Nguyễn Công Khanh
Hai vị dũng tướng, Marcel Bigeard của quân đội Viễn Chinh Pháp và tướng Ngô Quang Trưởng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cùng bại trận trong hai cuộc chiến mà lần nào cũng làm thay đổi vận mệnh của Việt Nam. Hai ông cùng có ý nguyện cuối cùng là sau khi qua đời, tro của mình sẽ được đem về rải tại chiến trường xưa.
*
Tướng Marcel Bigeard (Getty Images |
Năm 1945, lần đầu ông được phái đến Đông Dương, trong
đó có nhiệm vụ huấn luyện dân quân Thái tại biên giới Lào chống lại sự
xâm nhập của Việt Minh. Ba năm sau ông trở lại Việt Nam lần thứ hai để
chỉ huy tiểu đoàn Thái, sau đó là tiểu đoàn Đông Dương vùng cao nguyên.
Ông đã tham dự nhiều trận đánh tại Bắc Việt.
Tháng 11 năm 1953, ông chỉ huy Tiểu đoàn Nhẩy Dù tham
dự trận mở màn Điện Biên Phủ. Tháng 3 năm 1954, Tiểu đoàn Dù của ông
trở lại, để tăng cường cho các căn cứ đang bị bao vây. Lòng quả cảm, tài
mưu lược của ông đã giúp chặn lại nhiều cuộc tấn công vũ bão của đối
phương. Ông được thăng Trung tá tại mặt trận. Nhưng cuối cùng ngày 7
tháng 5 năm 1954 Điện Biên thất thủ, ông đã cùng mười ngàn đồng đội bị
bắt cầm tù. Ba tháng sau ông được hồi hương.
Ông mất ngày 18 tháng 6 năm 2010, và là một trong
những người được tặng huân chương nhiều nhất. Ý nguyện cuối cùng là tro
của ông sẽ được rải xuống Điện Biên Phủ, nơi ông thất trận bỏ lại những
đồng đội đã ngã gục nằm ở đó trong bao lâu nay.
Theo tài liệu của Wikipedia là một trong những tài
liệu có thể tin cậy, những con số liên quan đến trận Điện Biên Phủ về
phía Pháp gần như chính xác, còn con số về phía Việt Minh không được
tiết lộ và chỉ là ước lượng. Trong trận này Pháp vận dụng gần 16,000
quân, tử trận và mất tích khoảng trên 4,000, bị bắt làm tù binh 10,998,
trong số này có 4,436 là thương binh. Những tù binh này đã phải lội bộ
400 km mới đến được trại giam,và trong thời gian bị giam cầm, khoảng hơn
5,000 tù binh đã chết. Số tù binh Pháp và lính thuộc địa hồi hương chỉ
còn lại 3,290. Số tù binh lính địa phương Việt Nam và Thái là 3,013
người, không biết số phận họ ra sao. Về phía Việt Minh, theo nhiều nguồn
tin, nhưng chắc chắn là con số gấp nhiều lần hơn của Pháp, Việt Minh đã
vận dụng khoảng 50,000 quân chính quy và 50,000 dân công trong việc
tiếp vận cho chiến trường. Tổng số binh sĩ tử trận và dân công chết vì
bệnh tật lên tới trên 30,000. Con số thương binh không được tính, thường
gấp nhiều lần. Rất nhiều binh sĩ hai bên đã mất tích vì bị bùn lầy vùi
lấp trong các chiến hào đã không được tìm kiếm. Hiện nay có 4 nghĩa địa
tại Điện Biên an táng 4,000 lính Việt Minh. Về phía Pháp chỉ có hai
tượng đài nhỏ do các cựu chiến binh Pháp xây để tưởng niệm các đồng đội
của họ. Chiến tranh chấm dứt, Việt Nam chia đôi. Gần một triệu người di
cư từ Bắc vào Nam đi tìm tự do.
Buổi sáng hôm đó, trời trong xanh, đúng vào ngày Điện
Biên Phủ thất thủ, ngày 7 tháng 5, một máy bay nhỏ giống như máy bay
thám thính T28 hồi đó xuất hiện, bay nhiều vòng trên thung lũng lòng
chảo Điện Biên, và từ từ xuống thấp. Sau đó, có những đám bụi từ phi cơ
được tung xuống. Bỗng nhiên có những âm vang, nghe như hòa lẫn của những
hồi kèn thúc quân với lời ngân của bài ca Hồn Tử Sĩ. Rồi một cơn lốc
xoáy từ đâu bốc lên đỡ những đám bụi đó cuốn đi và chạy vòng trong thung
lũng qua các cứ điểm quân sự ngày xưa: Anne Marie, Isabelle, Gabrielle,
Beatrice, Dominique, Hugette, Claudine, Elaine… Chiếc máy bay lượn
quanh thêm một vài vòng nữa, sau đó khuất dần về phía chân trời. Thung
lũng yên lặng trở lại. Tưởng như trong giây phút đó, trong những nghĩa
trang bao la với những dãy mộ sơn trắng, những chiến binh Việt Minh chợt
tỉnh từ giấc ngủ ngàn thu, cùng trở dậy chào mừng những vong hồn tử sĩ
phía bên kia đã một thời tranh sự sống chết với mình, nay có một chủ
tướng đã xuống nằm cùng với đồng đội.
Đoạn rải tro trên chỉ là một sự tưởng tượng, ý nguyện
cuối cùng của tướng Bigeard đã bị từ chối cùng thời gian Tổng trưởng
Quốc phòng Pháp sang thăm Việt Nam năm 2010. Nhà cầm quyền Hà Nội không muốn đó là một tiền lệ không hay cho họ.
*
Tướng Ngô Quang Trưởng(Getty Images) |
Vị tướng thứ hai là Trung tướng Ngô Quang Trưởng (1927-2007). Sinh tại Kiến Hòa, ông xuất thân là một sĩ quan tốt nghiệp Khóa 4 Thủ Đức năm 1954. Ngay sau khi ra trường, ông gia nhập binh chủng Nhẩy Dù cho đến năm 1966, từ cấp Đại đội trưởng, Tiểu đoàn trưởng rồi Tham mưu trưởng của Sư đoàn Dù. Sau đó binh nghiệp của ông đã gắn liền với miền Trung, vùng địa đầu giới tuyến cho đến khi triệt thoái, qua các chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ Binh, Quân Đoàn 1, Quân khu 1. Những lần được thăng cấp của ông đều dựa vào công trận. Ông có 3 tác phẩm ghi lại các kinh nghiệm trong chiến tranh Việt Nam được tàng trữ trong Trung Tâm Quân Sử Quân Lực Hoa Kỳ (U.S. Army Center of Military History).
Hãy tưởng tượng một lần nữa, buổi sáng hôm đó, một chiếc xe van chạy từ phía Đà Nẵng leo lên đèo Hải Vân. Lúc lên tới đỉnh, đến một chỗ đậu sát bên đường, gần chỗ tháp canh cổ được xây từ thời vua Minh Mạng. Phía dưới là rừng xanh, xa là biển rộng. Cả gia đình gồm một bà mẹ và mấy người con xuống xe. Trên áo họ còn đeo một mảnh vải đen, dấu hiệu của tang chế. Một người con, có lẽ là con cả, hai tay ôm một chiếc bình gốm. Họ đi đến một mỏm đất cao, nhìn ra biển Thái Bình bao la. Một người con khác thắp hương, đưa cho mỗi người một nén. Họ bắt đầu đọc kinh, Kinh Bát Nhã. Tiếng kinh của họ thoảng bay trong gió. Bài kinh được đọc xong. Người con cả đưa hũ tro đến cho mẹ và các em. Mỗi người bốc một nắm nhỏ, ngần ngừ như lưu luyến, rồi họ tung ra phía biển. Tiếng kinh lại thầm thì vang lên quyện vào với khói hương trầm như những tiếng gọi vong hồn tử sĩ. Một cơn lốc từ đâu thổi đến, mang theo những âm vang từ lòng đất, cơn lốc đã cuốn khói hương và tro của tướng Ngô Quang Trưởng bay về phía giới tuyến, nơi mà ông đã nhiều lần hành quân, lội bộ, ngồi quân xa hay trên trực thăng cùng các chiến hữu trong những trận chiến khốc liệt mà bao nhiêu đồng đội của ông gục ngã. Hôm đó ông đã trở về với họ.
Trung tướng Ngô Quang Trưởng gắn huy chương cho một đơn vị binh sĩ Mỹ (Getty Images) |
Cũng theo Wikipedia, tổn hại trong
chiến tranh Việt nam của ba phía là: Hoa Kỳ lính chết 58,272, bị thương
153,000, mất tích nay còn là 1,687, và 866 tù binh hồi hương. Nguồn tin
từ chính phủ miền Bắc cho biết, tử trận 1.1 triệu lính, trong đó có
849,000 lính Bắc Việt và 251,000 lính Việt Cộng miền Nam, 300,000 binh
sĩ mất tích, số bị thương không được biết. Phía Việt Nam Cộng Hòa,
266,000 tử trận, các con số khác không có nguồn tin. Về phía dân chúng
khoảng trên 2 triệu người chết.
Nếu có dịp đi xe lửa xuyên Việt Bắc Nam, người ta sẽ
thấy có rất nhiều nghĩa trang lính Cộng sản nằm dọc hai bên đường sắt,
với những hàng mộ trắng thẳng tắp và kỳ đài tưởng niệm được chăm lo chu
đáo. Trong khi đó không còn thấy đâu nghĩa trang của những người lính
Cộng Hòa Miền Nam. Bức tượng người lính an nghỉ Tiếc Thương và cả nghĩa
trang Biên Hòa cũng bị phá nát. Quốc hội Mỹ đã thu hồi 1 triệu đô la trợ
giúp kỹ thuật giúp tìm các binh sĩ hai bên mất tích trong trận chiến
tranh vừa qua, vì nhà cầm quyền Việt Nam đã từ chối không chịu tìm những
binh sĩ miền Nam.
Nhìn lại thế giới, các cuộc nội chiến như Bắc-Nam của
Mỹ, Đông và Tây Đức sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, họ giải quyết khá
nhanh, không gây những di hại hận thù dai dẳng. Ngay như giữa Mỹ và
Nhật trong Thế Chiến Thứ Hai, cả hai cùng đập nhau những đòn chí tử,
nhưng chẳng bao lâu kẻ thua người thắng sát lại với nhau, khiến cho Nhật
Bản trở lại vai trò cường quốc. Như cái tinh thần thượng võ của hai võ
sĩ quyền Anh, cùng ra sức giáng những cú đấm thôi sơn lên mặt nhau, dù
rằng mắt mũi sưng vù, nhưng sau trận đấu họ thường lại đến ôm lấy nhau.
Chắc đó hẳn là cái văn hóa chiến tranh của phương Tây.
Việt Nam đến nay, đã gần 50 năm rồi, thù hận giữa
thắng và bại vẫn chưa xong. Bắc Hàn, Nam Hàn không biết đến bao giờ,
Cam-Bốt đã giải quyết gần xong. Có thể đó là do ảnh hưởng độc hại của
“Văn Hóa Cầm Quyền” Trung Hoa. Luôn luôn nuôi thù hận giữa các triều
đại, bằng cách tru di tam tộc, nhổ cỏ nhổ tận gốc, phân chia giai cấp,
bần cố nông đấu tố địa chủ, v.v... Cái bóng ma Trung Quốc vẫn còn phủ
trùm lên các chư hầu Á Châu, không những họ đã không thoát ra được, mà
các chư hầu này còn đi xa hơn cái văn hóa thâm độc đó, bằng những từ
ngụy quân ngụy quyền, cải tạo, diệt tư sản, đẩy người ra biển để trục
lợi. Cam Bốt lại còn đi quá xa bằng cách diệt chủng, hai triệu người vô
tội đã chết một cách dã man…
Cuộc chiến tranh triền miên vừa qua là một cuộc nội
chiến tàn hại nhất trong lịch sử Việt Nam. Bao nhiêu người đã chết, hận
thù vẫn chưa tiêu. Hai bên đều bị hai thế lực bên ngoài trực tiếp hay
gián tiếp thúc đẩy để tương tàn, sát hại lẫn nhau. Chiến thắng Điện Biên
Phủ tưởng sẽ đem lại cho miền Bắc hạnh phúc ấm no, trái lại người dân
vẫn bị trầm luân trong cảnh đói khổ bao cấp suốt hơn hai mươi năm trời
kế tiếp. Rồi đến, Đại Thắng Mùa Xuân, đất nước thống nhất, đói khổ trầm
luân vẫn tiếp tục và biết bao nhiêu thảm cảnh mới lại tiếp tục xẩy ra,
hàng trăm ngàn sĩ quan miền Nam bị đưa đi tù đầy cải tạo, gia đình ly
tán. Triệu người vượt biển đi tìm tự do và hàng trăm ngàn mạng người đã
vùi thân dưới biển sâu. Phải đợi đến hai mươi năm sau khi lệnh cấm vận
được bãi bỏ, đất nước mới có cơ hội thay đổi và phát triển, nhưng đồng
thời lại gây nên bao tệ trạng xã hội trầm trọng, không thuốc chữa và vẫn
không thoát khỏi nguy cơ Bắc thuộc, mất đất mất biển.
*
Ảnh: ante-samarzija-unsplash |
– Nguyễn Công Khanh
* Bài viết có tham khảo bài Trải Tro Theo Gió của nhà văn Nguyễn Tường Thiết thuật lại việc rải tro tướng Ngô Quang Trưởng vào mùa Hè 2008
No comments:
Post a Comment