TIỂU SỬ
 
 

KHÓA 1/71 TRƯỜNG BỘ BINH THỦ ĐỨC
 

TIỂU ĐOÀN 2

 ĐẠI ĐỘI 21 - ĐẠI ĐỘI 22 - ĐẠI ĐỘI 23


BẢN TÊN MÀU CỦA KHÓA


      Động viên nhập khóa vào ngày 08 tháng 2 năm 1971, thụ huấn giai đoạn 1 tại Trung tâm Huấn luyện Quang Trung 3 tháng
      Ngày 09 tháng 5 năm 1971 chuyển đến Trường Bộ binh Thủ Đức tập huấn giai đoạn 2. Cùng nhập chung với Khóa 1/71 còn có tài nguyên khóa 2/71 và khóa 3/71 gồm các sinh viên đã có dự Huấn luyện quân sự học đường.
      Tổng số Sinh viên sĩ quan thụ huấn gần 500 khóa sinh chia thành 3 Đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 gồm các Đại đội 21,  Đại đội 22 và Đại đội 23.
      Bảng tên trên áo của khóa là nền xanh da trời chữ đỏ.
      Sau 9 tuần huấn nhục khóa được gắn ALFA ngày 10 tháng 7 năm 1971.
      Trong thời gian thụ huấn khóa đã về ứng chiến 2 lần tại Thủ đô Sài Gòn vào tuần bầu cử Tổng thống,Quốc hội và Lễ tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ II của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu.
      Mãn khóa ngày 04 tháng 12 năm 1971 do Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu chủ tọa và đặt tên khóa là KHÓA TỰ LẬP.

  Trong bài diễn văn của Tổng thống, Tổng thống đã tuyên bố lập trường bốn không: không chấp nhận, không thương lượng, không liên hiệp và không nhượng đất cho cộng sản.


TOÁN QUỐC QUÂN KỲ KHÓA 1/71

                                                                            SĨ QUAN CÁN BỘ TIỂU ĐOÀN 2
                                                                                         Tiểu đoàn trưởng
                                                                              Thiếu tá NGUYỄN NHƯ SƠN
                                                                                           Tiểu đoàn phó
                                                                                Đại úy NGUYỄN SƠN HÀ

                  ĐẠI ĐỘI 21                                                     ĐẠI ĐỘI 22                                                          ĐẠI ĐỘI 23
                Đại đội trưởng                                                   Đại đội trưởng                                                       Đại đội trưởng 
Đại úy NGUYỄN VĂN NHÂM                          Đại úy NGUYỄN VĂN PHÁT                              Đại úy TRẦN VĂN MINH
                 Đại đội phó                                                        Đại đội phó                                                           Đại đội phó
Trung úy  NGUYỄN ĐỨC THỌ                            Trung úy TÂN GIA LẬP                                    Trung úy TRẦN ĐỨC MINH
                 Trung đội 211                                                  Trung đội 221                                                     Trung đội 231
Trung úy NGUYỄN ĐỨC THỌ                           Thiếu úy VÕ HỒNG TÂM                                 Thiếu úy TRẦN CÔNG KHANH                          
                 Trung đội 212                                                  Trung đội 222                                                     Trung đội 232
Đại úy NGUYỄN VĂN NHÂM                              Thiếu úy LÊ HỮU ĐỨC                                    Trung úy TRẦN ĐỨC MINH                      
                Trung đội 213                                                   Trung đội 223                                                     Trung đội 233
  Thiếu úy NGUYỄN VĂN BÉ                               Trung úy TÂN GIA LẬP
                Trung đội 214                                                   Trung đội 224                                                    Trung đội 234
  Thiếu úy PHẠM VĂN PHÁP                            Thiếu úy PHAN VĂN XUẤT                              Thiếu úy ĐỖ THẾ LỊCH
 



PHÙ HIỆU TRƯỜNG BỘ BINH THỦ ĐỨC
Nền xanh da trời biểu-hiện sự thanh-khiết từ tư-tưởng đến hành-động, và ý-chí cao-cả của thanh-niên đối với quê-hương.
Ngọn lửa hồng biểu-hiện lòng dũng-cảm, chí cương-quyết, đức hy-sinh.
Thanh kiếm biểu hiện cho cấp chỉ-huy
Bốn chữ “Cư an tư nguy” – sống yên (không quên) lo nguy, được ghi thêm vào theo đề nghị của Đại-tá Lam Sơn trong thời gian ông làm Chỉ huy trưởng (1962). Câu này trích từ Hệ từ hạ của Khổng-tử:
Nguy gỉa an kỳ vĩ gỉa dã
Vong gỉa bảo kỳ tồn gỉa dã
Loạn gĩa hữu kỳ trị gỉa dã
Thị cố quân-tử an nhi bất vong nguy,
tồn nhi bất vong vong
Tri nhi bất vong loạn
Thị dĩ nhân an nhi quốc gia khả bảo gia
Nghĩa là:
Người bị nguy là bởi cứ yên vui nơi ngôi phận mình
Bị mất là bởi chỉ tới cái hiện có
Bị loạn bởi tin cậy cái trị có sẳn,
Bởi thế, người quân-tử lúc sống yên không quên cái nguy,
còn không quên lúc mất
Khi thịnh-trị không quyên cảnh loạn suy,
như vậy mới yên thân mà giữ được nước nhà
Câu từ dài ấy được rút lại còn 8 chữ: “ Cư an lự nguy, xử trị tư loạn” và gọn hơn nữa, 4 chữ: “CƯ AN TƯ NGUY”

LỊCH SỬ TRƯỜNG BỘ BINH THỦ ĐỨC


Trường Bộ Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà còn có nhiều tên gọi khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử của trường như sau :
Ngày 6 tháng 6 năm 1948, Quốc Trưởng  BẢO ĐẠI chỉ thị Thiếu Tướng Nguyễn văn Xuân , Thủ Tướng Chính phủ Trung ương của nước Việt Nam Thống nhất cả 3 Miền, xúc tiến việc thành lập QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM (QĐQGVN), khởi sự bằng việc tổ chức TRƯỜNG SĨ QUAN VIỆT NAM HIỆN DỊCH tại Huế (tiền thân của Trường Võ Quốc Gia  Đà Lạt )
Ngày 11 tháng 5 năm 1950  Quốc trưởng Bảo Đại và Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm, Chính phủ Trung ương của Việt Nam thống nhất cả 3 Miền, chính thức thành lập  Quân Đội Quốc Gia.  Quân số của Quân Đội Quốc Gia dự trù là 60 ngàn người bao gồm Chủ lực quân và Phụ Phương quân .
Ngày 27 tháng 7 1951 Sắc lệnh số 372/Cab/DN của Chính Phủ Việt Nam động viên Thanh niên nhập ngũ để huấn luyện thành sĩ quan trừ bị của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam mới thành lập.
Ngày 1 tháng 10 năm 1951 thành lập hai trường Sĩ Quan Trừ Bị , một tại Nam Định ( Bắc Phần ) và một tại Thủ Đức ( Nam Phần ).
Ngày 9 tháng 10 năm 1951 cùng một lúc chính thức  khai giảng khoá 1 Sĩ quan trừ bị tại hai Trường Thủ Đức và Nam Định.
Tháng 6 năm 1952 sau khi hoàn tất huấn luyện khóa 1 trường Nam Định giải tán và sát nhập vào Trường Thủ Đức.
Trường Thủ Đức trở thành trường duy nhất có nhiệm vụ đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH).
Trường Bộ Binh nằm trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú cách thủ đô Sàigòn 18 cây số về hướng Đông Bắc, Nếu từ phía Biên Hòa nhìn về,  Trường Bộ Binh là một bức tranh tuyệt đẹp với dốc đồi thoải mái, những dãy nhà san sát mái ngói và nắng ban mai tô vàng bên những hàng cây um tùm xanh mát.
Sau 4 năm hoạt động trong trách vụ đào tạo Sĩ Quan Bộ Binh đến năm 1955 phạm vi hoạt động của trường được nới rộng, trường được giao phó thêm nhiệm vụ đào tạo chuyên viên các ngành vì thế trường cải danh thành Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức gồm các trường:
- Trường Bộ Binh
- Trường Thiết Giáp
- Trường Pháo Binh
- Trường Công Binh
- Trường Truyền Tin
--Trường Thông Vận Binh
- Trường Quân Chánh
Vào tháng 10 năm 1961, trước tình trạng khẩn cấp của đất nước, nhu cầu của chiến trường gia tăng, các trường huấn luyện chuyên môn được tách rời khỏi Liên Trường Võ Khoa ngoại trừ 2 trường Bộ Binh và Thiết Giáp để lấy chỗ huấn luyện cho các thanh niên được động viên tới thụ huấn trong một chương trình huấn luyện đại quy mô của thời bấy giờ.
Từ tháng 10 năm 1962, Liên Trường phụ trách huấn luyện những Sĩ Quan Lục Quân (Bộ Binh) về theo học lớp Đại Đội Trưởng Bộ Binh.
Kể từ ngày 1 tháng 8 năm 1963, Liên Trường lấy lại danh hiệu Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và chỉ đảm trách việc đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho toàn thể Lục Quân Việt Nam .
Đến tháng 4 năm 1964, trường được giao phó thêm việc huấn luyện lớp Tiểu Đoàn Trưởng Bộ Binh.
Để phù hợp với nhiệm vụ hiện tại ngày 1 tháng 7 năm 1964, Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức được đổi lại danh xưng Trường Bộ Binh cho đến năm 1975.
Các vị Chỉ Huy Trưởng  liên tiếp và thời gian phục vụ:
1.    Vị Chỉ huy trưởng đầu tiên là một Sĩ Quan người Pháp Thiếu Tá Bouillet, đảm nhiệm chức vụ từ ngày 09-10-1951 đến 31-10-1953.
2.    Đại Tá Phạm Văn Cảm, Chỉ huy trưởng trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức từ ngày 01-11-1953 đến ngày 30-9-1956.
3.    Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, Chỉ huy trưởng Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức từ ngày 01-10-1956 đến ngày 26-5-1961.
4.    Đại Tá Nguyễn Văn Chuân, Chỉ huy trưởng Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức từ ngày 27-5-1961 đến ngày 27-7-1961.
5.    Thiếu Tướng  Hồ Văn Tố, Chỉ huy trưởng Liện Trường Võ Khoa Thủ Đức từ ngày 28-7-1961 đến ngày 19-5-1962.
6.    Đại Tá Lam Sơn, Chỉ huy trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức từ ngày 19-5-1962 đến ngày 03-11-1963.
7.    Thiếu Tướng Trần Ngọc Tám, Chỉ huy trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức từ ngày 04-11-1963 đến ngày 07-4-1964.
8.    Chuẩn Tướng Bùi Hữu Nhơn, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 07-4-1964 đến ngày 20-11-1964.
9.    Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 21-11-1964 đến ngày 20-2-1965.
10. Chuẩn Tướng Trần Văn Trung, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 21-2-1965 đến ngày 02-12-1966.
11. Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn, Chỉ huy trưỏng Trường Bộ Binh từ ngày 02-12-1966 đến 14-4-1967.
12. Chuẩn Tướng Lâm Quang Thơ, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 15-4-1967 đến ngày 20-8-1969.
13. Trung tướng Phạm Quốc Thuần Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 20-8-1969
14. Trung tướng Nguyễn Văn Minh
15. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi  1975
16. Đại tá Trần Đức Minh    1975
Thành quả của Trường Bộ Binh:
Giữa thấp niên 60 cuộc chiến gia tăng mảnh liệt với sự xâm nhập quy mô của Quân Cộng sản Bắc Việt vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, để chận đứng làn sóng đỏ chính quyền VNCH phải gắp rút gia tăng quân của Quân Đội VNCH. Trường Bộ Binh Thủ Đức phối hợp với Quân Trường Quang Trung (Saigon) và Đồng Đế (Nha Trang) để huấn luyện hàng chục ngàn Sĩ quan trừ bị mỗi năm. Có những khoá SVSQ Thủ Đức phải học qua hoặc nhiều khác nhau trong 2 hoặc 3 giai đoạn : Quân trường Quang Trung huấn luyện căn bản chiến đấu của người lính bộ binh, Quân Trường Thủ Đức và Đồng Đế huấn luyện  cho sinh viên căn bản  Tiểu đội trưởng và Trung đội trưởng.
Từ ngày thành lập trường Bộ Binh được chia làm 2 giai đoạn huấn luyện. Giai đoạn từ 1951 đến cuối năm 1967 được xem là thời kỳ huấn luyện bình thường, trong khoảng thời gian này trường bị gián đoạn huấn luyện từ tháng 2 năm 1955 đến tháng 3 năm 1957 vì ảnh hưởng bởi hiệp định Genève năm 1954. Khoá 6 SVSQ/TB được tiếp tục huấn luyện vào ngày 25-3-1957. Mức độ hàng năm tuy có tăng lên nhưng không vượt quá con số 5,619 SVSQ tốt nghiệp, đó là con số cao nhất trong giai đọan này được ghi nhận vào năm 1966.
Giao đoạn từ đầu năm 1968 (tức sau Tết Mậu Thân) đến sau vì nhu cầu cấp bách của chiến trường và sự trưởng thành của QLVNCH nên nhu cầu huấn luyện được gia tăng rất nhanh, năm 1968 số SVSQ tốt nghiệp là 9,479 Sĩ Quan, năm 1969 số SVSQ tốt nghiệp lên đến 10,862 Sĩ Quan. Con số 10,862 là con số cao nhất từ ngày thành lập trường đến nay.
Sau đây là kết quả tổng quát về số lượng các sĩ quan xuất thân từ trường Bộ Binh qua 74 các khóa đã được đào tạo
Tính từ ngày 9 tháng 10 năm 1951 đến tháng 9 tháng 10 năm 1973  qua 74 khoá : ( Theo Đặc San Bộ Binh Số Đặc Biệt khoá 8 \ 72 (khoá Bất Khuất) và Bản Phúc trình của James Nach” the RVNAF reserve officer schools at Thu Duc and Nam Dinh” )
80,115 Sĩ Quan Trừ Bị và gần 4,000 SVSQ/TB Đặc biệt
Khóa Tiểu Đoàn Trưởng và Bộ Binh Cao Cấp: 18 khóa trên 1,500 Sĩ Quan trúng tuyển.
Khóa Đại Đội Trưởng: 44 khóa trên 5,000 Sĩ Quan thụ huấn.
Ngoài những khóa trên trường Bộ Binh còn tổ chức các khóa:
- Khóa hoàn hảo Sĩ Quan Địa Phương Quân.
- Khóa Bổ Túc Quân Sự cho các Sĩ Quan Quân Y Trưng tập, và Sĩ quan Cảnh Sát Quốc gia.
- Khóa đào tạo Sĩ Quan Huấn Luyện Viên và huấn luyện quân sự hàng ngàn Sĩ Quan do các Bộ Tư Lệnh Không Quân, Hải Quân và Cảnh Sát Quốc Gia gửi đến thụ huấn.
Từ tháng 9 năm 1973  đến tháng 4năm  1975 không có tài liệu chính xác về số Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức được đào tạo.. Theo sự ước tính qua 14 khoá con số SVSQ Thủ Đức tốt nghiệp không dưới 15 ngàn người. Như vậy tổng cộng lại Trường Bộ Binh Thủ Đức đã đào tạo khoảng 100 ngàn Sĩ quan Trừ bị cho QLVNCH.

Rời Thủ Đức có người thành chiến tướng
Cũng có người thành chiến sĩ vô danh.
Đời binh nghiệp là đường sát nghiệp
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô.”
(Tăng Nhơn Phú Túy Hà)

Các vị tướng xuất-thân từ các trường  Sĩ quan trừ bị :

Khóa 1 Nam-Định gồm có:
-Trung-tướng Nguyễn Đức Thắng (Bộ Trưởng Xây Dựng Nông Thôn)
 -Trung-tướng Lê Nguyên Khang (Tư-lệnh Thuỷ Quân Lục Chiến)
 -Trung-tướng Nguyễn Bảo Trị (Tổng Cục-trưởng Quân-huấn)
-Thiếu-tướng Nguyễn Cao Kỳ, (Tư lệnh Không Quân, Chủ-tịch Ủy-ban Hành-pháp Trung-ương)
-Thiếu-tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tư lệnh Cảnh Sát)
 -Thiếu-tướng Nguyễn Duy Hinh (Tư lệnh Sư-đoàn 3 Bộ-binh)
 -Chuẩn-tướng Vũ Đức Nhuận
 -Chuẩn-tướng Phan Phụng Tiên
 -Chuẩn-tướng Nguyễn Văn Điềm
Khóa 1 Thủ-Đức:
 -Trung-tướng Trần Văn Minh (Tư-lệnh Không-quân)
 -Trung-tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục trưởng Quân-vận)
 -Thiếu tướng Nguyễn khắc Bình (Tổng Giám-đốc Cảnh-Sát Quốc-gia)
 -Thiếu tướng Phạm Hữu Nhơn
 -Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính
Khóa 2 Thủ –Đức:
 -Chuẩn-tướng Bùi Quý Cảo (Tổng Giám-đốc Tài-chánh và Thanh-tra quân-phí)
Khóa 3 Thủ-Đức
 -Thiếu-tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư-lệnh Quân-đoàn IV,  tuẫn-tiết ngày miền Nam lọt vào tay Cộng-Sản Bắc Việt)
Khóa 4 Thủ-Đức
 -Trung-tướng Ngô Quang Trưởng (Tư-lệnh Quân-đoàn I)
 -Thiếu-tướng Bùi Thế Lân (Tư-lệnh Thủy Quân Lục Chiến)
 -Thiếu-tướng Lê Quang Lưỡng (Tư-lệnh Nhảy Dù)
 -Chuẩn-tướng Hồ Trung Hậu
 -Chuẩn-tướng Trần Quốc Lịch
Khóa 5 Thủ-Đức
 -Chuẩn-tướng Lê Văn Hưng (Tư-lệnh phó Quân-đoàn IV, tuẫn-tiết ngày miền Nam bị cưởng chiếm bởi Cộng Sản Bắc Việt)
Khóa 16 Thủ-Đức
 -Chuẩn-tướng Cảnh Sát Trang Sĩ Tấn (Chỉ-huy-trưởng BCH Cảnh Sát Đô-thành Sàigòn)
Những khoá đầu tiên SVSQ là những học sinh, sinh viên tuổi đôi mươi xếp bút nghiêng theo việc đao binh, theo lịnh động viên vào Trường Sĩ quan Trừ bị . Năm 1964 và 1968  lịnh Động viên và Tổng động viên gọi nhập ngũ các nam công dân từ 18 đến 45 tuổi bao  gồm đủ các thành phần trong xã hội  như : Sinh viên  học sinh,  các Giáo chức thuộc các trường Tiểu học, Trung Học và Đại học;  các Viên chức các Tổng bộ của Chính phủ từ Bộ trưởng, Giám đốc  cho đến Thơ ký, các người làm nghề tự do như ký giả , văn nghệ sĩ :  Võ Long Triều  ( Bộ Thanh Niên)  nhập ngũ khóa 24, Dương Kích Nhưởng ( Điện Lực) nhập ngũ khóa 22 , Lưu Tường Quang ( Ngoại Giao) nhập ngũ khóa năm 1968 , Giáo Sư Trần Bích Lan tức thi sĩ Nguyên Sa  nhập ngũ khóa 24  v .v..
Với sự nhập ngũ đông đảo của giới trí thức và cán bộ cao cấp trong chính quyền đã mang lại sự cảm thông và hoà đồng giữa người lính chiến đấu và người ở hậu phương. Trải qua 9 tháng huấn luyện gian khổ  nơi quân trường người SVSQ đã thay đổi từ thể xác đến tâm hồn : Thương đời lính gian truân và  yêu đất nước qua  từng bàn chân mình bước đi trên  mảnh đất quê hương.
Nhà thơ Nguyên Sa, tác giả của những bài thơ tình lảng mạng nổi tiếng  qua  "Paris có gì lạ không em ?", "Áo lụa Hà Đông" cũng đã thay đổi nhiều sau bao tháng thao luyện  trong quân trường Thủ Đức :
bây giờ khẩu garant ta mang trên vai
bây giờ khẩu trung liên bar ta mang trên vai
ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế
ta mới biết rằng trong cuộc đời dạy học ta là thằng dốt nát
trong mười mấy năm ta làm bao nhiêu tội lỗi
trong mười mấy năm ta không nói cho học trò ta biết
những thỏi sắt đó nặng như thế
ta không nói cho vợ con bạn bè đồng bào ta biết
anh em ta và quê hương ta
vác những thỏi sắt nặng như thế
từ bao nhiêu năm nay ....
(Xin lỗi về những nhầm lẫn dĩ vang thơ Nguyên Sa)
Các công chức và Chuyên viên sau khi thụ huấn xong có thể được trở  về nhiệm sở cũ nếu có nhu cầu đòi hỏi của  Cơ quan liên hệ. Các giáo chức sau một vài  năm trong quan ngũ đa số được trở về trường sở cũ.
Ngoài những người được biệt phái đa số sĩ quan trừ bị  phải ở lại Quân đội mặt dù nhiệm kỳ trừ bị  là 4 năm nhưng bị lưu giữ  lại vì tình trạng chiến tranh.
Bây giờ anh ở đâu ?
Không có một thống kê hay sử liệu nào đề biết số lượng chính xác các Cựu SVSQ/TD hiện nay; có một vài tài liệu phỏng đoán có 15 ngàn SVSQ/TD đã bỏ mình trong cuộc chiến bảo vệ Vùng đất Tự Do VNCH như vậy còn lại hơn 80 ngàn mà một số rất lớn còn ở lại Việt Nam và rải khắp năm châu.
Sau cuộc bể dâu kẻ còn người mất và sau nhưng năm tháng trôi nổi nơi quê người ai được gặp lại người quen là điều  hạnh phúc và quý báo vô cùng. Riêng những cựu Sinh viên Thủ Đức Đa số  đã trãi qua những năm tháng tù đày trong lao tù cải tạo của Cộng sản. Trong lao tù có ai dám nghĩ tới một ngày nào đó  gặp lại bạn bè đồng môn, đồng ngũ cũ, một ngày được nhìn thấy lá Cờ Vàng thân yêu, một ngày được thở không khí Tự do!.

 Nước mất nhà tan
Đệ huynh Thủ Đức
Lại lạc nhau rồi, một cuộc bể dâu
Niên trưởng tôi ơi!
Bên trời bạc tóc,
Có nghe không
Tiếng vọng Vũ đình trường
Có nghe không tiếng hờn ai oán,
Binh đao oan nghiệt một kiếp người.
 (Tăng Nhơn Phú thơ Túy Hà)

Những mơ  ước không bao giờ dám nghĩ đến đó đã trở thành hiện thực : Những  cựu SVSQ/TB cũng như các cựu chiến Binh VNCH thoát được ra nước ngoài  đã dịp được gặp lại đồng môn đồng ngũ; được nhìn lại màu cờ sắc áo thân yêu, được nghe lại những khúc quân hành qua những buổi họp mặt bên ly rượu chun trà  : Mừng cho người còn sống và buồn cho người còn ở lại hay đã ra đi vĩnh viễn.
Người viết xin mượn câu thơ của CSVSQ  Túy Hà để kết thúc bài này và câu chúc quý chiến hữu đồng môn Trường Bộ Binh Thủ Đức được nhiều An bình an và Hạnh phúc :                                                 

 Tăng Nhơn Phú ta sẽ về thăm lại
Đốt nén nhang thơm tạ Đất Trời.
Đã cho ta một thời hào sảng
Đã luyện ta thành thép thành đồng
Nhập cuộc chơi có tên Sinh-Tử
Giữa làn ranh nghiệt ngã chiến trường.
Đã cho ta ngẩn cao đầu ngạo  nghể
Thủ Đức làm  người không hổ thẹn lương tâm.
Tăng Nhơn Phú - đồi xưa – Ta trở lại
Cắm ngọn cờ vàng rực rỡ trời Nam.
Ta sẽ về – dù  nương  theo gió
Bởi thân tàn , chí lớn còn nguyên.
(Tăng Nhơn Phú Túy Hà)

No comments: