoảng 100 ngàn Sĩ quan Trừ bị cho QLVNCH.
Rời Thủ Đức có người thành chiến tướng
Cũng có người thành chiến sĩ vô danh.
Đời binh nghiệp là đường sát nghiệp
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô.”
Cũng có người thành chiến sĩ vô danh.
Đời binh nghiệp là đường sát nghiệp
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô.”
(Tăng Nhơn
Phú Túy Hà)
Các vị tướng xuất-thân từ các trường Sĩ quan trừ bị :
Các vị tướng xuất-thân từ các trường Sĩ quan trừ bị :
Khóa 1 Nam-Định gồm có:
-Chuẩn-tướng Cảnh Sát Trang Sĩ Tấn (Chỉ-huy-trưởng BCH Cảnh Sát Đô-thành Sàigòn) Những khoá đầu tiên SVSQ là những học sinh, sinh viên tuổi đôi mươi xếp bút nghiêng theo việc đao binh, theo lịnh động viên vào Trường Sĩ quan Trừ bị . Năm 1964 và 1968 lịnh Động viên và Tổng động viên gọi nhập ngũ các nam công dân từ 18 đến 45 tuổi bao gồm đủ các thành phần trong xã hội như : Sinh viên học sinh, các Giáo chức thuộc các trường Tiểu học, Trung Học và Đại học; các Viên chức các Tổng bộ của Chính phủ từ Bộ trưởng, Giám đốc cho đến Thơ ký, các người làm nghề tự do như ký giả , văn nghệ sĩ : Võ Long Triều ( Bộ Thanh Niên) nhập ngũ khóa 24, Dương Kích Nhưởng ( Điện Lực) nhập ngũ khóa 22 , Lưu Tường Quang ( Ngoại Giao) nhập ngũ khóa năm 1968 , Giáo Sư Trần Bích Lan tức thi sĩ Nguyên Sa nhập ngũ khóa 24 v .v..
Với sự nhập ngũ đông đảo của giới trí thức và cán bộ cao cấp trong chính
quyền đã mang lại sự cảm thông và hoà đồng giữa người lính chiến đấu và
người ở hậu phương. Trải qua 9 tháng huấn luyện gian khổ nơi quân trường
người SVSQ đã thay đổi từ thể xác đến tâm hồn : Thương đời lính gian truân
và yêu đất nước qua từng bàn chân mình bước đi trên mảnh đất quê hương.
Nhà thơ Nguyên Sa, tác giả của những bài thơ tình lảng mạng nổi tiếng qua "Paris
có gì lạ không em ?",
"Áo lụa Hà Đông"
cũng đã thay đổi nhiều sau bao tháng thao luyện trong quân trường Thủ Đức :
bây giờ
khẩu garant ta mang trên vai
bây giờ khẩu trung liên bar ta mang trên vai
ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế
ta mới biết rằng trong cuộc đời dạy học ta là thằng dốt nát
trong mười mấy năm ta làm bao nhiêu tội lỗi
trong mười mấy năm ta không nói cho học trò ta biết
những thỏi sắt đó nặng như thế
ta không nói cho vợ con bạn bè đồng bào ta biết
anh em ta và quê hương ta
vác những thỏi sắt nặng như thế
từ bao nhiêu năm nay ....
bây giờ khẩu trung liên bar ta mang trên vai
ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế
ta mới biết rằng trong cuộc đời dạy học ta là thằng dốt nát
trong mười mấy năm ta làm bao nhiêu tội lỗi
trong mười mấy năm ta không nói cho học trò ta biết
những thỏi sắt đó nặng như thế
ta không nói cho vợ con bạn bè đồng bào ta biết
anh em ta và quê hương ta
vác những thỏi sắt nặng như thế
từ bao nhiêu năm nay ....
(Xin lỗi về
những nhầm lẫn dĩ vang
thơ Nguyên Sa)
Các
công chức và Chuyên viên sau khi thụ huấn xong có thể được trở
về
nhiệm sở cũ nếu có nhu cầu đòi hỏi của Cơ quan liên hệ. Các giáo chức sau một
vài năm trong quan ngũ đa số được trở về trường sở cũ.
Ngoài những
người được biệt phái đa số sĩ quan trừ bị phải ở lại Quân đội mặt dù nhiệm
kỳ trừ bị là 4 năm nhưng bị lưu giữ lại vì tình trạng chiến tranh.
Bây giờ
anh ở đâu ?
Không có một
thống kê hay sử liệu nào đề biết số lượng chính xác các Cựu SVSQ/TD hiện
nay; có một vài tài liệu phỏng đoán có 15 ngàn SVSQ/TD đã bỏ mình trong cuộc
chiến bảo vệ Vùng đất Tự Do VNCH như vậy còn lại hơn 80 ngàn mà một số rất
lớn còn ở lại Việt Nam và rải khắp năm châu.
Sau cuộc bể
dâu kẻ còn người mất và sau nhưng năm tháng trôi nổi nơi quê người ai được
gặp lại người quen là điều hạnh
phúc và quý báo vô cùng. Riêng những cựu Sinh viên Thủ Đức Đa số đã trãi
qua những năm tháng tù đày trong lao tù cải tạo của Cộng sản. Trong lao tù
có ai dám nghĩ tới một ngày nào đó gặp lại bạn bè đồng môn, đồng ngũ cũ,
một ngày được nhìn thấy lá Cờ Vàng thân yêu, một ngày được thở không khí Tự
do!.
Đệ huynh Thủ Đức
Lại lạc nhau rồi, một cuộc bể dâu
Niên trưởng tôi ơi!
Bên trời bạc tóc,
Có nghe không
Tiếng vọng Vũ đình trường
Có nghe không tiếng hờn ai oán,
Binh đao oan nghiệt một kiếp người. (Tăng Nhơn Phú thơ Túy Hà)
Những mơ ước không bao giờ dám nghĩ đến đó đã trở thành hiện thực : Những cựu SVSQ/TB cũng như các cựu chiến Binh VNCH thoát được ra nước ngoài đã dịp được gặp lại đồng môn đồng ngũ; được nhìn lại màu cờ sắc áo thân yêu, được nghe lại những khúc quân hành qua những buổi họp mặt bên ly rượu chun trà : Mừng cho người còn sống và buồn cho người còn ở lại hay đã ra đi vĩnh viễn.
Người viết
xin mượn câu thơ của CSVSQ Túy Hà để kết thúc bài này và câu chúc quý chiến
hữu đồng môn Trường Bộ Binh Thủ Đức được nhiều An bình an và Hạnh phúc :
Đốt nén nhang thơm tạ Đất Trời.
Đã cho ta một thời hào sảng
Đã luyện ta thành thép thành đồng
Nhập cuộc chơi có tên Sinh-Tử
Giữa làn ranh nghiệt ngã chiến trường.
Đã cho ta ngẩn cao đầu ngạo nghể
Thủ Đức làm người không hổ thẹn lương tâm.
Tăng Nhơn Phú - đồi xưa – Ta trở lại
Cắm ngọn cờ vàng rực rỡ trời Nam.
Ta sẽ về – dù nương theo gió
Bởi thân tàn , chí lớn còn nguyên. (Tăng Nhơn Phú Túy Hà)
No comments:
Post a Comment