Friday, December 13, 2024

TÁC DỤNG CỦA TẦM NHÌN CHÍNH TRỊ QUA XUNG ĐỘT NGA- UKRAINE

 Bốn chữ “Ukraine thuộc Nga” đóng đinh trong đầu của TT Nga gốc sĩ quan tình báo Liên Xô tại Đông Đức Vladimir Putin. Theo tài liệu của Bộ Ngoại Giao Mỹ, trong một hội nghị của NATO 2008 tại Bucharest, Romania, Putin nhắc cho TT George W. Bush biết “Ukraine không phải là một quốc gia” mà là một phần của Nga. Trong một tiểu luận đăng trên website của chính phủ Nga ngày 12 tháng 7, 2021 “Về sự thống nhất lịch sử của người Nga và người Ukraine“, Putin cho rằng Nga và Ukraine là một dân tộc, một nền văn hóa, một tôn giáo và một truyền thống lịch sử: “Người Nga, người Ukraine và người Belarus đều là con cháu của Rus cổ đại, là nhà nước lớn nhất ở châu Âu.”


Sau nhiều năm tìm cách sáp nhập Ukraine vào Nga lần nữa bằng nhiều phương pháp, ngày 24 tháng 2, 2022 Putin chọn con đường vũ lực qua việc chính thức tấn công Ukraine.

Chiến tranh bùng nổ hôm nay là hậu quả phát xuất từ các chính sách đối ngoại và đối nội sai lầm suốt 31 năm của nhiều lãnh đạo và chính phủ Ukraine bất tài và tham nhũng bắt đầu với Leonid Kravchuk, đại diện Belarus tại lễ ký kết giữa các lãnh đạo Nga, Ukraine và Belarus để thành lập Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập (Commonwealth of Independent States).

Tổ chức này thực tế là cái tròng đã có từ thời Nga Hoàng do Boris Yeltsin đặt trên cổ các nước nhỏ sắp thoát khỏi Liên Xô. Liên Xô sụp hơn hai tuần sau đó. Ngoại trừ ba nước nhỏ vùng Baltics, phần lớn rơi vào chiếc bẫy sống chung trong thịnh vượng và độc lập này.

Chính sách an ninh của Nga dù trải qua nhiều thời kỳ từ phong kiến sang CS tới cộng hòa về căn bản đều giống nhau. Nga thiết lập và bảo vệ một vùng an ninh chung quanh biên giới. Hiệp ước bí mật giữa Stalin và Hitler 1939 cũng nằm trong chiến lược đó.

Sau 1991, Ukraine có nhiều cơ hội thoát khỏi ảnh hưởng Nga nhưng không thoát chỉ vì giới lãnh đạo có một tầm nhìn quá hẹp.

Ukraine trước 1994 là một trong ba quốc gia có khối lượng vũ khí nguyên tử lớn nhất thế giới, sau Mỹ và Nga. Năm 1994, Ukraine đồng ý hủy bỏ vũ khí nguyên tử nhưng không nhận lại một khoản lợi quan trọng hay cam kết của Liên Hiệp Quốc nào, chẳng hạn như gia nhập cộng đồng kinh tế Âu Châu, thành viên NATO, viện trợ hàng năm v.v… ngoài trừ những hứa hẹn trên đầu môi chót lưỡi của Anh, Mỹ, Nga tại hội nghị Budapest . Nga sáp nhập vùng Crimea cũng không tạo nên một phản ứng quốc tế lớn mạnh nào.

Từ một người dân thường cho đến lãnh đạo một quốc gia tầm nhìn vẫn là yếu tố quyết định cho tương lai của một gia đình hay một dân tộc. Biến cố Ukraine là một bài học cho mọi người Việt quan tâm đến vận mệnh đất nước.

———————————————————-

Hôm đó là ngày 8 tháng 12, 1991 tại một khu nhà nghỉ mùa đông thuộc Belarus, cách biên giới Ba Lan 8 km, đại diện ba nước Russia, Ukraine, and Belarus vừa tuyên bố độc lập khỏi Liên Xô gặp nhau.

Boris Yeltsin đại diện Nga, Stanislav Shushkevich đại diện Belarus và Leonid Kravchuk đại diện Ukraine. Cả ba lãnh đạo đều rất vui mừng, phấn khởi vì quốc gia họ đang đứng trước ngưỡng cửa mới đầy hy vọng cho tương lai.

Bắt đầu chỉ với 3 quốc gia trong số 15 nước “xã hội chủ nghĩa” Liên Xô, tham dự hội nghị nhưng trong thực tế ba nước này chiếm tới 73% dân số và 80% diện tích của Liên Xô. Trong ngày 8 tháng 12 hôm đó, ba phái đoàn tuyên bố thành lập Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập (Commonwealth of Independent States).

Đọc tin một thông cáo chung được ký, Mikhail Gorbachev trong diễn văn truyền hình ngày hôm sau tuyên bố văn bản đại diện ba nước ký là “bất hợp pháp”.

Để giải quyết bất đồng, Yeltsin và Gorbachev gặp nhau một tiếng rưỡi đồng hồ. Khi bước ra khỏi phòng họp, Gorbachev biết dù ông tìm mọi cách cứu vãn sự sụp đổ của Liên Xô là điều không tránh khỏi.

Trong buổi họp đó, Boris Yeltsin, lãnh đạo Nga vừa hồi sinh và Mikhail Gorbachev, lãnh đạo Liên Xô đang hấp hối, đồng ý năm chôn cất Liên Xô là 1992 chứ không phải 1991 như đã diễn ra.

Những ngày đó Liên Xô còn tồn tại nhưng trong thực tế đang trên đà tan rã.

Nhắc lại, trước đó ba tháng, 18 tháng 8, 1991, phe cực đoan bảo thủ, được gọi là “nhóm tám người” trong trung ương đảng CSLX ráng hết sức hắt hơi lần cuối cùng để cố phục hồi sinh khí cho Liên Xô. Thành phần này được báo chí gọi là “nhóm tám người”, chủ trương quay ngược kim đồng hồ trở lại thời Leonid Brezhnev.

Dù là những lãnh đạo cao cấp nhất trong đảng như Phó Chủ Tịch Nước Gennady Yanayev, Thủ tướng Valentin Pavlov, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Dmitry Yazov, Tổng Giám Đốc KGB Vladimir Kryuchkov v.v… “nhóm tám người” đã không giữ được quyền lực quá ba ngày vì bộ máy CS đã rệu rã đến tận cùng.

Điều đó cho thấy sự mục nát của các chế độ độc tài CS thường bắt đầu từ bên trong cơ chế. Căn nhà càng cao càng dễ sụp đổ. Thượng tầng kiến trúc chính trị không thể tồn tại lâu trên một hạ tầng kinh tế xã hội mục nát.

Biến cố lật đổ Gorbachev chẳng những không làm chậm phong trào độc lập tại 15 nước “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa” trái lại thúc đẩy phong trào được tiến hành nhanh hơn và dẫn đến sự ra đời khá vội vã của Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập (Commonwealth of Independent States, gọi tắt CIS).

Boris Yeltsin muốn đặt Gorbachev trước sự kiện đã rồi khi thành lập CIS thay thế cho Liên Xô như một tổ chức đáp ứng nhu cầu của quốc gia thành viên sau khi Liên Xô sụp đổ . Sau lễ ký kết sơ khởi, các quốc gia Trung Á và vùng Caucasus như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkmenistan, Uzbekistan, Armenia, Azerbaijan, Georgia và Moldova lần lượt tham gia.

Lãnh đạo của các quốc gia tham gia CIS đều ý thức vai trò chế ngự của Nga nhưng lúc đó họ đã không đặt nặng. Họ quan tâm đến các yếu tố kinh tế xã hội hơn là vai trò chủ đạo của Nga trong các lãnh vực khác, nhất là chủ quyền lãnh thổ, an ninh và quốc phòng.

Dưới thời Putin khái niệm “lân bang” được ra đời để chỉ các quốc gia “vùng độn” bao bọc chung quanh Nga như thời Nga Hoàng.

Tuy nhiên, có ba quốc gia rất nhỏ vùng Baltics đã thấy trước điều đó. Lãnh đạo ba quốc gia nhỏ này đã từ chối thẳng thừng việc tham gia Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập. Ba nước đó là Latvia, Lithuania, Estonia.

Chọn Latvia để phân tích vì chính sách đối ngoại và vị trí chiến lược của Lithuania, Estonia về căn bản cũng giống như của Latvia.

Latvia là quốc gia theo thể chế Cộng Hòa vùng Baltic, thủ đô Riga, có dân số thống kê năm 2019 là 1.9 triệu người, bằng dân số tỉnh Quảng Nam, có chung biên giới với Estonia, Lithuania, Belarus và Nga.

Latvia độc lập năm 1918 nhưng bị Liên Xô chiếm năm 1940, bị Đức Quốc Xã chiếm năm 1941, bị Liên Xô chiếm lần nữa năm 1944 và sau đó trở thành nước CS trong hệ thống Liên Xô mãi cho đến khi chính thức độc lập năm 1991.

Bằng việc chấp nhận Tuyên Bố về Tái Lập Nền Độc Lập của Cộng Hòa Latvia (The Declaration on Restoration of Independence of the Republic of Latvia), Latvia chính thức thoát ra khỏi quỹ đạo Liên Xô ngày 4 tháng 5 năm 1990, hơn một năm rưỡi trước khi Liên Xô đổ.

Không ít người nghĩ một cách bi quan và hạn hẹp rằng khi nào Liên Xô còn tồn tại thì các nước nhỏ chung quanh khó mà độc lập. Không. Phần lớn các quốc gia trong khối Liên Xô trở nên độc lập trước khi Liên Xô tan rã.

Lãnh đạo của nền cộng hòa Latvia khẳng định họ không phải là một nước cộng hòa tân lập mà kế tục chế độ cộng hòa được thành lập từ 1918.

Mặc dù đa số thành viên bỏ phiếu hay chấp nhận bản tuyên bố độc lập chưa sinh ra trong giai đoạn lịch sử 71 năm trước đó, họ biết rằng lịch sử Latvia là một dòng Cộng Hòa liên tục. Giọt nước Latvia của thời điểm 1990 đã bắt đầu từ thượng nguồn Latvia năm 1918 đầy hy sinh gian khổ dưới hai ách Hitler và Stalin, hai lãnh tụ độc tài tàn ác nhất trong lịch sử loài người. Các thế hệ Latvia học lịch sử để làm lịch sử.

Như người viết đã phân tích trong loạt bài về các quốc gia vùng Baltics, trong thời điểm 1990, các lãnh đạo phong trào độc lập Latvia có một tầm nhìn vô cùng sáng suốt thể hiện qua bốn quan điểm chính dưới đây:

(1). Thay vì theo đuổi các mục tiêu riêng, lãnh đạo phong trào giành độc lập chỉ tập trung dưới một tổ chức duy nhất là Phong Trào Dân Tộc Latvia (Latvian People’s Front) nhằm theo đuổi chỉ một mục tiêu cụ thể trước mắt là loại bỏ chế độ CS tại Latvia và “thoát Nga”. Họ ý thức mọi phân hóa trong lòng dân tộc chỉ tạo cơ hội cho Nga vận dụng và “thoát Nga” quan trọng nhất là “thoát Nga” về chủ quyền. Những người tham gia Phong Trào Dân Tộc Latvia không chỉ là những người bị chế độ CS bỏ tù, đàn áp hay các thành phần chống Cộng mà là bất cứ ai đồng ý với mục tiêu “tự do dân chủ” và “thoát Nga”. Mục tiêu càng cụ thể càng dễ thực hiện và không gian càng rộng càng dễ quy tụ người ủng hộ.

(2). Dứt khoát đứng về phía Tây Phương dân chủ ngay từ ngày đầu tuyên bố độc lập. Các lãnh đạo ba quốc gia Baltic luôn nghĩ rằng đất nước họ là một phần của Châu Âu. Họ không phải là những chính trị gia thân Mỹ hay có cảm tình với Mỹ mà thậm chí còn ghét Mỹ nhưng đồng thời họ biết để hiện đại hóa một quốc gia nhỏ từng bị xâu xé bởi các cường quốc độc tài đi về phía Mỹ là chọn lựa của thời đại.

(3). Vận dụng nhưng không bị gạt gẫm trước mọi cải tổ kinh tế chính trị của Mikhail Gorbachev. Các phong trào đổi mới tại Latvia được kích thích từ các phong trào đổi mới do Gorbachev chủ trương tại Moscow. Nhưng các lãnh đạo phong trào độc lập Latvia chỉ muốn dùng không gian dễ thở của những đổi mới đó để dấy lên phong trào đòi tự do độc lập chứ không phải theo đuôi Gorbachev.

(4). Từ chối đề nghị của Boris Yeltsin tham gia vào Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập cùng với các quốc gia cựu Liên Xô để rồi khối này bị cuốn vào vòng kiểm soát của Nga cho đến hôm nay.

Trong khi các quốc gia sáng lập hay gia nhập sau đó như Ukraine, Georgia phải chịu đựng cảnh “tránh vỏ dưa Liên Xô gặp vỏ dừa Nga”, Latvia là quốc gia có mức phát triển kinh tế nhanh nhất Châu Âu. GDP trên đầu người năm 2020 của Latvia là 17,560 Mỹ kim, gấp 7 lần Việt Nam. Latvia hội viên của NATO, Liên Hiệp Châu Âu (EU), WTO, UN, IMF và nhiều tổ chức quốc tế khác. Nhờ các lãnh đạo có tầm nhìn thời đại, các quốc gia vùng Baltic trở nên giàu có và được cả khối NATO bảo vệ.

Dòng chữ đầu tiên của chính sách bảo vệ không phận các quốc gia hội viên của NATO ghi rõ: “NATO bảo đảm tính toàn vẹn, an toàn và an ninh của không phận mình bằng cách duy trì nhiệm vụ thực thi một chính sách trên không 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày mỗi tuần, 365 ngày mỗi năm do Bộ Tư lệnh Không quân Đồng minh giám sát.” (NATO ensures the integrity, safety and security of its airspace by maintaining a 24/7/365 Air Policing mission, overseen by Allied Air Command.)

Chính sách kiểm soát không phận của NATO đã có từ 1961 nhưng được điều chỉnh năm 2004 để áp dụng cho các nước hội viên mới vùng Baltic.

Vladimir Putin dù gan lớn cỡ nào cũng không dám thử Article 5 của NATO: “Một cuộc tấn công chống lại một đồng minh được coi là một cuộc tấn công chống lại tất cả các đồng minh.”

Putin chỉ giỏi hăm he nhưng một phi cơ dù chiến đấu hay dân sự và dù cố tình hay sơ ý bay vào không phận Latvia sẽ bị chặn tức khắc. Mới đây thôi, 30 tháng 7 2021, các chiến đấu cơ F35 của NATO chặn hai máy bay thám thính của Nga cất cánh từ vùng Kaliningrad thuộc Nga trên biển Baltic ngay cả trước khi các máy bay này bay vào không phận của các nước Baltic.

Các em học sinh Latvia ngày nay mỗi sáng yên tâm cắp sách đến trường trong một đất nước tự do, giàu mạnh và thanh bình là nhờ tầm nhìn của ông bà, cha chú các em.

Trong khi đó, vì giới lãnh đạo mắc bịnh tham quyền cố vị, ham mê quyền lực, các quốc gia như Belarus, Uzbekistan đến nay vẫn còn chìm đắm trong độc tài, áp bức.

Alexander Lukashenko của Belarus là một bằng chứng. Sau 26 năm, y và phe nhóm vẫn sống xa hoa trên sự chịu đựng của dân tộc Belarus chỉ vì sau lưng y có Putin che chở. Những chữ vàng mà Yeltsin và sau đó Putin cam kết tôn trọng chủ quyền Belarus và những khẩu hiệu “độc lập tự do” vang trên đường phố thủ đô Minsk trong ngày lễ mừng độc lập chỉ là những khẩu hiệu mỉa mai, lạc lõng, vô hồn.

Con người dù sinh ra ở đâu trên trái đất này cũng có những ước mơ và khao khát giống nhau. Khác nhau chăng là tầm nhìn về phía trước của giới lãnh đạo. Thời điểm những năm đầu thập niên 1990 là thời điểm đầy thách thức về tầm nhìn đối với 15 giới lãnh đạo của 15 nước vừa thoát ra khỏi Liên Xô. Cuộc đấu tranh cân não giữa họ là những bài học vô giá mà các thế hệ trẻ Việt Nam cần học thuộc. Một tầm nhìn xa sẽ đưa đất nước cất cánh bay xa và tầm nhìn bảo thủ, hẹp hòi, cổ hủ và lạc hậu sẽ đẩy đất nước vào hố thẳm.

Trần Trung Đạo

Friday, November 22, 2024

BÀN TAY NHUỐM MÁU CỦA HỒ CHÍ MINH


image
Lời người Viết : Bài trình bày dưới đây đã được Hubbell viết và đăng trên tạp chí Reader’s Digest số tháng 11/1968 cùng với lời giới thiệu của Trung Tướng TCLC Lewis W Walt , Quân Đoàn I , Nam Việt Nam ( 1966-1967 ) 


Trung Tướng Walt viết :

image
« Bài tường thuật nầy đã diễn tả một cách trung thực bản chất thực sự của kẻ thù tại Nam Việt Nam . Tôi đã chứng kiến cảnh một em bé trai 2 tay bị chặt đứt . Tôi đã nhìn những chiếc đầu người bị bêu trên đầu cọc và những thân hình bụng bị mổ toang ra . Trong 2 năm phục vụ tại Nam Việt Nam, cùng sát cánh chiến đấu và làm việc với lực lượng của miền Nam , tôi học hỏi được rằng các sự khủng bố của cộng sản trong bài nầy không phải là các biến cố tai nạn chiến tranh lẻ tẻ mà là do một chương trình tàn sát có chủ định sẵn , và đó là lý do khiến chúng tôi đã đáp ứng lại lời kêu gọi trợ giúp của Nam Việt Nam mà chúng tôi tin những nổ lực cứu giúp quốc gia nầy của chúng tôi rất đáng giá , cần thiết , và chủ yếu » .

Viên Xã Trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng , một trong các đứa con của 2 người , một bé trai mới 7 tuổi , đã bị mất tích từ 4 ngày , họ tìm đến Trung Tướng Lewis W Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị Việt Cộng bắt cóc , rồi thì đột nhiên , thằng bé thoát ra khỏi rừng , chạy băng qua các đồng lúa để trở về làng . Thằng bé vừa chạy vừa khóc . Mẹ nó chạy vội ra , ôm lấy nó vào lòng . Cả 2 bàn tay đứa nhỏ bị chặt đứt và trên cổ có đeo một cái bảng có ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó . Nếu ông ta hay bất kỳ người nào trong làng cả gan đi bỏ phiếu trong kỳ bầu cử tới sẻ chịu những điều tệ hại hơn nữa cho các đứa con còn lại của ông ta .

image
Tại một xã khác không cách xa Đà Nẳng là bao , Việt Cộng cũng đưa ra lời cảnh cáo tương tự . Tất cả những người dân được tập trung lại trước nhà viên Xã Trưởng , kể cả người vợ của ông ta đang bụng mang dạ chửa và 4 đứa con để chứng kiến cảnh khủng bố dã man của bọn chúng . Lưỡi ông Xã trưởng bị cắt , và hạ bộ cũa ông ta cũng bị thiến rời ra , đem nhét vào trong mồm trầy trụa máu rồi khâu lại . Trong khi ông ta chết , bọn VC xoay ra hành hạ bà vợ bằng cách dùng dao rạch bụng bà ta ra . Đứa trẻ 9 tuổi bị chúng dùng một que nhọn xuyên qua từ tai bên này sang tai bên kia . Hai đứa kia cũng bị giết chết một cách tương tự . Chỉ còn đứa bé gái 5 tuổi được bọn chúng cho thoát chết , rồi nó chỉ còn biết cầm tay người mẹ đã chết mà gào khóc .

Trung Tướng Walt đã đến trụ sở một quận lỵ , một ngày sau khi quận này bị VC và bộ đội miền Bắc tràn ngập . Một số binh sĩ VNCH không bị chết trên chiến trường đã bị bắt . Chúng trói những binh sĩ này lại rồi bắn vào mồm hay vào sau gáy họ . Vợ con của họ và trẻ em mới 2 hay 3 tuổi , bị bọn chúng đưa đi diễu hành trên đường phố trần truồng trước khi bị chúng đưa ra hành quyết . Có người cổ họng bị cắt đứt , có người bị chặt đầu hay bị mổ bụng , xác họ được đem bêu trên các hàng rào kèm theo với những tấm bảng cảnh cáo dân làng , nếu tiếp tục ủng hộ chính quyền Sài Gòn , cũng sẽ bị chung một số phận tương tự . Những hành động khủng bố như vậy không phải là những hành động lẻ tẻ mà là do một chính sách có chủ định sẵn của chúng .

image
Trong khi đó , có những người thơ ngây và chống đối Hoa Kỳ trên khắp thế giới , vì bị mê hoặc bởi những luận điệu tuyên truyền của Cộng Sản , nên đã đánh trống khua chiêng , rêu rao chống lại cái họ gọi là tính chất vô luân của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tại Nam Việt Nam như oanh tạc bằng không quân hay xử dụng tới bom Napalm ( thực ra rất hạn chế cho những truờng hợp thật cần thiết mà thôi ) gây ra nhiều thiệt hại cho dân chúng , ngày cũng như đêm , trong nhiều năm chinh chiến . Cộng Sản đã chỉ nêu nhiều hành động mà chúng cho là tàn bạo , dã man của miền Nam Việt Nam nhưng đã quên rằng chính chúng đã phạm vào những tội ác kinh tởm ghê gớm . Tính tới cuối năm 1967 , chúng đã phạm vào khoảng 100 ngàn trường hợp khủng bố , chống lại người dân miền Nam Việt Nam qua những chuỗi dài hành động bạo tàn vô tận như tra tấn , sát hại chẳng khác gì dưới thời đại của Đức Quốc Xã .

image
Những hành động khủng bố được bắt đầu từ khi lãnh tụ độc tài Hồ Chí Minh củng cố được quyền lực tại miền Bắc , trước ngày lịch sử 1954 chiến thắng Pháp tại Điện Biên Phủ , Hồ đã cho thi hành một chiến dịch tàn bạo đối với chính nhân dân của y .

Hầu hết tại các làng mạc miền Bắc , những đoàn cán bộ võ trang điều động dân chúng tới để chứng kiến những vụ tự thú của các địa chủ mà chúng cho là cường hào ác bá . Rồi thì tới lượt các nhà trí thức , các giáo viên , nói tóm lại tất cả những ai có thể là nguồn chống đối mai sau này , cũng được chúng gom lại để làm bản tự thú về những tư tưởng lầm lẫn trong quá khứ .

image
Tiếp theo là những toà án nhân dân được thiết lập để xét xử họ . Có nhiều trường hợp các nạn nhân đã bị hành quyết , bị chặt đầu hay bị hành hạ , trói tay , trói chân thẩy xuống các hố tập thể và vùi đất , đá lên cho tới chết .

image
Hồ lại còn tái diễn những hành động khủng bố này từng định kỳ một . Có khoảng từ 50 ngàn và 100 ngàn người được coi như đã bị giết chết một cách tàn nhẫn trong các cuộc tắm máu như vừa kể trên . Trong thập niên 1950 , Hồ cũng đã dẹp tan những cuộc nổi dậy tại Bắc Việt Nam , đặc biệt nhất là vụ nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu , tỉnh Nghệ An tháng 11/1956 , và ngay cả tại Nam Ðàn là nơi sinh quán của họ Hồ . Vì dân chúng nổi lên chống lại sưu cao thuế nặng , nên Hồ phải đưa quân đội tới đàn áp . Khoảng 6 ngàn nông dân , không võ trang , đã bị tàn sát .

Sau khi đã củng cố được Miền Bắc rồi , Trung Ương đảng Bộ Ðảng Cộng Sản Việt Nam họp tại Hà nội ngày 13/03/1959 đưa ra quyết định phải có hành động chống lại Miền Nam Việt Nam , hợp lực với những cán binh nằm vùng đã ở lại Miền Nam sau khi Pháp thất trận năm 1954 . Nhiệm vụ loại bỏ các nhà lãnh đạo tại Miền Nam , thanh toán tất cả những ai có thân nhân phục vụ , trong quân lực VNCH , các nhân viên dân chính , cảnh sát , hoặc tất cả những ai không chịu đóng thuế cho chúng .

Một du kích quân VC bị bắt đã cho biết các hoạt động của nhóm 8 người của y tại các làng mạc miền Nam như sau : Lần đầu tiên chúng tôi vào làng này , chúng tôi đã hạ sát 4 người đàn ông mà huyện uỷ của chúng tôi nói họ là những phần tử phản động rất nguy hiểm đối với chúng tôi . Một người đã theo Pháp , tham gia vào trận chiến chống lại chúng tôi và rồi bây giờ lại ủng hộ chính quyền miền Nam . Một người khác đã có cảm tình với quân đội chính phủ và 2 người khác là địa chủ và họ đã bị chặt đầu .

image
Trung Tướng Walt cũng cho biết về chính sách cách mạng của Việt Cộng khi chúng vào 2 ngôi làng khác . Trong một trường hợp , một em bé gái 15 tuổi đã cung cấp tin tức của Việt Cộng cho toán TCLC của Tướng Walt , em đó sau này bị VC bắt cóc đem vào rừng , hành hạ , tra tấn trước khi chặt đầu em , như để cảnh cáo cho những người khác trong làng . Những kẻ sát nhân kia không ai khác là người anh ruột của em bé gái nạn nhân , cùng với 2 đồng chí của y .


John Hubbell  & Nguyễn Hữu Nguyên

 

 

The Blood-Red Hands of Ho Chi Minh 


Readers Digest,
November 1968 John G.Hubbell

The village chief and his wife were distraught. One of their children, a seven-year-old boy, had been missing for four days. They were terrified, they explained to Marine Lt. Gen. Lewis W. Walt, because they believed he had been captured by the Vietcong.

Suddenly, the boy came out of the jungle and ran across the rice paddies toward the village. He was crying. His mother ran to him and swept him up in her arms. Both of his hands had been cut off, and there was a sign around his neck, a message to his father: if he or any one else in the village dared go to the polls during the upcoming elections, something worse would happen to the rest of his children.

The VC delivered a similar warning to the residents of a hamlet not far from Danang. All were herded before the home of their chief. While they and the chief’s pregnant wife and four children were forced to look on, the chief’s tongue was cut out. Then his genital organs were sliced off and sewn inside his bloody mouth. As he died, the VC went to work on his wife, slashing open her womb. Then, the nine-year-old son: a bamboo lance was rammed through one ear and out the other. Two more of the chief’s children were murdered the same way. The VC did not harm the five-year-old daughter — not physically: they simply left her crying, holding her dead mother’s hand.

General Walt tells of his arrival at a district headquarters the day after it had been overrun by VC and North Vietnamese army troops. Those South Vietnamese soldiers not killed in the battle had been tied up and shot through their mouths or the backs of their heads. Then their wives and children, including a number of two- and three-year-olds, had been brought into the street, disrobed, tortured and finally executed: their throats were cut; they were shot, beheaded, disemboweled. The mutilated bodies were draped on fences and hung with signs telling the rest of the community that if they continued to support the Saigon government and allied forces, they could look forward to the same fate.

These atrocities are not isolated cases; they are typical. For this is the enemy’s way of warfare, clearly expressed in his combat policy in Vietnam. While the naive and anti-American throughout the world, cued by communist propaganda; have trumpeted against American “immorality” in the Vietnam war — aerial bombing, the use of napalm, casualties caused by American combat action — daily and nightly for years, the communists have systematically authored history’s grisliest catalogue of barbarism. By the end of 1967, they had committed at least 100,000 acts of terror against the South Vietnamese people. The record is an endless litany of tortures, mutilations and murders that would have been instructive even to such as Adolf Hitler.

Perhaps because until recently the terrorism has been waged mainly in remote places, this aspect of the war has received scant attention from the press. Hence the enemy has largely succeeded in casting himself in the role of noble revolutionary. It is long past time for Americans, who are sick and tired of being vilified for trying to help South Vietnam stay free, to take a hard look at the nature of this enemy.

Bloodbath Discipline.

The terror had its real beginning when Red dictator Ho Chi Minh consolidated his power in the North. More than a year before his 1954 victory over the French, he launched a savage campaign against his own people. In virtually every North Vietnamese village, strong-arm squads assembled the populace to witness the “confessions” of landowners. As time went on, businessmen, intellectuals, school teachers, civic leaders — all who represented a potential source of future opposition — were also rounded up and forced to “confess” to “errors of thought.” There followed public “trials,” conviction and, in many cases, execution. People were shot, beheaded, beaten to death; some were tied up, thrown into open graves and covered with stones until they were crushed to death, Ho has renewed his terror in North Vietnam periodically. Between 50,000 and 100,000 are believed to have died in these blood-baths — in a coldly calculated effort to discipline the party and the masses. To be sure, few who escape Ho’s terror now seem likely to tempt his wrath. During the 1950s, however, he had to quell some sizeable uprisings in North Vietnam — most notably one that occurred in early November 1956, in the An province, which included Ho’s birthplace village of Nam Dan. So heavily had he taxed the region that the inhabitants finally banded together and refused to meet his price. Ho sent troops to collect, and then sent in an army division, shooting. About 6,000 unarmed villagers were killed. The survivors scattered, some escaping to the South. The slaughter went largely unnoticed by a world then preoccupied with the Soviet Union’s rape of Hungary.

With North Vietnam tightly in hand, the central committee of the North Vietnamese communist party met in Hanoi on March 13, 1959, and decided it was time to move against South Vietnam. Soon, large numbers of Ho’s guerrillas were infiltrating to join cadres that had remained there after the French defeat in 1954. Their mission: to eliminate South Vietnam’s leadership, including elected officials, “natural” leaders, anyone and everyone to whom people might turn for advice. Also to be liquidated were any South Vietnamese who had relatives in their country’s armed forces, civil, services or police; any who failed to pay communist taxes promptly; any with five or more years of education.

A captured VC guerrilla explained how his eight-man team moved against a particular target village: “The first time we entered the village, we arrested and executed on the spot four men who had been pointed out to us by the party’s district headquarters as our most dangerous opponents. One, who had fought in the war against the French was now a known supporter of the South Vietnamese government. Another had been seen fraternizing with government troops. These two were shot. The others, the village’s principal landowners, were beheaded.”

General Walt tells of the “revolutionary purity” of Vietcong who came home to two other villages. In one case, a 15-year-old girl who had given Walt’s Marines information on VC activities was taken into the jungle and tortured for hours, then beheaded. As a warning to other villagers, her head was placed on a pole in front of her home. Her murderers were her brother and two of his VC comrades. In the other case, when a VC learned that his wife and two young children had cooperated with Marines who had befriended them, he himself cut out their tongues.

Genocide.

In such fashion did the storm of terror break over South Vietnam. In 1960, some 1,500 South Vietnamese civilians were killed and 700 abducted. By early 1965, the communists’ Radio Hanoi and Radio Liberation were able to boast that the VC had destroyed 7,559 South Vietnamese hamlets. By the end of last year, 15,138 South Vietnamese civilians had been killed, 45,929 kidnaped. Few of the kidnaped are ever seen again.

Ho’s assault on South Vietnam’s leadership class has, in fact, been a form of genocide — and all too efficient. Thus, if South Vietnam survives in freedom, it will take the country a generation to fully replace this vital element of its society. But the grand design of terror involves other objectives, too. It hopes to force the attacked government into excessively repressive anti-terrorist actions, which tend to earn the government the contempt and hatred of the people. It also seeks valuable propaganda in the form of well-publicized counter-atrocities certain to occur at the individual level — for South Vietnamese soldiers whose families have suffered at communists’ hands are not likely to deal gently with captured VC and North Vietnamese troops.

Dr. A. W. Wylie, an Australian physician serving in a Mekong Delta hospital, points out that a hamlet or village need not cooperate with the Saigon government or allied forces to mark itself for butchery; it need only be neutral, a political condition not acceptable to the communists. After a place has been worked over, its people of responsibility are always identifiable by the particularly hideous nature of their wounds. He cites some cases he has seen:

— When the VC finished with one pregnant woman, both of her legs were dangling by ribbons of flesh and had to be amputated. Her husband, a hamlet chief, had just been strangled before her eyes, and she also had seen her three-year-old child machine-gunned to death. Four hours after her legs were amputated, she aborted the child she was carrying. But perhaps the worst thing that happened to her that day was that she survived.

— A village policeman was held in place while a VC gunman shot off his nose and fired bullets through his cheekbones so close to his eyes that they were reduced to bloody shreds. He later died from uncontrollable hemorrhages.

— A 20-year-old schoolteacher had knelt in a corner trying to protect herself with her arms while a VC flailed at her with a machete. She had been unsuccessful; the back of her head was cut so deeply that the brain was exposed. She died from brain damage and loss of blood.

Flamethrowers at Work.

Last December 5, communists perpetrated what must rank among history’s most monstrous blasphemies at Dak Son, a central highlands village of some 2,000. Montagnards — a tribe of gentle but fiercely independent mountain people. They had moved away from their old village in VC-controlled territory, ignored several VC orders to return and refused to furnish male recruits to the VC.

Two VC battalions struck in the earliest hours, when the village was asleep. Quickly killing the sentries, the communists swarmed among the rows of tidy, thatch-roofed homes, putting the torch to them. The first knowledge that many of the villagers had of the attack was when VC troops turned flamethrowers on them in their beds. Some families awoke in time to escape into nearby jungle. Some men stood and fought, giving their wives and children time to crawl into trenches dug beneath their homes as protection against mortar and rifle fire. But when every building was ablaze, the communists took their flamethrowers to the mouth of each trench and poured in a long, searing hell of fire — and, for good measure, tossed grenades into many. Methodical and thorough, they stayed at it until daybreak, then left in the direction of the Cambodian border.

Morning revealed a scene of unbelievable horror. The village now was only a smoldering, corpse-littered patch on the lush green countryside. The bodies of 252 people, mostly mothers and children, lay blistered, charred, burned to the bone. Survivors, many of them horribly burned, wandered aimlessly about or stayed close to the incinerated bodies of loved ones, crying. Some 500 were missing; scores were later found in the jungle, dead of burns and other wounds; many have not been found.

The massacre at Dak Son was a warning to other Montagnard Settlements to cooperate. But many of the tribesmen now fight with the allies.

If the communists’ “persuasion” techniques spawn deep and enduring hatred, Ho could not care less; the first necessity is the utter, subjugation, of the people. Ho was disturbed by the rapid expansion of South Vietnam’s educational system: between 1954 and 1959, the number of schools had tripled and the number of students had quadrupled. An educated populace, especially one educated to democratic ideals, does not fit into the communist scheme. Hence, the country’s school system was one of Ho’s first targets. So efficiently did he move against it that the World Confederation of Organizations of the Teaching Profession soon sent a commission, chaired by India’s Shri S. Natarajan, to investigate.

Typical of the commission’s findings is what happened in the jungle province of An Xuyen. During the 1954-55 academic year, 3,096 children attended 32 schools in the province; by the end of the 1960-61 school year, 27,953 were attending 189 schools. Then the communists moved in. Parents were advised not to send their children to school.

Teachers were warned to stop providing civic education, and to stop teaching children to honor their country, flag and president. Teachers who failed to comply were shot or beheaded or had their throats cut, and the reasons for the executions were pinned or nailed to their bodies.

The Natarajan commission reported how the VC stopped one school bus and told the children not to attend school anymore. When the children continued for another week, the communists stopped the bus again, selected a six-year-old passenger and cut off her fingers. The other children were told, “This is what will happen to you if you continue to go to that school.” The school closed.

In one year, in An Xuyen province alone, Ho’s agents closed 150 schools, killed or kidnapped more than five dozen teachers, and cut school enrollment by nearly 20,000. By the end of the 1961-62 school year, 636 South Vietnamese schools were closed, and enrollment had decreased by nearly 80,000.

But, in the face of this attack, South Vietnam’s education system has staged a strong comeback. Schools destroyed by the communists have been rebuilt, destroyed, and rebuilt again. Many teachers have given up their own homes and move each night into a different student’s home so the communists can’t find them, or commute from nearby cities, where they leave their families.

Against such determination, the size of Ho’s failure can be measured: in 1954, there were approximately 400,000 pupils in school in North and South Vietnam together; today South Vietnam alone has some two million in school. About 35,000 — four times as many as in 1962 — now attend five South Vietnamese universities, while 42,000 more attend night college.

A South Vietnamese government official explains: “A war shatters many traditional values. But the idea of education has an absolute hold on our people’s imagination.”

Bar of Justice.

The pitch of communist terrorism keeps rising. After the Tet carnage at Hue early this year, 19 mass graves yielded more than 1,000 bodies, mostly civilians — old men and women, young girls, schoolboys, priests, nuns, doctors (including three Germans who had been medical-school faculty members at Hue University). About half had been buried alive, and many were found bound together with barbed wire, with dirt or cloth stuffed into their mouths and throats, and their eyes wide open. The communists came to Hue with a long list of names for liquidation — people who worked for the South Vietnamese or for the US government, or who had relatives who did. But as their military situation grew increasingly desperate, they began grabbing people at random, out of their homes and off the streets, condemned them at drumhead courts as “reactionaries” or for “opposing the revolution” and killed them.

“The Tet offensive represented a drastic change in tactics,” says General Walt. “This is a war to take over the South Vietnamese people. Ho launched the Tet offensive because he knew he was losing the people. But his troops didn’t know it; they were told that they didn’t need any withdrawal plans because the people would rise and fight with them to drive out the Americans. What happened was just the opposite. Many fought against them like tigers.” Some of the Tet offensive’s explosion of atrocities probably can be attributed to sheer vengeful frustration on the part of Ho’s terror squads — which Ho may well have foreseen, and counted on.

The full record of communist barbarism in Vietnam would fill volumes. If South Vietnam falls to the communists, millions more are certain to die, large numbers of them at the hands of Ho’s imaginative tortures. That is a primary reason why, at election times, more than 80 percent of eligible South Vietnamese defy every communist threat and go to the polls, and why, after mortar attacks, voting lines always form anew. It is why the South Vietnamese pray that their allies will stick the fight through with them. It is why the vast majority of American troops in Vietnam are convinced that the war is worth fighting. It is why those who prance about even in our own country — waving Vietcong flags and decrying our “unjust” and “immoral” war should be paid the contempt they deserve.

Finally, it is why the communists should be driven once and for all from South Vietnam — and why, if possible, the monsters who presently rule North Vietnam should be brought before the bar of justice.

Friday, November 8, 2024

IDYLLY (MỘT TRUYỆN DÂM MÀ KHÔNG DÂM)

 Guy de Maupassant (1850-1893) là một nhà văn danh tiếng của Pháp, chuyên viết truyện ngắn. Ông tập sự viết văn với văn hào Gustave Flaubert, một người bà con xa của ông. Chính Gustave Flaubert dậy cho Maupassant biết rằng thiên tài chỉ là một sự làm việc kiên nhẫn lâu dài.

Truyện ngắn dưới đây dịch từ nguyên tác có tên là Idylle của ông – có nghĩa là: Một Truyện Dâm Mà Không Dâm.
Xe lửa vừa rời Genoa trên đường đi Marseilles, chạy theo một con đường dài dọc bờ biển, lướt đi giữa biển và núi như một con rắn bằng sắt, bò bên trên những bãi cát vàng viền những đợt sóng bạc đầu, và bất thình lình lao xuống những đường hầm đen ngòm giống như một con thú chui vào hang.
Trong toa xe lửa cuối cùng, một người đàn bà mập mạp và một thanh niên ngồi đối diện nhau, không nói một lời, nhưng thỉnh thoảng liếc nhìn nhau. Nàng vào khoảng hai mươi lăm tuổi và ngồi cạnh cửa, nhìn ra cảnh vật bên ngoài.
Đây là một người đàn bà nhà quê chắc nịch của vùng Piedmont, mắt đen, ngực to và hai má căng tròn. Nàng đẩy vài cái bao vào dưới ghế ngồi bằng gỗ, và ôm một cái rổ trên đầu gối.
Người thanh niên khoảng hai mươi tuổi. Chàng gầy gò và da rám nắng, với nước da ngăm đen vì làm việc ngoài đồng dưới ánh mặt trời thiêu đốt. Bên cạnh chàng, buộc trong một tấm khăn là tất cả tài sản của chàng: một đôi giầy, một áo sơ mi, một chiếc quần đùi và một áo jacket. Bên dưới chỗ ngồi, chàng giấu một cái cuốc và một cái xẻng cùng với một đoạn giây thừng. Chàng đang đi Pháp tìm việc làm.
Xe lửa chạy chậm chạp, như thể muốn nán lại cái khu vườn lộng lẫy này. Nó cứ tiếp tục ngừng lại tại những nhà ga nhỏ, trước một vài căn nhà trắng, rồi lại tiếp tục chạy theo một tốc độ nhàn nhã, sau khi buông ra một hồi còi dài. Không có khách lên xe. Như thể là cả thế giới đang ngái ngủ, bất đắc dĩ phải đi bất cứ đâu vào cái buổi sáng mùa xuân nồng ấm ấy.
Thỉnh thoảng người đàn bà mập mạp nhắm mắt lại, và chỉ bất thình lình mở ra bất cứ lúc nào nàng cảm thấy cái rổ tuột khỏi đùi nàng. Nàng nắm cái rổ lại, nhìn ra ngoài cửa sổ vài phút, rồi lại ngủ gà ngủ gật. Những giọt mồ hôi đọng trên trán nàng, và nàng thở khó khăn, như thể đang bị một cơn co thắt đau đớn.
Người thanh niên gục đầu xuống ngực và ngủ say sưa như một người nhà quê.
Bỗng nhiên ngay lúc xe lửa rời một nhà ga nhỏ, người đàn bà nhà quê dường như thức giấc; nàng mở cái rổ và lấy ra một khoanh bánh mì, một vài trứng luộc, một chai rượu vang và một vài trái mận chín đỏ. Rồi nàng bắt đầu ăn.
Người đàn ông cũng bị đánh thức dậy bất thình lình và nhìn nàng ăn, theo dõi những miếng đồ ăn di chuyển từ đầu gối lên môi nàng. Chàng ngồi đó, má hõm xuống, hai tay khoanh lại, mặt trịnh trọng, đôi môi mím chặt.
Người đàn bà ăn như một người háu ăn, thỉnh thoảng làm một nốc rượu để nuốt trôi món trứng, và thỉnh thoảng ngừng lại để thở.
Nàng ăn hết mọi thứ, bánh mì, trứng, mận và rượu vang. Ngay khi người đàn bà ăn xong, người đàn ông lại nhắm mắt lại. Rồi cảm thấy khó chịu, người đàn bà nới lỏng chiếc áo của nàng, và người đàn ông bỗng nhìn lại nàng.
Nàng không để ý và cứ cởi khuy áo ra. Đôi vú quá to của nàng làm căng vải đến nỗi khi khe áo hở rộng ra, nó phô bày một chút vải trắng và da thịt giữa hai vú nàng.
Khi cảm thấy dễ chịu hơn nữa, người đàn bà nhà quê nói bằng tiếng Ý, “Trời nóng đến không thể thở được.”
Chàng thanh niên trả lời bằng cùng một ngôn ngữ và cách phát âm, “Thời tiết này rất tốt để đi đó đây.”
Nàng hỏi, “Ông cũng từ Piedmont?”
“Tôi quê Asti.”
“Còn tôi quê Casale.”
Họ là người cùng một vùng. Họ bắt đầu nói chuyện.
Rồi họ nói về chính họ. Nàng có chồng và đã có ba con nàng gửi lại cho em gái nuôi, vì nàng vừa tìm được việc làm vú em cho một bà người Pháp tại Marseilles.
Về phần chàng, chàng cũng đi tìm việc. Chàng nghe nói có thể kiếm được việc làm cũng tại Marseilles, vì người ta đang xây cất nhiều tại đó.
Rồi họ lại im lặng.
Người vú em đang thở hổn hển. Chiếc áo của nàng mở banh ra, đôi má nàng trông mềm nhão, và đôi mắt khờ dại.
Nàng buồn phiền nói, “Tôi không cho con bú từ hôm qua. Bây giờ tôi cảm thấy như muốn xỉu.”
Chàng không trả lời, không biết nói gì. Nàng nói tiếp, “Khi một người đàn bà có nhiều sữa như tôi thì phải cho bú một ngày ba lần nếu không thi khó chịu lắm. Nó giống như một sức nặng đè lên tim tôi, đúng như vậy; một sức nặng chặn hơi thở của tôi và làm tôi cảm thấy nặng nề. Thực là kinh khủng khi có nhiều sữa như thế.”
Chàng trả lời, “Phải. Bà chắc khó chịu lắm.”
Nàng quả thực trông muốn bệnh, như thể nàng muốn xỉu đi.
Nàng thì thầm, “Tôi chỉ có thể vắt sữa ra, và sữa chảy như một vòi nước. Trông kỳ cục lắm. Chắc ông không thể tin được; ở Casale cả lối xóm thường đến xem tôi vắt sữa.”
Chàng nói, “Thế hả?”
“Phải, thực đấy. Tôi sẵn sàng để ông xem, nhưng cũng không giúp ích gì cho tôi được. Vắt như thế không có nhiều sữa ra.”
Và nàng lại im lặng.
Xe lửa ngừng lại. Đứng tại cổng xe lửa là một người đàn bà bồng một đứa bé khóc lóc trong cánh tay. Người đàn bà gầy gò và ăn mặc rách rưới.
“Kìa có một người đàn bà mà tôi có thể giúp được. Và đứa nhỏ cũng có thể giúp tôi nữa. Coi đây, tôi không giầu có, tôi phải bỏ nhà và gia đình và đứa con nhỏ yêu quý của tôi để đi làm; nhưng tôi sẵn sàng trả năm quan cho cái bà kia trong mười phút để tôi có thể cho đứa nhỏ bú. Như thế đứa trẻ sẽ nín khóc và cũng giúp tôi nữa. Tôi sẽ cảm thấy dễ chịu hơn.”
Nàng lại im lặng. Rồi nàng vuốt bàn tay nóng của nàng vài lần lên cái trán đang đổ mồ hôi, và rên rỉ: “Tôi không thể chịu được nữa. Tôi cảm thấy tôi sắp chết đến nơi rồi.”
Và với một cử chỉ vô ý tứ, nàng cởi phanh áo ra.
Bầu vú bên phải nhô ra, đồ sộ và căng cứng, cùng với núm vú màu nâu; người đàn bà tội nghiệp rên rỉ: “Trời ơi! Trời ơi! Tôi làm gì bây giờ?”
Xe lửa lại tiếp tục cuộc hành trình giữa rừng hoa bốc lên mùi hương thấm nhập tỏa ra vào những buổi tối ấm áp. Thỉnh thoảng một chiếc thuyền câu hiện ra trong tầm mắt, trông như nằm ngủ giữa đại dương, với cánh buồm trắng phản chiếu xuống nước như thể có một chiếc thuyền khác lộn ngược lại.
Chàng thanh niên trông có vẻ rất bối rối, và lắp bắp, “Nhưng… thưa bà… tôi có thể… có thể giúp bà.”
Nàng trả lời bằng một giọng mệt mỏi, “Phải, nếu ông muốn. Nếu ông chịu làm thế là ông làm ơn cho tôi đấy. Tôi không thể chịu đựng được nữa, thực sự tôi không thể.”
Chàng quỳ gối xuống trước mặt nàng, và nàng cúi xuống, đưa cái đầu vú màu đậm vào miệng chàng như thể chàng là một đứa trẻ nhỏ. Trong cử động của nàng, hai tay nàng ôm bầu vú về phía người đàn ông, một vài giọt sữa ứa ra trên núm vú. Chàng hăm hở liếm những giọt sữa ấy, ngậm lấy bầu vú nàng giữa hai môi như thể là ngậm một trái cây, và bắt đầu nút đều đặn và tham lam.
Chàng hai tay ôm lấy ngang lưng người đàn bà để kéo nàng lại gần chàng hơn; chàng uống thong thả nhưng đều đặn, với cái cử động của cổ giống như một đứa trẻ.
Bỗng nàng nói, “Như thế đủ cho bên ấy rồi. Bây giờ bú bên này.”
Và chàng vâng lời quay sang vú bên kia.
Nàng đặt cả hai tay lên lưng chàng thanh niên, và bây giờ nàng thở thật sâu và sung sướng, hưởng cái hương thơm của hoa lẫn với từng ngọn gió lùa vào toa xe lửa, cùng với sự chuyển động của xe lửa.
Nàng nói, “Quanh đây thơm quá.”
Chàng không trả lời, vẫn tiếp tục bú cái vòi nước của bầu vú của nàng, mắt nhắm lại như để tận hưởng hơn nữa.
Nhưng lúc đó nàng khẽ đẩy chàng ra.
“Thế đủ rời. Bây giờ tôi cảm thấy dễ chịu lắm. Tôi là một người mới rồi.”
Chàng đứng dậy, lấy mu bàn tay lau miệng.
Bỏ vú vào trong áo, nàng nói, “Thưa ông, quả thực ông đã làm ơn cho tôi. Cám ơn ông nhiều lắm.”
Và chàng trả lời một cách biết ơn :
“Thưa bà, chính tôi phải cám ơn bà mới phải. Đã hai ngày nay tôi chưa được ăn uống gì.
Hết
Guy de Maupassant
Nguyên bản tiếng Pháp :
IDYLLE

Monday, September 16, 2024

SỬ GIA TRẦN TRỌNG KIM VIẾT VỀ CỘNG SẢN

 

Trần Trọng Kim (1883-1953)

Thủ Tướng Chính Phủ Trần Trọng Kim (17/4/1945 – 19/8/1945) bị Việt Minh cướp chính quyền, nhân cơ hội sau ngày Nhật bị Hoa Kỳ thả hai trái bom nguyên tử đã tạo ra một khoảng trống chính trị. Ông Trần Trọng Kim là một trí thức yêu nước,có tài. Trong bốn tháng điều hành chính phủ, ông đã thực hiện: Sửa đổi hành chánh, hợp nhất hai chính phủ Bảo Hộ và Nam Triều, thay thế công chức Pháp bằng công chức Việt, ra lệnh dạy tiếng Việt tại các trường trung tiểu học, dự định thống nhất pháp luật ba kỳ, tổ chức những đoàn Thanh Niên Tiền Phong, chiến dịch chống nạn đói, mang gạo từ Nam ra Bắc cứu đói…

Là một nhân chứng lịch sử, ông Trần Trọng Kim đã ghi lại những sự kiện xảy ra trong quyển “Một Cơn Gió Bụi.” Hồi ký này viết từ 1949, xuất bản 1969. Sau đây là một số trang được chụp ra từ quyển sách ấy.

Tuesday, August 27, 2024

HỒ CHÍ MINH CHUẨN BỊ CHO CUỘC CƯỚP CHÍNH QUYỀN VÀO THÁNG 8 NĂM 1945 VÀ 02 THÁNG 09 NĂM 1945

 Khi phe đồng minh trên đà thắng khối Fascist trong đó gồm có Nhật tại Đông Dương thì phe cộng sản đã có chương trình cho tình hình biến chuyển được coi là rối ben. Hồ Chí Minh(HCM) đã dọn đường nhiều tháng trước khi có biến cố vào tháng 8/1945.

Tháng 7/1945 “Deer” team OSS của tình báo Hoa Kỳ nhảy vào miền Bắc Việt Nam. Hai bên OSS và HCM đã gặp nhau. Lúc này HCM đang bị bệnh kiết lỵ và đường ruột bị nhiễm trùng rất nặng. Nhân viên y tế của OSS đã chuẩn bệnh và đoán Hồ khó qua khỏi, nhưng ông ta được tận tình giúp và thoát chết.

Could the war in Vietnam been avoided? Cuộc chiến tranh Việt Nam có thể không xảy ra? Đây là câu hỏi của một số bài viết, trong đó đưa ra những trường hợp, sự kiện (facts):

  • Pháp đã trao độc lập cho Việt Nam vào 3/1945 và vua Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập. Hòa ước 1884 đã bị xé bỏ. Ngay cả HCM vào 7/1945 cũng đã ký một văn kiện với Mỹ là hợp tác với chính phủ Trần Trọng Kim.
  • Nếu người Mỹ (bộ phận y tế thuộc OSS) không cho thuốc HCM uống để trị bệnh kiết lỵ thì Hồ chắc chắn không sống sót. HCM chết lúc này thì khó ai thay thế để tiếp tục có những thủ đoạn gian manh như Hồ.
  • Khi đã biết âm mưu của HCM là thừa lệnh quốc tế cộng sản nhuộm đỏ cả Đông Dương (sau khi Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946 đã bị vô hiệu hóa) thì chính phủ Pháp đã tuyên chiến với Hồ vào 9/1946. Tuy nhiên, trước khi thật sự có chiến tranh chính phủ Pháp đã cho tướng Jean Fonde nói chuyện với tướng cộng sản Võ Nguyên Giáp, mục đích là khuyên Giáp và HCM nên suy  nghĩ lại vì chiến tranh sẽ gây nhiều hệ lụy thảm khốc. Giáp trả lời ngay rằng giết cả triệu dân Việt cũng không quan trọng vì tất cả phục vụ cho mục tiêu chính trị.
    https://www.youtube.com/watch?v=w5EAJmxBK0w
  • Dĩ nhiên còn những sự kiện nữa để chứng minh rằng không cần cộng sản Việt Nam vẫn có độc lập. Cộng sản chỉ mang đến tai họa mà thôi.

HCM biết rằng Hoa Kỳ đã cho phép Pháp tái chiếm Đông Dương để diệt trừ cộng sản qua hội nghị Potsdam vào 7/1945. Lúc này khoảng ngày 15/8/1945 theo lời kể của tác giả Patti:

Tại Hà Nội,  Hồ và Archimedes Patti, trưởng cơ quan tình báo OSS của Hoa Kỳ, có buổi nói chuyện. HCM quyết làm ra chiến tranh nếu Pháp tái chiếm, dù có tiêu diệt hết sự sống của mỗi đàn ông, đàn bà, và trẻ em. Chính sách “tiêu thổ tới cùng” (scorched earth to the end) của HCM mà qua lần đối thoại này đã làm cho ông Patti không bao giờ quên những lời nói quá ác độc đó.

This statement from a man who was a master of understated diplomacy was, I knew, not an idle threat and I still remember it vividly (Why Viet Nam, page 4) – Lời nói này từ miệng của một người mà người này là tổ sư của lối ngoại giao gian manh, tôi đã biết, đó không là một đe dọa vu vơ và tôi vẫn còn nhớ nó một cách rõ ràng.

Trở về những tháng đầu của 1945. Khi biết phe đồng minh đang thắng thế ở Âu Châu thì tại Á Châu Nhật đang lo sợ sự đổ bộ của đồng minh trên vùng miền mà Nhật đang chiếm đóng. Như trên, Nhật đảo chánh Pháp ngày 9/3/1945. Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập ngày 11/3/1945 và xé Hòa Ước 1884 với Pháp. Cụ Trần Trọng Kim được mời từ Thái Lan về thành lập chính phủ ngày 17/4/1945.

Chính phủ Trần Trọng Kim gồm những nhân tài lãnh đạo và được dân chúng ủng hộ. Chính phủ đã sửa đổi hành chánh để hợp nhất hai chính quyền bảo hộ và Nam triều, thay thế công chức Pháp bằng công chức Việt, dự định thống nhất pháp luật ba kỳ để tránh lạm quyền, tổ chức những đoàn thanh niên tiền phong, chiến dịch chống nạn đói. Có những lần gạo được mang từ Nam ra Bắc đã bị Việt Minh chặn lại cướp lấy.

Một số cơ sở chính phủ vẫn còn người Nhật điều hành.  Buổi xuống đường ngày 17/8/1945 tại Nhà Hát ở Hà Nội là để nói lên tinh thần độc lập và ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim. Trong lúc các diễn giả đang hô hào dân chúng thì Việt Minh vào hạ cờ vàng ba sọc đỏ của chính phủ. Hai ngày sau, tức 19/8/1945, Việt Minh tổ chức một cuộc xuống đường quy mô hơn cũng tại Nhà Hát Lớn, và sau đó chiếm cứ các công sở.

Để được “công nhận” cái “chính phủ” HCM sắp ra mắt vào ngày 2/9/1945, Hồ đã thực hiện một số màn ngoạn mục nhắm vào những người Mỹ.

Ngày 25/8/1945, trên các đài phát thanh đã kêu gọi dân xuống đường ngày 26/8/1945 để  nghênh đón “phái bộ đồng minh”. Trên tờ Cứu Quốc ra ngày 29/8/1945 cũng có đăng về tin này, và họ còn dùng chữ “vĩ nhân“ để nói về người Mỹ. Sau đó chỉ huy trưởng cơ quan tình báo OSS, ông Archimedes Patti, đã đính chánh rằng Hoa Kỳ không phải đồng minh với Việt Minh, xin đừng lạm dụng. Còn ai ngoài Hoa Kỳ để Hồ dựa vào? Một quốc gia hùng mạnh thắng thế chiến thứ hai và đang đương đầu với làn sóng đỏ.

Người dân ồ ạt ra đường, một phần cũng vì hâm mộ người Mỹ, nhưng không thấy Mỹ nào hiện diện. Thế nên cả đám Việt Minh nằm trong ban tổ chức kéo nhau đến tận nhà riêng của ông Patti. Họ kéo cờ, ca quốc ca Hoa Kỳ, nên bắt buộc ông Patti phải thay quần áo ra ngoài làm lễ.

IMG_1502

Chưa hết. Bốn ngày sau, tức 30/8/1945, phe Hồ lại hô hào dân chúng xuống đường nữa để chống Pháp, để chứng tổ cho Hoa Kỳ thấy rằng dân không ưa Pháp. HCM thừa biết qua hội nghị Potsdam vào tháng trước, tức tháng 7/1945, Hoa Kỳ đã ngấm ngầm cho Pháp trở lại tái chiếm, dù vào tháng 3/1945, pháp đã tuyên bố ra đi trao độc lập cho vua Bảo Đại. Tái chiếm để dẹp làn sóng đỏ của Hồ mà de Gaulle đã nhiều lần yêu cầu Hoa Kỳ giúp đỡ.

HCM rất muốn những đại diện của OSS tham dự ngày 2/9, nhưng ông ta hoàn toàn thất bại. Có lẽ Hồ nghĩ rằng ông đã qua mắt được những người Mỹ khi nói với họ rằng mình không phải cộng sản. HCM đã lầm vì ngay lúc OSS mướn Hồ làm lon ton để đương đầu với Nhật, người Mỹ đã biết Hồ là ai. Họ dùng người cộng sản này trong giai đoạn mà thôi.

Trong đám đông ngày 2/9/1945, giữa mùa thu nóng nực của Hà Nội, có vài người Mỹ thuộc OSS đến để quan sát. Đại Úy Ray Grelecki kể lại trong phim thời sự “Uncle Ho Uncle Sam” rằng những máy quay hình cứ để thẳng vào các người Mỹ, và họ đi qua đi lại nhiều lần. HCM rất cần Mỹ trong các phim để tuyên truyền rằng Hoa Kỳ ủng hộ chính phủ của ông ta. Có phải Hồ khi biết chỉ có vài người Mỹ tham dự để quan sát nên đăm ra lúng túng. Câu nói thừa thải “đồng bào có nghe rõ không?” để chấn chỉnh sự bối rối.

Thủ đoạn dùng ngay những câu trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ để đọc trong ngày gọi là “tuyên ngôn độc lập” của HCM thật là hạ sách mà sau này nhiều sử gia của Hoa Kỳ đem ra châm biếm. Một con người không có tư tưởng (pragmatic)! Lối nịnh hót, ve vuốt này của HCM cũng đã làm cho Stalin bực mình đến phải đặt cho Hồ một tên là người cộng sản ngu xuẫn kém văn hóa (troglodyte)!

Chính tác giả Archimedes Patti trong cuốn Why Viet Nam cũng cho rằng HCM thật là ngu ngơ khi đạo văn mà còn yêu cầu Patti xem qua. Hơn hết, tác giả đã thẳng thắn ghi ngay vào Chương 1 (Chapter 1) với kết luận là HCM là sư tổ của lối ngoại giao gian hùng, lưu manh.

Tóm lại, mẹ Việt Nam đã cho ra lầm một đứa con phản bội tổ quốc. Di lụy của HCM là đàn em cộng sản và con cháu họ đã theo gương bán nước của Hồ bất kể phản ứng của toàn dân, ngay cả còn sát hại, bỏ tù những tấm lòng yêu nước.

Xin đáp lại lời thơ của Tố Hữu:

Hồ trở về đây tổ quốc ơi
Mang theo chủ nghĩa sát hại người
Ba mươi năm ấy Minh học tập
Dân tộc là mồi cho Đảng xơi!

Bút Sử
20/8/2018

Nguồn: Why Viet Nam?, Archimedes Patti, 1980; phim Uncle Ho Uncle Sam Documentary; Sử Địa 12ab, Ban Giáo Sư Sử Địa, 1973, nhà xuất bản Trường Thi, Saigon

Wednesday, June 26, 2024

NHỮNG QUY TẮC GIAO CHIẾN CỦA KHÔNG LỰC HOA KỲ TẠI VIỆT NAM

 Mark Berent


Mark Berent
Phi công Mark Berent cho rằng Mỹ và đồng minh Việt Nam Cộng Hòa có thể đã chiến thắng tại chiến trường Việt Nam vào những năm 67, 68. Nhưng qua những vụ ngưng ném thả bom trên đường mòn Hồ Chí Minh và miền Bắc Việt Nam, đã giúp cho Cộng Sản Bắc Việt mang quân và vũ khí vào miền Nam để đi đến chiến thắng cuối cùng vào tháng Tư 1975. Những phi công như ông đã bi trói tay và bịt mắt trước những cuộc di chuyển ồ ạt của cộng quân. Hãy nghe Mark Berent tâm sự… Nguyên tác là bài viết với tựa đề Rules Of Engagement, được in trong tác phẩm “To Bear Any Burden của Al Santoli".
Lần đầu tiên tôi tham chiến tại Việt Nam là vào năm 1965. Ðơn vị của tôi đóng tại căn cứ Không Quân Biên Hòa. Tôi bay phản lực cơ F-100s, tổng cộng hơn 200 phi vụ. Lần thứ hai tôi tham chiến ở Việt Nam là vào năm 1968, lúc đó tôi bay phản lực cơ F-4s cất cánh từ căn cứ Ubon, Thái Lan. 
F-4-streaking-in
Tôi thuộc phi đoàn Cú Ðêm (Night Owls), có nhiệm vụ bay trên đường mòn Hồ Chí Minh trong vòng 7 tháng. Cuối cùng, 5 tháng chót tôi được chỉ định chỉ huy Woff FAC (Lực Lượng Không Kiểm Tiền Phương (Forward Air Control)). Lực lượng này bao vùng đường mòn Hồ Chí Minh từ Lào đến suốt Bắc Việt Nam. Ðó là thời điểm mà Tổng Thống Johnson ra lệnh ngưng ném thả bom. Do đó, có lúc các phi vụ được chấp thuận ném thả bom, có lúc phi vụ không được chấp thuận.. Chẳng cần dấu diếm, nhiều lần một số anh em phi công chúng tôi tự thi hành nhiệm vụ thả bom đường mòn, mà không cho ai biết.
Tại Việt Nam, có vài điều rất đỗi ngạc nhiên. Thứ nhất là tôi được tưởng thưởng nhiều huy chương. Nhưng có một trường hợp tôi từ chối nhận một huy chương cao quý của Hoa Kỳ là Purple Heart, Lý do là vì một người bạn Lực Lượng Ðặc Biệt của tôi vừa mới trốn được Việt Cộng bằng cách đi bộ 26 cây số trong đêm tối, với viên đạn 51 ly còn nằm trong một cánh tay và tay kia dìu một người lính Việt Nam Cộng Hòa đang bị thương. Do đó, đối với tôi, cái huy chương cao quý Purple Heart không có một giá trị gì cả, tôi không xứng đáng để nhận!
US Air Force Lt. Col. Mark Berent

Tôi hết nhiệm kỳ tại Việt Nam và được chỉ định về phục vụ tại một căn cứ không quân tại California. Không Quân Mỹ muốn xử dụng tôi hết mình và để tôi thăng tiến hơn, họ gửi tôi đi học để lấy bằng kỹ sư tại một đại học dân sự. Sau khi tốt nghiệp, tôi được bổ nhiệm một chức vụ khả quan về tiền bạc và tương đối nhàn hạ tại Phi Ðoàn 69 Chiến Thuật, sống cuộc đời thoải mái. Nhưng khốn nỗi, mỗi lần tôi cầm tờ báo thì lại được tin một người bạn thân của tôi bị bắn hạ và tử trận tại chiến trường. Không chịu nổi nữa, tôi xin với thượng cấp để được bay F-4s, một phản lực cơ tân tiến hơn so với F-100s và tôi đã được chấp thuận để trở lại chiến trường Việt Nam.
Trong 7 tháng đầu khi bay F-4s cất cánh từ căn cứ Ubon, Thái Lan. 

F-4-flight
Tôi vẫn thuộc Phi Ðoàn Cú Ðêm (Night Owls). Lệnh ngưng thả bom của Johnson bắt đầu có hiệu lực một tháng trước khi tôi trở lại chiến trường. Do đó, phi công chúng tôi không có cơ hội thả bom miền Bắc Việt Nam. Chúng tôi chỉ còn biết bay ầm ì, rồi nhào lên lộn xuống trên đường mòn Hồ Chí Minh bên ranh giới nước Lào. Ðó là dọc theo vùng rừng núi cao Karst Mountains (Lào). Và nếu chúng tôi lợi dụng ngưng thả bom để bay xuống phía Nam thuộc lãnh thổ Việt Nam để phá hủy những đoàn xe tiếp liệu của Cộng Sản Bắc Việt dọc theo đường mòn, thì thực sự với F-4s không đủ khả năng này, vì chúng tôi phải bay trong bầu trời dầy đặc sương mù và mây thấp che kín tầm mắt quan sát. Nhiều lần chúng tôi cho một phản lực thả trái sáng và sau đó phản lực khác theo sau thả bom.
Nhưng khi trái hỏa châu vừa thả ra là mấy tên lái xe Việt Công đều chửi thề: “Mấy thằng phi công Mỹ ngu xuẩn đang sắp thả bom. Hãy ngừng xe lại và táp vào lề đường. Trước sau gì chúng cũng đâm vào dãy núi Karst…” Và đúng như thế, nhiều phi công của chúng tôi đã đâm máy bay vào dãy núi này mà chẳng thả trúng một xe tiếp liệu nào, chỉ vì tầm nhìn quá hạn chế do thời tiết.
Mãi đến khi Mỹ mang máy bay Spectre–AC130 có trang bị vũ khí và có trang bị cả dụng cụ quan sát ban đêm như màn hình TV và những dụng cụ điện tử có thể cảm giác được khói bay ra từ ống khói của xe vận tải, đồng thời máy bay này có khả năng nhìn qua đêm tối và mây mù.
Chúng tôi liên lạc chặt chẽ với Spectre-AC130 để thực hiện 2 nhiệm vụ: Một là áp lực những ổ súng phòng không của địch ngõ hầu chúng tôi có thể bắn hoặc thả bom trúng mục tiêu. Thứ hai là hướng dẫn chúng tôi tới mục tiêu cần tiêu diệt. Và kể từ đó, chúng tôi đã phá hủy rất nhiều xe vận tải tiếp liệu của địch. Tôi nhớ rõ, một lần, trong một đêm tôi bắn trúng 14 xe tiếp liệu của địch.
Mỗi khi máy bay Spectre-AC130 nhìn thấy đoàn xe, những phi công này sẽ đánh dấu cho chúng tôi bằng nhiều cách. Họ tác xạ vào mục tiêu bằng súng liên thanh 20 ly và cho chúng tôi biết đó là mục tiêu cần tiêu diệt. Hoặc giả họ ném hỏa châu để soi sáng cả đoàn xe phía dưới và chúng tôi cứ theo đó mà thả bom. Ngoài ra, họ còn có thể thả một khối hỏa châu nặng, có thể cháy sáng tới 20 phút. Họ ném một khối hỏa châu này trước đoàn xe và một khối khác phía cuối đoàn xe, và cho chúng tôi biết cứ thế mà thả bom trong đoạn đường giữa hai khối ánh sáng. Vì vậy, chúng tôi đã phá hủy được nhiều đoàn xe tiếp liệu của cộng sản. Ðường mòn Hồ Chí Minh đã bị cầy nát làm trở ngại cho việc cộng sản chở tiếp tế vào miền Nam Việt Nam. Thiển ý của phi công chúng tôi, chiến tranh đã có thể chấm dứt bằng quân sự!
Nhưng thật đau lòng, trong khi lệnh ngưng thả bom bắt đầu vào tháng 11 năm 1968, tất cả chúng tôi đau điếng! Anh em phi công chúng tôi đã trải qua bao nhiêu lần được lệnh ngưng thả bom và mỗi lần như thế chúng tôi cảm thấy như bị một quả đấm vào mặt, vì người ta đã phá tan đi những gì chúng tôi đang thắng thế.
F-105


Thi dụ, trong giai đoạn 1966-67, bạn bè chúng tôi, những phi công can trường, đang bay các phản lực cơ F-105s và F-4s trên lãnh thổ Bắc Việt, một nơi đầy nguy hiểm vì hỏa tiễn địa-không tối tân nhất SAM và màng lưới ra-đa của Nga đầy rẫy dưới đất. Nhưng vì Những Quy Tắc Giao Chiến (Rules Of Engagement), chúng tôi đã chiến đấu một cuộc chiến mà tay chúng tôi đã bị trói chặt, mắt chúng đã bị chọc thủng mù lòa và một nửa đạn dược trang bi đã bị cắt giảm.
Nhưng những viên chức chính phủ như Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara thì lại tuyên bố với công chúng rằng các phi cơ Mỹ không có bi cắt giảm bom đạn và bom đạn Mỹ không bao giờ thiếu?. Nhưng thực tế, chúng tôi đang chứng kiến bom đạn Mỹ ở Việt Nam đã bị cắt giảm nhiều, nhất là của không Lực Mỹ! Chúng tôi đã chứng kiến bạn chúng tôi bay ra Bắc với trang bị kém hơn thời Ðệ Nhị Thế Chiến, chỉ vỏn vẹn với 2 trái bom: 250 và 500 ký và 2 thùng bom lửa (Napalm) trong một phi vụ phá hủy đường rầy xe lửa. Ðiều hiển nhiên là chúng ta không thể cắt đường rầy xe lứa bằng bom lửa, mà thực ra bom này chỉ làm cháy cỏ và cây cối chung quanh đường rầy!. Chúng tôi cho rằng quyết đinh ngưng thả bom và cắt giảm đạn dược là MỘT TỘI PHẠM của những người có thẩm quyền. Nhiều khi chúng tôi đã đối đầu với một số hoa tiêu từ chối lệnh bay thả bom, dù họ có phải ra toà án quân sự!
Các quan chức này lại nói loanh quanh rằng không có thiếu bom tại Việt Nam. Nhưng tại Sài Gòn, những tầu thương mại chuyên chở bom đạn bị tắc nghẽn tại các hải cảng, vì hải cảng không đủ rộng để có thể đem xuống những bom và vũ khí lớn quá tầm trưc tiếp vào bờ. Trong khi đó, vũ khí nhỏ và dụng cụ y khoa thì được Việt Cộng hối lộ và chở về mật khu.
Vào thời điểm đó, tôi vẫn còn nghĩ rằng với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, chính phủ Sài Gòn biết phải làm gì để chiến thắng. Nhưng một thời gian sau đó, tôi nhận thức được rằng: “Hình như người ta (Mỹ) không muốn và không cho phép để thắng cuộc chiến tranh này!” chỉ vì Hoa Thịnh Ðốn đã áp đặt cái “Nguyên Tắc Giao Chiến “ oái oăm này!?
Chúng tôi đành phải bay lên phía bắc Lào để yểm trợ cho Vang Pao, người lãnh đạo của lực lượng H’mong, một bộ lạc sống trên đồi núi, đang chiến đấu với quân cộng sản Bắc Việt và cộng sản Lào (Pathet Lào). Nhưng tại đây, lại có lệnh không được thả bom gần các chùa chiền. Trong khi ai cũng biết cộng sản Lào đang đóng quân đầy trong các chùa chiền ở Lào với đầy đủ vũ khí. Nhiều lần chúng tôi đã bị bắn từ chính trong các chùa. Có lần chúng tôi không chịu được, đã bay qua chùa và thả một trái bom vào chỗ có súng bắn lên, và ầm ầm kho đạn của địch nổ vang và cháy suốt mấy tiếng đồng hồ.
Có một câu chuyện ai cũng biết là ở Trung Tâm Văn Hóa Trung Hoa (Chinese Cultural Center) tại Plaine des Jarres (Lào) như sau: Chúng tôi không được lệnh thả bom trong vòng 3 cây số chung quanh trung tâm này. Vào một đêm, một phi công tức khí lén thả một trái bom vào trung tâm này và kho đạn ở đây đã nổ trong suốt một tuần lễ!
Sau khi lệnh ngưng thả bom trên lãnh thổ Bắc Việt vào tháng 11 năm 1968, chúng tôi chỉ được phép thả bom khi xe tiếp tế của Việt Cộng ở đường mòn Hồ Chí Minh trên phần lãnh thổ nước Lào mà thôi, và chỉ được thả bom vào ban đêm. Như vậy là chúng tôi gần như tự tử rồi! Ban đêm không thấy đường, súng phòng không bắn như sao, chúng tôi chỉ còn cách đâm máy bay vào dãy núi Karst là xong! Có một ngày quang đãng, tôi đếm được 100 xe tiếp tế nối đuôi nhau tại Ðèo Mụ Giạ thuộc Bắc Việt Nam. Những chiếc xe này đậu sẵn để đợi đêm tối di chuyển vào đường mòn. Và dĩ nhiên chúng tôi được lệnh cấm chỉ thả bom đoàn xe. Ðó là quy tắc giao chiến đấy!!
Chúng tôi cũng không thể thả bom đường xe lửa tiếp tế từ Trung Cộng vào Bắc Việt. Mỹ cũng không thể phong tỏa hải cảng Hải Phòng… Tất cả những gì Nixon làm năm 1972 là để Bắc Việt có cơ hội mang tiếp tế vào miền Nam. Ðáng lẽ chúng ta phải chặn đứng việc cộng sản Bắc Việt tiếp tế vũ khí cho chiến trường miềân Nam mới phải?
Vai trò ưu tiên của Không Lực Hoa Kỳ là chặn đứng khả năng tiếp tế vũ khí đạn dược vào chiến trường Miền Nam. Ðây là một sự “tuyệt đối phải ngăn chặn.” Ðó là mục tiêu duy nhất của Không Lực hầu yểm trợ lực lượng Mỹ và đồng minh tại Nam Việt Nam. Chúng ta phải thả bom các cơ sở chế tạo đạn dược và vũ khí, vì chính nơi này sản xuất phương tiện để giết những người lính Mỹ. Lý do nữa là Không Lực phải giúp lính tiêu diệt kẻ thù dưới đất. Tất cả Không Lực làm, từ chuyên chở, đến chiến đấu đều chung mục đích giúp cho toàn quân đội Mỹ ngoài chiến trường tại miền Nam Việt Nam.
Nhưng buồn thay, tại Việt Nam, chúng tôi đã không được phép thực thi những sự “tuyệt đối phải ngăn chặn” này. Thử nghĩ xem Tù Binh Chiến Tranh Mỹ (POW) do đâu mà có. 85% POW là hoa tiêu và phi hành đoàn. Họ bi bắn hạ chung quanh những vị trí có hỏa tiễn SAM và phi cơ MIG. Nơi mà những hoa tiêu này đã thấy từ khi cộng sản Bắc Việt và Nga Sô lúc còn dang xây cất. Còn tại chiến trường Miền Nam, lính Mỹ chết bởi những vũ khí, đạn dược và tiếp liệu do Bắc Việt chuyên chở vào Nam, mà chúng ta không ngăn chặn được hay chúng ta không muốn ngăn chặn?!.
AC-130-view-of-convoy


Chúng tôi đã từng thấy từng đoàn xe vận tải nối đuôi nhau ngay ban ngày. Những xe này thuộc Lực Lượng Chuyên Chở 559 từ Hà Nội đổ vào.
Chúng tôi bay trên đầu đoàn xe và đôi khi chỉ cho chúng một chút sợ hãi bằng cách ném xuống vài thùng xăng phụ hay một vài trái hỏa tiễn gọi là. Vì chúng tôi không được phép mang cả phi đoàn phản lực đến đó để thả bom, chỉ vì lệnh cấm.
Tôi đã từng chứng kiến một làng người Thượng ở Nam Việt Nam bị Việt Cộng ném lửa đốt cháy cả làng. Chúng đốt sống cả trẻ thơ, phụ nữ và tất cả những gì còn sống, chỉ vì dân làng không chịu phục tùng lệnh của chúng.
Thật là đau lòng cho một cuộc chiến mà chúng ta không muốn thắng!
Tác giả: Mark Berent
Mark with his books on the SE Asia War Games (Vietnam)

Berent, a three-tour veteran of the S E Asia War


Nguồn: https://captainbillywalker.com/war-stories/mark-berent/