Wednesday, January 31, 2024
Saturday, January 20, 2024
CHUYỆN CHƯA KỂ VỀ TRẬN HOÀNG SA
Sau đây là lời kể của Thiếu Tá Phạm Văn Hồng (Sĩ Quan Lãnh Thổ Phòng 3 thuộc Quân Đoàn I) câu chuyện của 45 năm trước về trận Hoàng Sa với nhiều tình tiết khá đặc biệt mà ông chưa hề phổ biến trên báo chí lâu nay.
Nhận lệnh ra Hoàng Sa với nhiệm vụ thiết lập phi trường
Buổi sáng 15-1-1974 tôi nhận lệnh thượng cấp ra đảo Hoàng Sa để
thiết lập một phi trường quân sự, lúc đó tôi là Sĩ Quan Lãnh Thổ Phòng 3
thuộc Quân Đoàn I nên việc thượng cấp giao cho là hợp lý. Chiều hôm đó,
thay vì di chuyển bằng xe quân sự, thì nhân viên Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ
tại Đà Nẵng là ông Kosh lại lấy chiếc Falcon chở tôi cùng đi với ông qua
bên Tiên Sa.
Đến nơi vào khoảng 5, 6 giờ chiều, trời đã gần tối, chúng tôi
lên chiếc HQ16 do Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự là Hạm Trưởng; HQ16 đưa
chúng tôi ra tới đảo Hoàng Sa vào khoảng 9 giờ sáng hôm sau. Trời hừng
sáng, tôi thức dậy và nhìn ra khơi, xa xa có mấy chiếc tàu nhỏ đang di
chuyển, dần dần những chiếc tàu đó nhắm hướng HQ16 chạy tới, nó cứ chờn
vờn trước mũi tàu mình và nói theo ngôn ngữ lúc bấy giờ gọi là “kỳ đà
cản mũi”.
Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự lấy làm lạ và nói với tôi: “Hình
như nó muốn khiêu khích mình”. Nó giả dạng tàu đánh cá, cho một vài tên
mặc quần đùi, ở trần ra ngồi bên mạn thuyền thả câu, câu cá. Chúng tôi
mặc kệ nó và ở đó vài tiếng sau thì đổ bộ lên bờ.
Ngoài tôi làm toán trưởng, còn có một Trung Úy Liên Đoàn 8 Công
Binh Kiến Tạo, một Trung Úy Liên Đoàn 10 Công Binh Chiến Đấu, hai Hạ Sĩ
Quan đi theo hai Trung Úy và ông Kosh, như vậy toán chúng tôi có tất cả 6
người đặt chân xuống đảo.
Hai Trung Ùy lo đi thám sát địa hình, đo đạc để có dữ kiện thiết
lập phi trường. Ở trên đảo có sẵn một toán Khí Tượng nên cần biết gì về
thời tiết, Nhóm Khí Tượng sẵn sàng cung cấp đầy đủ. Ngoài Nhóm Khí
Tượng còn có một đơn vị Địa Phương Quân trú đóng.
Biển Đông dậy sóng.
Sáng ngày 18-4-1974 từ trên đảo nhìn ra biển thấy tình hình
khác hẳn mấy ngày trước. Tàu của Trung Cộng nhỏ nhưng khá nhiều, còn bên
Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa thấy có bốn chiếc HQ16, HQ4, HQ10 và HQ5.
Hai chiếc HQ5 và HQ16 là Tuần Dương Hạm; chiếc HQ4 là Khu Trục Hạm . HQ4
nhỏ hơn nhưng hỏa lực mạnh hơn. Còn HQ10 là Hộ Tống Hạm.
Chiều ngày 18 tôi nhận được lệnh của Hải Quân Trung Tá Lê Văn
Thự nói sẽ cho dzu dzu (một loại xuồng cao su) đến đón chúng tôi lên
HQ5. HQ5 bây giờ được gọi là Soái Hạm (tàu chỉ huy) vì có Hải Quân Đại
Tá Hà Văn Ngạc đang ở trên đó để tổng chỉ huy. Tôi lên HQ5 và chờ đến
khoảng 10 giờ thì loa phóng thanh nói: “Mời Thiếu Tá Phạm Văn Hồng lên
đài chỉ huy để gặp Hải đội trưởng”.
Tôi lên phòng chỉ huy, Đại Tá Hà Văn Ngạc vỗ vai tôi và nói:
“Toa à, cái thằng Kosh này là bạn moa, nó nhát gan, nó sợ và muốn lên
đảo, nó bảo ở trên tàu nguy hiểm quá, vậy toa đi với nó lên đảo trở
lại”. Rồi ông ra lệnh lấy dzu dzu đưa chúng tôi vào đảo. Cặp vào đảo thì
đã khuya, anh em Địa Phương Quân họ cũng đã ngủ hết .
Suốt một đêm vật vã với sóng gió, tôi cũng mệt nhoài nên sáng
hôm sau khi nghe có tiếng heo kêu tôi mới thức dậy thì trời đã sáng rõ.
Sở dĩ có tiếng heo kêu là vì mấy anh em Địa Phương Quân khi nhận lệnh ra
giữ đảo, biết nhiệm kỳ của mình sẽ ăn Tết trên đảo nên họ mang một con
heo ra nuôi để Tết mổ thịt.
Khi vừa rửa mặt xong thì nghe mấy anh em Điạ Phương Quân nhao
nhao nói: “Có lẽ không xong rồi Thiếu Tá ơi!” Và tôi bắt đầu nghe tiếng
súng nổ; lúc đó vào khoảng hơn 10 giờ sáng ngày 19-1-1974. Tôi leo lên
sân thượng của Đài Khí Tượng nhìn ra biển thấy hai chiếc tàu Trung Cộng
chưa chìm nhưng đang trong tư thế sắp chìm và tôi nghĩ chắc chắn sẽ
chìm, còn bên phía Hải Quân mình tôi thấy các lằn đạn của tàu Hải Quân
Trung Cộng cũng đang ghim vào chiến hạm của mình. Hai bên đang thi nhau
nã đạn. Tiếng súng lớn, súng nhỏ thi nhau nổ dòn dã.
Tôi xuống phòng truyền tin, ở đây chỉ có mỗi chiếc máy C.25 để
anh em liên lạc với tàu khi lên xuống thôi. Tôi nghe âm thoại viên của
Hải Quân nói: “Thiếu Tá Hồng, tôi đã mất liên lạc, nhờ Thiếu Tá gọi ngay
về Đà Nẵng giúp, nói là tàu tôi đã bị nghiêng 30 độ, mắt thần chúng tôi
đã bị hư”.
Đó là tất cả những gì tôi nghe được qua máy truyền tin C.25.
Tôi nhờ bên Đài Khí Tượng cho sử dụng máy Motorola, anh em bên Khí Tượng
cho biết, họ chỉ lên máy mỗi đầu giờ, bây giờ đang là giữa giờ, lên máy
không có tín hiệu nhận.
Nhưng anh em bên Đài Khi Tượng vẫn mở máy. May quá, có Phú
Quốc lên máy. Tôi nhờ Phú Quốc gọi về Sài Gòn, yêu cầu Sài Gòn gọi ra Đà
Nẵng nói Đà Nẵng “lên máy”. Nói thì nghe ngắn gọn như vậy nhưng lúc đó
mất rất nhiều thời gian, không như bây giờ có cell phone, liên lạc với
nửa vòng trái đất cũng chỉ trong tíc tắc!
Khi tôi liên lạc được với Đà Nẵng, tôi yêu cầu Đà Nẵng gọi “Uy
Dũng” là tên Tổng Đài Quân Đoàn I của chúng tôi, tôi cho số máy của
Trung Tâm Hành Quân và số máy của Quân Đoàn I, yêu cầu liên lạc ngay với
tôi qua tổng đài của Ban Khí Tượng ngoài đảo Hoàng Sa. Lúc đó tiếng
súng giữa các chiến hạm của ta và của Trung Cộng đã tạm lắng dịu nhưng
súng bắt đầu nổ trên đảo.
Tôi lên Đài Khí Tượng quan sát thì thấy các chiến hạm của ta ở
vòng ngoài, còn tàu Trung Cộng thì lại ở vòng trong, có nghĩa là chúng
tôi đã bị tàu Trung Cộng bao vây. Những chiếc tàu của Trung Cộng theo
anh em Hải Quân ta cho biết là những chiếc Kronstad, tất cả đều quay mũi
tàu của họ vào đảo, còn các chiến hạm của ta thì quay mũi ra phía ngoài
biển. Các chiếc Kronstad tiến sát vào bờ và đổ quân, chúng dàn hàng
ngang tiến lên đảo.
Lúc này trên đảo bên ta chỉ có một Trung Đội Địa Phương Quân hơn
20 quân nhân, bốn năm anh em chuyên viên Khí Tượng và thêm toán chúng
tôi 6 người nữa mà phải đương đầu với khoảng một tiểu đoàn Trung Cộng.
Cũng cần biết thêm là theo anh em đi thám sát đo đạc để lập phi
trường có cho biết, chu vi đảo chỉ chừng 1 cây số 6. Nếu thiết lập phi
trường thì chỉ có thể làm phi đạo dài 500 thước, ngang 300 thước mà
thôi, và phi đạo như thế chỉ sử dụng cho các loại phi cơ 123 Caribou chứ
loại C.130 không thể hạ cánh được.
Cho nên với chu vi gần 2 cây số mà chỉ có khoảng 20 người, làm
sao kiểm soát hết được, trong khi đó sở trường của Trung Cộng luôn luôn
là “lấy thịt đè người”. Với quân số ít oi và vũ khí cũng không có gì
mạnh mẽ lắm, mỗi người chỉ có vài gắp đạn nên bắn mấy lần là hết đạn.
Tuy nhiên anh em vẫn chiến đấu với biển người Trung Cộng.(Sài Gòn trong
tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Mưu mô quỷ quyệt của bọn Trung Cộng
Để nắm vững tình hình trên đảo về quân số cũng như cách bố
phòng của ta, vào khoảng đầu tháng 10 năm 1973, thời điểm tháng 10
thường hay có mưa bão xảy ra ở vùng biển Đà Nẵng, nên bọn Trung Cộng cho
một chiếc tàu giả dạng tàu đánh cá vào đảo xin tránh bão.
Việt Nam Cộng Hòa mình vốn có tính nhân đạo và thật thà, thấy
họ xin núp bão thì đồng ý ngay, lại còn tiếp tế cho họ nước uống nữa,
chúng làm bộ thân thiện với ta, tặng cho anh em quân nhân những bộ bài
có hình khỏa thân, và rủ lính của ta chơi trò “trốn tìm”, mục đích là dò
xem mình có hầm hố gì không.
Nhưng các anh em Điạ Phương Quân của ta đâu có ngờ, đó là mưu
mô “thám sát” của lính Tàu. Vì thế khi chúng tấn công lên đảo, chúng đã
nắm rõ quân số của ta có bao nhiêu người, vũ khí ra sao, có hầm hố chiến
đấu hay không, còn ta, ta không biết gì về địch. Lực lượng hai bên quá
chênh lệch như thế nên chúng ta bị thất bại là lẽ đương nhiên.
(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Tin vào lời hứa, tìm cách ẩn trốn và bị bắt
Khi tôi liên lạc bằng máy Motorola của Đài Khí Tượng trên đảo
về Đà Nẵng, tôi được bên Hải Quân cho biết, Thiếu Tá Hồng cứ yên trí, sẽ
có máy bay ra yểm trợ. Vì tin lời hứa đó, tôi nghĩ trong lòng rằng
không bao giờ tôi đầu hàng, giả sử nếu cùng lắm bên Không Quân ta phải
thả bom trên đầu, tôi cũng chịu vì đó là chuyện bình thường của quân
đội.
Vì tôi và anh em trên đảo sẽ được cứu nên tôi tìm cách ẩn trốn
vào một bụi cây rậm rạp trên đảo, do đó khi chúng đã bắt hết các anh em,
chúng kiểm soát danh sách và biết rằng còn thiếu một viên Thiếu Tá là
tôi, cả một tiểu đoàn lính Trung Cộng dàn hàng ngang lùng sục làm sao mà
tôi thoát được, và tôi bị chúng bắt sống lúc xế trưa.
Cuộc đời tù binh
Sau khi Trung Cộng bắt được tôi, chúng không đánh đập nhưng có
dọa nạt và áp đảo tinh thần. Khoảng 2, 3 giờ chiều chúng cho chúng tôi
ăn cơm, ăn với thịt heo của anh em Địa Phương Quân nuôi, như tôi đã
trình bày ở phần trước, nói là thịt heo nhưng thật sự chỉ có mỡ thôi,
còn nạc bọn lính Trung Cộng ăn hết rồi. Ăn xong nó nhốt chúng tôi trong
căn nhà có lẽ trước đây dùng chứa phân chim hay làm cái gì đó tôi không
biết rõ.
Đến khuya, chúng nó bắt tất cả anh em ra xếp một hàng dọc ngoài
sân. Tôi nghĩ trong đầu chắc chúng đem đi xử bắn chúng tôi. Một vài anh
em trong bọn tôi có vẻ lo lắng, thấy thế tôi mới trấn an: “Các anh cứ
bình tĩnh, dù chúng ta có chết cũng chết cho Tổ Quốc, đừng sợ, cứ bình
tĩnh và giữ vững khí phách của một Người Lính VNCH”. Nhưng cuối cùng
chúng không bắn ai hết!(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/
theo Viễn Đông)
Di chuyển qua Trung Quốc
Gần rạng sáng chúng cho chúng tôi lên tàu, tôi nghe ngoài
biển có nhiều tiếng lào xào, nhìn ra thì thấy nhiều chiếc dzu dzu đang
chèo vô bờ. Nó chuyển chúng tôi cứ 4, 5 người xuống một xuồng cao su
(dzu dzu) và đưa ra tàu Kronstad. Nhóm sĩ quan nó đưa riêng lên một tàu,
mấy chục anh em Hạ sĩ quan, binh sĩ lên các tàu khác và tàu bắt đầu di
chuyển.
Khoảng trưa hôm sau, tức là trưa 20-1-1974, chúng tôi tới đảo
Hải Nam. Nó cho tôi lên bờ trước, sau đó mới đưa các anh em còn lại lên,
rồi nó đưa đám sĩ quan vào phòng ăn riêng gồm tôi và 1 Trung Úy Hải
Quân, 1 Sĩ Quan Địa Phương Quân, 2 Sĩ Quan Công Binh và anh Kosh, cả
thảy là 6 người.
Sau khi ăn cơm xong, chúng đưa chúng tôi ra phi trường để bay
về Quảng Châu. Khi lên máy bay chúng đưa tên Kosh lên ngồi trên cabin,
còn anh em chúng tôi ngồi ở khoang dưới. Đến Quảng Châu trời đã tối.
Riêng nhóm Hạ sĩ quan, binh sĩ và nhân viên Đài Khí Tượng chúng nhập
chung thành một toán cho xuống tàu lớn chở về sông Châu Giang cũng thuộc
thành phố Quảng Châu.
Hôm sau tất cả đám tù binh gồm 49 người, tính luôn cả anh
Kosh người Mỹ; trong đó có 23 chiến sĩ Địa Phương Quân, 6 người toán
chúng tôi, 5 nhân viên Khí tượng và 14 quân nhân Hải Quân, có thêm một
sĩ quan nữa là HQ Trung Úy Nguyễn Văn Dũng.
Tôi bị gọi lên lấy khẩu cung nhiều lần, chúng cố tình khai
thác tôi về tổ chức quân đội VNCH, nhưng tôi viện lý do “bí mật quân
sự”, phòng nào biết phòng đó, tôi chỉ nói một cách tổng quát và cứ lập
đi lập lại rằng, bên quân đội chúng tôi bảo mật rất kỹ, tôi chỉ biết
danh số có những phòng gì, còn mỗi phòng có những ai, làm việc gì, điều
đó tôi không biết. Tôi thấy nó chú tâm vào anh Hải Quân Trung Úy nhiều
hơn tôi, có lẽ muốn điều tra, khai thác kỹ về Hải Quân của ta để dự
phòng những trận hải chiến sau này có thể xảy ra.
Sau khi bị giam một tuần lễ, chúng lựa ra mỗi toán một người
để thả. Người đầu tiên là anh Kosh, chúng cho biết anh này bị một bệnh
mà họ gọi nguyên văn là “mãn tính kinh niên” nên cho về sớm, bên Khí
Tượng thả một người, bên Địa Phương Quân thả một người, bên Hải Quân thả
một anh bị thương nhẹ.(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/
theo Viễn Đông)
Vai trò của ông Kosh trong âm mưu của Mỹ.
Lần xuống đảo trước, tôi và anh Kosh này ngồi bên nhau, anh
ta kể, anh là Trung Úy Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh, anh làm cho Tòa Tổng
Lãnh Sự Mỹ. Lần này anh đi với tôi trong vai trò giám định để xem thực
hiện phi trường tốn phí ra sao và đề nghị Tòa Tổng Sự chi trả.
Trên nguyên tắc thì như vậy, nhưng thực tế đây chỉ là phi
trường ảo mà thôi, không có thật, anh ta đi với chúng tôi trong một sứ
mạng đặc biệt đã được Hoa Kỳ và Trung Cộng bí mật dàn dựng từ trước. Sứ
mạng đó là dùng chúng tôi làm con cờ thí, làm vật tế thần cho Trung Cộng
có cớ xâm lăng Hoàng Sa. Đây là điều bí mật từ trước tới nay chưa có
báo chí nào loan tải. Chúng ta hãy xem thái độ và cách hành xử của anh
Kosh này cũng như sự đối xử của nhà cầm quyền Trung Cộng thì sẽ rõ.
Trên giấy tờ, anh này đi công tác với chúng tôi chỉ có vài
ngày, nhưng khi anh mở cái sắc của anh ra, trong đó có đến hai cây thuốc
lá. Nếu tính thời gian công tác, anh hút nhiều lắm cũng chỉ 5, 6 gói
thuốc, vậy anh mang tới 20 gói thuốc để làm gì? Ngoài thuốc lá, trong
sắc tay của anh có đầy đủ dụng cụ mưu sinh thoát hiểm như lưỡi câu,
thuốc chống cá mập.
Sau khi bị bắt, trong buổi chiều ngồi cạnh tôi trên đảo, anh
mở một hộp cá ra ăn, anh mời tôi một lát cá. Tôi để ý thấy hộp cá nhỏ và
mỏng hơn hộp cá mòi Sumaco của Marốc, anh đưa cho tôi một lát mỏng như
miếng khô mực đã bị ép rất sát, anh nói với tôi: “Anh ăn đi, no đấy!”
Tôi nghĩ anh chàng này đùa dai, miếng cá mỏng dính và nhỏ xíu thế này
làm sao no.
Vậy mà khi ăn xong, tuy không no thiệt nhưng mà ngang dạ liền.
Tiếp theo là sự kiện anh đang ở trên HQ16 lại đòi lên bờ và bảo ở dưới
tàu nguy hiểm quá, mà lúc đó trận hải chiến chưa xảy ra. Phải chăng anh
đã biết trước sẽ có hải chiến và ở trên tàu khi đánh nhau thì nguy hiểm
thật, nên lên đảo để quân Trung Cộng làm bộ bắt cho chắc ăn hơn, và
chúng ta thấy, người đầu tiên Trung Cộng thả là anh chàng Kosh này.
Nói đến đây, tôi cũng xin mở dấu ngoặc là bây giờ biết anh
chàng này đóng vai trò gì trong kế hoạch của Mỹ, nhưng tôi cũng phải cám
ơn anh ta, nếu anh không đòi xuống đảo, thì tôi ở trên chiến hạm HQ16
cũng không còn sống trên cõi đời để thuật lại chuyện bí mật này, vì khi ở
trên tàu, tôi cứ thích đứng ở trên cái pháo tháp, mà khi hải chiến xảy
ra, pháo tháp của HQ16 đã bị trúng đạn Trung Cộng.(Sài Gòn trong tôi/
Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Sự đổi chác giữa Mỹ và Trung Cộng
Khoảng 10 giờ sáng, sau khi chúng tôi bị đưa vào trại giam có
tên là “Trại Thu Dung Tù Binh” thuộc Huyện Hoàng Hóa, thành phố Quảng
Châu, tỉnh Quảng Đông thì có một toán cán bộ Trung Cộng đến.
Đám này nói tiếng Việt rất rành và hầu hết đều nói giọng Bắc,
dấu hỏi, dấu ngã phân minh, chính xác. Một tên trưởng toán nói với chúng
tôi: “Hiện bây giờ, tiến sĩ Kissinger của Mỹ đang ngồi ở Bắc Kinh,
chiều hôm nay mọi người sẽ biết tin này, chúng tôi sẽ mang đến đây một
chiếc radio mở cho các anh nghe”.
Buổi chiều họ mang radio đến và mở cho chúng tôi nghe, đồng
thời mở luôn cả đài phát thanh Úc Đại Lợi cho nghe luôn. Trong bản tin
của đài phát thanh Trung Cộng có loan thế này: “Trong cuộc chiến đấu,
chí nguyện quân Trung Quốc đã bắt được một đám tù binh Miền Nam Việt
Nam, trong đó có tên Thiếu Tá Phạm Văn Hồng”.
Hồi đó, nếu ai có theo dõi tin tức trên các đài phát thanh cũng
đã nghe thấy như vậy. Điều đó cho thấy rõ ràng đã có âm mưu dàn xếp
giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng. Mỹ muốn dùng Hoàng Sa của VNCH làm món quà để
bình thường hóa quan hệ với Trung Cộng. Muốn trao Hoàng Sa cho Trung
Cộng, chính quyền Hoa Kỳ thời bấy giờ phải tạo ra một cuộc chiến, để
Trung Cộng có cớ xâm chiếm Hoàng Sa, và VNCH chúng ta tuy mắc bẫy, nhưng
chúng ta đã cho Hoa Kỳ, Trung Cộng và cả thế giới thấy tinh thần yêu
nước của chúng ta như thế nào.
Hải Quân VNCH chúng ta dám hiên ngang đương đầu chống lại bọn
Hải Quân xâm lược hùng mạnh hơn mình gấp bội. Chúng ta đã anh dũng và hy
sinh nhiều sĩ quan, binh sĩ Hải Quân cũng như thiệt hại một số chiến
hạm, nhưng chúng ta cũng đã đánh chìm một số tàu Trung Cộng tương đương
và chắc chắn nhiều tên gọi là chí nguyện quân của chúng đã bị tử
thương.(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Thêm bằng chứng về âm mưu giữa Mỹ và Trung Cộng trao đổi Hoàng Sa
Trước khi kể cho anh nghe chuyện trao trả tù binh, tôi cần nói
thêm chuyện này: Sau khi về đến Việt Nam, tôi gặp Trung Tá Lâm (Khóa 10
Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt), Trung Tá Lâm kể chuyện với tôi:
–
Không Quân của mình đã chuẩn bị sẵn sàng từ phi trường Biên Hòa bay ra
Đà Nẵng, rồi từ Đà Nẵng bay ra Hoàng Sa oanh kích, và các phi công cũng
chấp nhận sẽ chơi theo kiểu Nhật, khi phi cơ bay ra Hoàng Sa thì đủ
nhiên liệu nhưng lúc về thì không; do đó, các anh phi công sẽ bỏ phi cơ
và nhảy dù xuống biển, tàu của Hải Quân ta ứng trực sẵn sàng để tiếp
cứu. Mọi việc đã chuẩn bị đâu vào đấy, nhưng phút chót lệnh này bị hủy
bỏ!
Thêm nữa, có Đại Tá Lê Khắc Lý, lúc đó là Tham Mưu Trưởng Tiền
Phương Quân Đoàn I, Trung Tướng Lâm Quang Thi là Tư Lệnh Tiền Phương,
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng là Tư Lệnh Quân Đoàn I ở Đà Nẵng; các vị
này gọi tôi ra thuyết trình hai lần, buổi sáng cho các cơ quan hành
chánh Thừa Thiên – Huế, buổi chiều cho các quân nhân đồn trú nghe về
trân chiến Hoàng Sa tại Phú Văn Lâu.
Sau buổi thuyết trình, Đại Tá Lê Khắc Lý vỗ vai tôi và nói:
“Toa à, cố vấn mới nói chuyện với moa, moa bảo nó: ‘Tôi không hiểu tại
sao Trung Cộng nó lại đánh chiếm Hoàng Sa?’ Cố vấn Mỹ đã ‘hố’ khi trả
lời tôi: ‘Trung Cộng lấy Hoàng Sa, anh ngạc nhiên lắm à?’, moa mới nói
trớ đi: ‘Không, ý tôi nói là tại sao nó lại chiếm vào lúc này?’” Rồi Đại
Tá Lý nói tiếp: “Toa thấy không, tụi nó có kế hoạch cả rồi, nó đã sắp
xếp hết rồi!”
Thời đó, Ngoại Trưởng Henry Kissinger chuyên môn đi đêm, và
Tổng Thống Mỹ Richard Nixon muốn bắt tay với Trung Cộng thì phải có một
cái gì đó trao đổi. Tôi nghĩ món quà chính người Mỹ muốn tặng Trung Cộng
là Hoàng Sa của ta, bởi Trung Cộng muốn làm chủ Biển Đông mà Mỹ giao
Hoàng Sa cho Trung Cộng, họ đâu có mất gì, chỉ tội nghiệp cho đất nước
Việt Nam chúng ta là thân phận một nước nhược tiểu!(Sài Gòn trong tôi/
Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Cách đối xử của Trung Cộng với tù binh
Phải công bằng mà nói, viết lịch sử thì phải viết trung thực,
không nên viết theo kiểu tuyên truyền, cho nên tôi nói rất thật là bọn
Trung Cộng hơn hẳn bọn cộng phỉ bắc việt trong cung cách đối xử với tù
binh. Họ cho chúng tôi ăn uống theo quy chế tù binh chiến tranh đã được
quốc tế qui định, như tôi mang cấp bậc Thiếu Tá thì để tôi ở một phòng
riêng, bốn Trung Úy thì cứ hai ông một phòng, như vậy chúng tôi có ba
phòng ở liền nhau, còn ông Kosh người Mỹ một phòng riêng. Mỗi ngày họ
đem đồ ăn lên tận phòng cho chúng tôi, còn anh em Hạ Sĩ Quan và binh sĩ
thì ăn ở nhà ăn tập thể của quân đội Trung Cộng.
Sau thời gian 2, 3 tuần phải học tập mỗi ngày vào buổi tối để
nghe cán bộ Trung Cộng tuyên truyền thế này thế nọ. Tuần lễ thứ tư họ
dẫn chúng tôi đi thăm vài nơi (mấy anh chàng Trung Cộng nói tiếng Bắc,
bảo là dẫn chúng tôi đi tham quan).
Đầu tiên thăm một bệnh viện rồi thăm mấy hợp tác xã. Tôi để ý,
hầu như tất cả các nơi gọi là Trụ Sở Hợp Tác Xã đều là những ngôi chùa
xưa kia, bởi vì kiểu dáng là chùa, chữ đắp trên tường tuy bị đục bỏ hết
nhưng vẫn còn dấu tích rõ ràng, điều đó cho thấy tín ngưỡng đã bị đè bẹp
tại nước cộng sản đông dân nhất thế giới này!
Sau khi thăm các hợp tác xã, họ dẫn đi thăm nhà máy cơ khí. Tại
đây họ giới thiệu là nơi đúc các khẩu thượng liên và súng AK, sau đó
lại dẫn đi xem nhà máy làm xe đạp, gọi là xe đạp Hồng Kỳ thì phải, rồi
thăm một vài cư xá của công nhân. Tôi có hỏi một công nhân, lương hàng
tháng được bao nhiêu, thì người công nhân nói được trên 100 Nhân Dân Tệ,
trong lúc đó chiếc xe đạp Hồng Kỳ trị giá 130 Nhân dân tệ, cho ta thấy
mức sống của một công nhân trong chế độ cộng sản Trung Quốc như thế
nào.(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Trao trả tù binh
Tôi còn nhớ hôm đó là thứ Bảy, có lẽ ngày 16, 17 tháng 2 năm
1974, sau khi cho chúng tôi ăn uống xong, họ tập trung lại và tuyên bố
sẽ trả chúng tôi về Việt Nam. Họ phát cho mỗi người một bộ quần áo màu
xanh và cái mũ mà anh em chúng tôi gọi đùa là cái bánh tiêu. Một tên cán
bộ hỏi tôi muốn về miền nào, Bắc hay Nam Việt Nam. Tôi trả lời: “Chúng
tôi là người Việt Nam, Bắc hay Nam đều là Tổ Quốc tôi, nhưng hiện tại
hai miền có hai thể chế khác nhau, tôi không chấp nhận chế độ của miền
Bắc, tôi yêu cầu trả chúng tôi về miền Nam ”.
Họ đưa chúng tôi từ huyện Hoàng Hóa về thành phố Quảng Châu,
đường dài hơn 40 cây số, rồi lại từ Quảng Châu đưa ra Tô Giới tức là
Thẩm Quyến để trao trả chúng tôi tại Hồng Kông.
Ngay khi chúng tôi bước qua lằn ranh từ Thẩm Quyến sang Hồng
Kông, người đầu tiên chúng tôi gặp là ông Tổng Lãnh Sự VNCH tại Hồng
Kông. Ông niềm nở đón tiếp chúng tôi và cho người mang đến cho tất cả
anh em chúng tôi mỗi người một bộ quần áo dân sự mới toanh. Khi lên xe
buýt ra phi trường Khải Đức, chúng tôi vứt bỏ lại trên xe bộ quần áo
xanh do bọn Trung Cộng cấp phát và thay đồ dân sự.
Ra đến phi trường, chúng tôi hết sức xúc động thấy Phó Đề Đốc
Lâm Ngươn Tánh, Tư Lệnh Phó Hải Quân và một sĩ quan cao cấp bên Tổng Cục
Chiến Tranh Chính Trị (tôi không nhớ tên) đến đón. Vị này mang cho
chúng tôi quân phục đầy đủ, ai binh chủng gì thì mặc quân phục binh
chủng đó, ông còn mang cho tôi cặp lon Thiếu Tá nữa. Chúng tôi lại thay
đồ dân sự và mặc quân phục về nước. Chính Phủ VNCH thuê nguyên một
chuyến Boeing 727 của Hàng Không Việt Nam qua Hồng Kông đón chúng tôi
trở về sau một tháng bị bọn Trung Cộng bắt làm tù binh.
Về đến phi trường Tân Sơn Nhứt, ngoài thân nhân, chúng tôi còn
được đại diện các cơ quan Chính Phủ và Quân Đội đón tiếp, choàng vòng
hoa và đưa về trại an dưỡng Lê Văn Duyệt để nghỉ ngơi. Câu chuyện bí ẩn
trận Hoàng Sa và cuộc đời tù binh của tôi kết thúc.
Viễn Đông: Sau khi miền Nam rơi vào tay việt cộng, lúc đó Thiếu Tá đang ở đâu?
Th/t. Phạm Văn Hồng: Tôi phục vụ tại Đà Nẵng, và Đà Nẵng bị
bỏ ngỏ ngày 29-3-1975, ngày 5-4-1975, tôi bị bọn việt cộng bắt được và
đưa vào trại tù.
Viễn Đông: Thiếu Tá bị giam giữ đến ngày nào thì được thả về?
Th/t. Phạm Văn Hồng: Bọn việt cộng thả tôi vào tháng 2 năm 1982.
Viễn
Đông: Trong thời gian bị tù, cán bộ Việt Cộng có tra vấn gì về vụ Hoàng
Sa cũng như thời gian Thiếu Tá bị bắt làm tù binh ở Trung Cộng?
Th/t. Phạm Văn Hồng: Không những bọn cán bộ mà ngay cả rất
nhiều anh em cùng cảnh ngộ như tôi đều hỏi vụ này, đến nỗi tên tôi được
anh em gọi là “Hồng Hoàng Sa”. Một hôm, trong buổi gọi là “tọa đàm” anh
em có nêu vấn đề Hoàng Sa ra hỏi tên cán bộ cao cấp từ Trung Ương đến
chủ tọa. Tên cán bộ này ấp úng và sau một phút suy nghĩ hắn nói bừa:
“Chuyện Hoàng Sa, đảng và nhà nước ta đã có hướng giải quyết cụ thể và
đã giải thích trên báo Quân Đội Nhân Dân số… ngày…” rồi y vội vàng
chuyển qua đề tài khác ngay.
Viễn Đông: Khi được về với gia đình, Thiếu Tá làm gì, ở đâu cho đến khi sang định cư tại Hoa Kỳ?
Th/t. Phạm Văn Hồng: Khi ra khỏi tù, tôi không về trình diện,
tôi trốn lên Sài Gòn và tìm cách vượt biên. Tôi vượt biên tổng cộng 25
lần không thoát, ba lần bị bắt vào tù tiếp. Sau đó, tôi trốn sang
Campuchia, ghi tên giả làm Việt Kiều yêu nước, mục đích để tránh theo
dõi. Khi bọn bộ đội việt cộng rút về nước năm 1990, tôi xin được giấy
chứng nhận là Việt Kiều yêu nước do tòa đại sứ việt cộng ở Campuchia
cấp, thế là tôi về nước an toàn và cho tạm trú tại Sài Gòn. Tôi lén gửi
hồ sơ sang Bangkok, Thái Lan.
Đến khi có lệnh nộp hồ sơ đi Mỹ theo diện HO, tôi được xếp
vào danh sách HO 39 nhưng khi họ đối chiếu với hồ sơ tôi nộp lén ở
Bangkok, thấy khớp nhau nên họ đôn lên HO 29 và gia đình tôi qua Mỹ vào
năm 1995.
Viễn Đông: Qua sự kiện Hoàng Sa, Thiếu Tá muốn nói thêm điều gì còn trăn trở chưa nói ra được?
Th/t. Phạm Văn Hồng: Chuyện dĩ vãng đã đi vào lịch sử, nhiều
người đã kể lại trận chiến Hoàng Sa với đầy đủ chi tiết, và chúng ta sẽ
còn nghe nhiều lần khác nữa, vẫn không thừa, vì đó là những điều chúng
ta cần nói để vinh danh các Chiến Sĩ Quân Lực VNCH, đặc biệt binh chủng
Hải Quân, để các thế hệ con em chúng ta biết về cha ông của chúng đã
không hổ thẹn với tiền nhân, với Quang Trung – Nguyễn Huệ…
Tôi không thuộc binh chủng Địa Phương Quân nhưng có một điều
tôi mong ước, đó là khi vinh danh các anh hùng gìn giữ bờ cõi Tổ Quốc,
chúng ta đừng quên các chiến sĩ Địa Phương Quân cũng như các anh em
chuyên viên Khí Tượng, họ đã đóng góp phần mình vào việc gìn giữ một
phần hải đảo thiêng liêng của tổ quốc, họ đáng được Tổ Quốc Ghi Ơn bên
cạnh tất cả các Chiến Sĩ Quân Lực VNCH đã Vị Quốc Vong Thân.
(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Friday, January 19, 2024
Subscribe to:
Posts (Atom)