Đầu
năm 1969, Trung Đoàn 44 BB được Bộ TTM chọn làm đơn vị thí điểm cho Kế
Hoạch Chân Trời Mới của Quân Đoàn II/ Vùng 2 Chiến Thuật. Một kế hoạch
qui mô nhằm củng cố và phát triển mọi mặt để đưa Trung Đoàn trở thành
một trong những đơn vị vững mạnh, thiện chiến của QLVNCH, làm mẫu mực
cho các đơn vị khác, hầu đáp ứng tình hình chiến tranh ngày một leo
thang. Cộng Sản BắcViệt ào ạt đưa đại quân xâm nhập Nam Việt Nam qua
đường mòn Hồ Chí Minh, trước dấu hiệu Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh VNCH, qua
chiêu bài Việt Nam Hóa Chiến Tranh.<!>
Để
hổ trợ cho việc thực thi kế hoạch này, Tổng Cục CTCT ưu tiên cung cấp
những cán bộ CTCT ưu tú, đặc biệt ở cấp đại đội. Trung Đoàn tiếp nhận 12
thiếu úy tân khoa Khóa 1/ Trường Đại Học CTCT Đà Lạt. Đây là quân
trường cuối cùng của QLVNCH được thành lập theo khuôn mẫu của Trung Hoa
Dân Quốc, nhằm đào tạo những cán bộ CTCT mẫu mực, có đầy đủ khả năng,
đức độ, để làm nòng cốt, hướng dẫn tư tưởng, tinh thần cho các đơn vị
chiến đấu.
Cùng
trong mục đích này, đơn vị cũng được bổ sung đặc biệt một sĩ quan Nữ
Quân Nhân ưu tú, đảm trách chức vụ Trưởng Ban Xã Hội thuộc Khối CTCT.
Trung
Đoàn 44 BB đồn trú tại trại Lý Thường Kiệt, Sông Mao. Bản doanh của Sư
Đoàn 5 BB, từ thời Đại tá Tư Lệnh Voòng A Sáng, bàn giao lại để di
chuyển vào Vùng 3 Chiến Thuật. Sông Mao là một thị trấn nhỏ nằm phía Bắc
Phan Thiết khoảng 70 cây số, cách Quốc Lộ 1 về hướng Tây gần 2 cây số.
Hầu hết dân chúng ở đây là người Nùng, đã từng theo chân đại tá Voòng A
Sáng và Sư Đoàn 3 Dã Chiến từ vùng Mống Cái vào đây sau Hiệp Định Genève
năm 1954, để sau đó biến cải thành SĐ5 BB. một trong những sư đoàn đầu
tiên và thiện chiến của thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Phía dưới, về hướng Đông,
nằm dọc theo Quốc Lộ 1 là quận Phan Lý Chàm (Chợ Lầu). Dân chúng đa số
là người Chàm. Có cả dinh cơ của bà công chúa cuối cùng của vương quốc
Chiêm Thành, với đền thờ vua, cờ xí, long bào, và ấn tín. Cách đó không
xa là mật khu Lê Hồng Phong rộng lớn nổi danh của VC. Phía trên là dãy
Trường Sơn với mật khu Bá Ghe, nơi trú ẩn của một số đơn vị VC địa
phương, đặc biệt có cả một đại đội nữ.
Nhắc đến địa danh Sông Mao và mật khu Lê Hồng Phong người ta nhớ tới mấy câu thơ nổi tiếng hào sảng của nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn:
Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu
Đây
là một vùng khô cằn sỏi đá. Mùa hè, nắng cháy, thỉnh thoảng có vài ngọn
gió Nam thổi đến, xoáy theo những đám bụi mù trời. Nhưng một hôm bỗng
dưng như có những cơn gió mát làm dịu bớt cái không gian rất “lính” này.
Không phải gió từ biển thổi lên, mà từ cao nguyên Lâm Viên và từ tận
thủ đô Sài gòn mang tới. Cùng lúc với mười hai chàng trai tuấn tú từ
trường Đại học CTCT Đà Lạt khăn gói về đây trình diện, là một bông hoa
tài sắc từ trường Xã Hội Quân Đội: Thiếu úy Đinh Thiên Kim (*). Trung
Đoàn đón tiếp những chàng “Nguyễn Trãi 1” và vị nữ lưu này với niềm vui
đặc biệt: hy vọng sẽ có những luồng gió mới trong sinh hoạt của đơn vị
hầu mang lại những thành quả, chiến công, trước nhất là thực thi hoàn
hảo Kế Hoạch Chân Trời Mới được Quân Lực tin tưởng giao phó.
Kim
là một cô gái có nhan sắc và trình độ học vấn, tình nguyện vào ngành Nữ
Quân Nhân Xã Hội khi vừa tốt nghiệp cử nhân văn khoa. Và điều đặc biệt
hơn, mà sau này chúng tôi mới biêt, là trưởng nữ của một vị đại tá, giữ
chức vụ khá quan trọng tại Bộ Quốc Phòng.
Với
bao nhiêu “hào quang” ấy, Kim không chỉ là một “cánh hoa hương sắc lạc
giữa rừng gươm” mà còn tỏa sáng như một vì sao trên bầu trời đầy đạn bom
và gió mưa vần vũ.
Bản
doanh đặt tại một thị trấn đìu hiu, còn có tên là “thị trấn của lính”,
đơn vị còn đảm trách cả một vùng hành quân rộng lớn từ khu núi rừng
trùng điệp cho đến những đồng bằng bao la ven biển, trong đó có nhiều
mật khu nổi danh của địch. Những cuộc hành quân truy tìm và tiêu diệt
địch liên tục tiếp diễn. Bên cạnh những chiến thắng vẻ vang không thể
tránh khỏi một số lượng binh sĩ hy sinh và thương tích. Gia đình tử sĩ
và thương binh rất cần tới bàn tay và tấm lòng của các Nữ Quân Nhân Xã
Hội. Trong chiến tranh, giữa khung cảnh đạn bom và chết chóc, họ xuất
hiện như là những thiên thần âm thầm xoa dịu bao vết thương, cùng bao
nỗi đớn đau của những người lính, người vợ lính đã hy sinh cho tổ
quốc.Thiếu úy Kim (thăng cấp trung úy từ đầu năm 1971) đã bôn ba từ đơn
vị đến các bệnh viện, rồi đến trại gia binh để không những làm tròn
thiên chức của mình mà còn chia sẻ nỗi đau thương mất mát với những
chiến hữu và gia đình bất hạnh.
Tháng
2 năm 1972, Trung Đoàn di chuyển lên An Khê để thay thế cho một đơn vị
thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho
chiến trường Bình Định. Nhưng chỉ sau hai tháng, khi BTL/ HQ/ SĐ22 BB bị
đại quân CSBV (vừa xâm nhập từ miền Bắc) tràn ngập tại căn cứ Tân Cảnh.
Vị Tư Lệnh khí phách hào hùng, Đại Tá Lê Đức Đạt, từ chối lên trực
thăng của cố vấn Mỹ, ở lại tử chiến cùng với đồng đội dưới quyền và vùi
thây nơi chiến địa. Địch quân ào ạt tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy
thành phố Kontum. Trung Đoàn 44 BB nhận lệnh di chuyển khẩn cấp đến phi
trường Pleiku để không vận lên Kontum trong đêm, khi thành phố này đang
mịt mù trong lửa đạn.
Đơn
vị đã mở đầu bằng một chiến công hiển hách, ngăn chặn và đánh tan một
lực lượng Sư Đoàn Thép 320 của Công quân được tăng cường một tiểu đoàn
xe tăng T- 54 tại tuyến Tây Bắc, giữ vững được Kontum, và trở thành
tuyến đầu của trận chiến Cao Nguyên trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa. Chiến
thắng ngày ấy dù có vinh quang, để có một “Kontum Kiêu Hùng”, cũng đã
phải trả một cái giá không nhỏ. Gần 300 chiến sĩ hy sinh và một số lượng
tương tự đã trở thành thương binh.
Ngay
sau trận chiến đẫm máu đầu tiên này, trung úy Kim đã có mặt tại Kontum
cùng với hai nữ trung sĩ, phụ tá. Nhóm nữ quân nhân mỗi ngày tất tả thăm
viếng ủy lạo thương binh, đón đưa, săn sóc, an ủi thân nhân tử sĩ. Dù ở
tại Bộ Chỉ Huy hay tiền cứ của Trung Đoàn, vẫn phải sống trong những
căn hầm chật chội bên các giao thông hào bao trùm mùi tử khí, dưới những
trận mưa pháo, và sẵn sàng cầm súng chiến đấu tự vệ khi địch tấn công.
Cùng
một đơn vị và quen biết đã lâu, nhưng tôi không có nhiều dịp tâm tình
với người nữ sĩ quan khả kính, mà trong đơn vị ai cũng mến thương và nể
trọng. Thời gian ở Kontum, để Kim an tâm và giữ vững tinh thần, nhóm sĩ
quan trong BCH Trung Đoàn luôn quan tâm lo lắng, bảo vệ cho cô. Nhiều
lần tôi khuyên Kim nên về hậu trạm Pleiku cho an toàn và không quá vất
vả, tôi sẽ đề nghị với ông trung đoàn trường, và chắc chắn là ông sẽ
đồng ý, nhưng cô nhất quyết chối từ. Cô bảo là chính ông trung đoàn
trưởng cũng đã từng khuyên cô như thế, nhưng cô xin được ở lại để có thể
gần gũi lo lắng cho anh em thương binh và những gia đình lên tìm thăm
mộ tử sĩ.
Một
hôm, khoảng 1 giờ sáng, địch quân pháo kích dữ dội để hỗ trợ một toán
đặc công của chúng xâm nhập vào căn cứ, Trung úy Kim luôn có mặt bên
cạnh chúng tôi, chạy dọc theo giao thông hào, tiếp tế lựu đạn, đạn đại
liên cho anh em phòng thủ, và tiếp tay với các y tá băng bó chăm sóc cho
các binh sĩ bị thương.
Vào
những ngày yên ả hiếm hoi, Kim phụ trách nấu cơm và ăn chung với đám
chúng tôi. Trong tình thân thiện, tôi hỏi tại sao Kim có bằng cấp cao,
lại là ái nữ của một sĩ quan cao cấp ở Bộ Quốc Phòng mà lại tình nguyện
ra một đơn vị chiến đấu, hiểm nguy và khổ nhọc. Ngập ngừng một lát, rồi
với hai hàng nước mắt, Kim kể cho chúng tôi nghe tâm sự thật buồn của
cô:
Kim
có một người bạn trai cùng học Văn Khoa, sau này trở thành người yêu
rồi vị hôn phu. Cuộc tình đang thời kỳ mặn nồng thì anh nhận lệnh động
viên nhập ngũ vào Thủ Đức. Ra trường, được thuyên chuyển về chính Sư
Đoàn 23 BB này, nhưng chỉ sau sáu tháng anh đã hy sinh trong một trận
chiến ở Quảng Đức. Kim đã tình nguyện vào Trường Nữ Quân Nhân và sau khi
tốt nghiệp đã xin ra đơn vị của người yêu ngày trước, để được sống và
chiến đấu bên bóng dáng và linh hồn của anh, của người tình mà cô đã
từng hứa hẹn cả một đời bên nhau chung thủy. Những lúc hiểm nguy, cô
luôn tưởng tượng có người yêu mình bên cạnh, cùng chiến đấu, chở che,
nên rất an tâm, bình tĩnh, và cảm nhận có những phút giây thiêng liêng
hạnh phúc.
Một cuộc tình thật đẹp và cũng thật bi tráng trong thời đất nước chinh chiến điêu linh.
Cuối
năm 1974, sau khi được thăng cấp đại úy, Kim có lệnh thuyên chuyển về
một đơn vị tại Sài gòn, (dường như là Tổng Y Viện Cộng Hòa). Cô quyến
luyến giã từ đơn vị với bao tiếc thương của đồng đội và đặc biệt, của
những người vợ lính từng được cô thăm nom, an ủi và chia sẻ cả những
giọt nước mắt chân tình. Và cũng từ ngày ấy chúng tôi mất liên lạc nhau.
Chiến trường ngày quá nặng nề, chúng tôi chỉ còn biết có súng đạn và
mục tiêu trước mặt, không còn chút thì giờ rảnh rỗi nào để liên lạc hay
tìm thăm những đồng đội cũ – vì lý do này hay lý do kia – đã rời khỏi
đơn vị.
Năm
1978, trong một trại tù ở Hoàng Liên Sơn, tôi bất ngờ gặp thân phụ của
Kim. Vị đại tá trông rất đạo đức hiền lành giờ cùng tôi mang thân phận
tù đày. Tôi tìm đến ông khi nghe một tên cai tù gọi đúng tên ông mà tôi
được biết từ lâu, khi Kim kể cho chúng tôi nghe về người cha mà cô hết
lòng yêu thương kính phục. Vì tuổi già, bệnh hoạn, sức yếu, ông được bọn
cai tù cho miễn ra ngoài lao động, ở nhà phụ trách quét dọn khu hội
trường và sân trại. Tôi hỏi ông về Kim, được biết là cô cũng đang ở một
trại tù khác trong Nam. Khi nghe tôi kể về Kim, người nữ sĩ quan mà cả
đơn vị tôi đều yêu thương mến mộ, ông rơm rớm nước mắt rồi mơ hồ như
đang nhìn về một cõi xa xăm nào đó.
Vài
tháng sau, chuyển trại, tôi không còn gặp lại ông nữa. Không biết là
ông có còn sống qua bao năm tù đày nghiệt ngã để còn gặp lại vợ con, đặc
biệt là cô con gái nối nghiệp ông, tình nguyện vào quân đội, chọn chốn
hiểm nguy sinh tử, trong khi tương lai đang là cả một bầu trời xanh bao
la mở ra trước mặt. Và trên tất cả, là một Sĩ Quan Nữ Quân Nhân ưu tú,
phục vụ hết lòng không chỉ vì trách nhiệm mà bằng tất cả trái tim mình.
Tôi
còn nhớ, sau trận chiến Kontum, cô được tưởng thưởng nhiều bằng tưởng
lục và một anh dũng bội tinh với ngôi sao đồng. Nhưng có lẽ không có tấm
huy chương nào giá trị và cao quí hơn bằng tình yêu thương, lòng ngưỡng
mộ mà tất cả đồng đội cùng những người vợ lính – dù còn sống hay đã hy
sinh – đã dành cho cô.
Ra
hải ngoại, bạn bè cùng đơn vị hỏi thăm tin tức, tìm kiếm nhau. Chúng
tôi đã có cơ hội gặp lại hay biết tin khá đầy đủ về những đồng đội thân
quen thuở trước, ngoại trừ Kim. Trong một dịp được gặp bà cựu Trung Tá
Nguyễn Hạnh Nhơn và vài chị trong Hội Nữ Quân Nhân, chúng tôi có hỏi
thăm và nhờ tìm kiếm tin tức Kim, nhưng không ai biết.
Không
biết bây giờ Kim ở đâu và cuộc sống ra sao, sau ngày “tan đàn rã nghé”,
khi mà đơn vị chúng tôi có một thời cùng phục vụ, cùng chiến đấu bên
nhau, luôn thắm đẫm nghĩa tình “huynh đệ chi binh” đã không còn tồn tại
nữa. Có chăng chỉ còn trong ký ức, qua những giây phút chạnh lòng hồi
tưởng về một thời lửa đạn, sống từng ngày giữa lằn ranh sống chết quá
mong manh, nhưng cũng rất hào hùng và đẹp đẽ biết bao nhiêu!
Mỗi
lần đất khách gặp nhau, chúng tôi luôn nhắc nhở tới Kim, người nữ sĩ
quan đã để lại trong lòng chúng tôi một hình ảnh vừa anh thư khả ái vừa
kiêu hùng, mà những người bạn, những đồng đội ngày xưa, và những người
vợ, con của lính, vẫn còn nợ cô một lời cám ơn chưa kịp nói, và có thể
sẽ không bao giờ có cơ hội để được nói cùng cô. Xin cầu mong mọi điều
tốt đẹp cho Kim. Dù cô đang sống ở một nơi xa xăm nào đó, Thượng Đế từ
tâm chắc không thể bất công với những con người có một tấm lòng trung
trinh, khí khái, và nhân hậu như cô.
Phạm Tín An Ninh
(*)
Kim không phải là tên thật. Vì có thể cô còn sống ở VN. Để tránh phiền
phức, người viết xin phép dùng tên Kim thay cho tên thật của cô.
nguồn : http://www.namuctuanbao.net/1015/Kaki.php
No comments:
Post a Comment