Saturday, December 21, 2024
Friday, December 13, 2024
TÁC DỤNG CỦA TẦM NHÌN CHÍNH TRỊ QUA XUNG ĐỘT NGA- UKRAINE
Bốn chữ “Ukraine thuộc Nga” đóng đinh trong đầu của TT Nga gốc sĩ quan tình báo Liên Xô tại Đông Đức Vladimir Putin. Theo tài liệu của Bộ Ngoại Giao Mỹ, trong một hội nghị của NATO 2008 tại Bucharest, Romania, Putin nhắc cho TT George W. Bush biết “Ukraine không phải là một quốc gia” mà là một phần của Nga. Trong một tiểu luận đăng trên website của chính phủ Nga ngày 12 tháng 7, 2021 “Về sự thống nhất lịch sử của người Nga và người Ukraine“, Putin cho rằng Nga và Ukraine là một dân tộc, một nền văn hóa, một tôn giáo và một truyền thống lịch sử: “Người Nga, người Ukraine và người Belarus đều là con cháu của Rus cổ đại, là nhà nước lớn nhất ở châu Âu.”
Sau nhiều năm tìm cách sáp nhập Ukraine vào Nga lần nữa bằng
nhiều phương pháp, ngày 24 tháng 2, 2022 Putin chọn con đường vũ
lực qua việc chính thức tấn công Ukraine.
Chiến tranh bùng nổ hôm nay là hậu quả phát xuất từ các chính
sách đối ngoại và đối nội sai lầm suốt 31 năm của nhiều lãnh đạo
và chính phủ Ukraine bất tài và tham nhũng bắt đầu với Leonid
Kravchuk, đại diện Belarus tại lễ ký kết giữa các lãnh đạo Nga,
Ukraine và Belarus để thành lập Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập
(Commonwealth of Independent States).
Tổ chức này thực tế là cái tròng đã có từ thời Nga Hoàng do
Boris Yeltsin đặt trên cổ các nước nhỏ sắp thoát khỏi Liên Xô.
Liên Xô sụp hơn hai tuần sau đó. Ngoại trừ ba nước nhỏ vùng
Baltics, phần lớn rơi vào chiếc bẫy sống chung trong thịnh vượng
và độc lập này.
Chính sách an ninh của Nga dù trải qua nhiều thời kỳ từ phong
kiến sang CS tới cộng hòa về căn bản đều giống nhau. Nga thiết
lập và bảo vệ một vùng an ninh chung quanh biên giới. Hiệp ước
bí mật giữa Stalin và Hitler 1939 cũng nằm trong chiến lược đó.
Sau 1991, Ukraine có nhiều cơ hội thoát khỏi ảnh hưởng Nga nhưng
không thoát chỉ vì giới lãnh đạo có một tầm nhìn quá hẹp.
Ukraine trước 1994 là một trong ba quốc gia có khối lượng vũ khí
nguyên tử lớn nhất thế giới, sau Mỹ và Nga. Năm 1994, Ukraine
đồng ý hủy bỏ vũ khí nguyên tử nhưng không nhận lại một khoản
lợi quan trọng hay cam kết của Liên Hiệp Quốc nào, chẳng hạn như
gia nhập cộng đồng kinh tế Âu Châu, thành viên NATO, viện trợ
hàng năm v.v… ngoài trừ những hứa hẹn trên đầu môi chót lưỡi của
Anh, Mỹ, Nga tại hội nghị Budapest . Nga sáp nhập vùng Crimea
cũng không tạo nên một phản ứng quốc tế lớn mạnh nào.
Từ một người dân thường cho đến lãnh đạo một quốc gia tầm nhìn
vẫn là yếu tố quyết định cho tương lai của một gia đình hay một
dân tộc. Biến cố Ukraine là một bài học cho mọi người Việt quan
tâm đến vận mệnh đất nước.
———————————————————-
Hôm đó là ngày 8 tháng 12, 1991 tại một khu nhà nghỉ mùa đông
thuộc Belarus, cách biên giới Ba Lan 8 km, đại diện ba nước
Russia, Ukraine, and Belarus vừa tuyên bố độc lập khỏi Liên Xô
gặp nhau.
Boris Yeltsin đại diện Nga, Stanislav Shushkevich đại diện
Belarus và Leonid Kravchuk đại diện Ukraine. Cả ba lãnh đạo đều
rất vui mừng, phấn khởi vì quốc gia họ đang đứng trước ngưỡng
cửa mới đầy hy vọng cho tương lai.
Bắt đầu chỉ với 3 quốc gia trong số 15 nước “xã hội chủ nghĩa”
Liên Xô, tham dự hội nghị nhưng trong thực tế ba nước này chiếm
tới 73% dân số và 80% diện tích của Liên Xô. Trong ngày 8 tháng
12 hôm đó, ba phái đoàn tuyên bố thành lập Cộng Đồng Các Quốc
Gia Độc Lập (Commonwealth of Independent States).
Đọc tin một thông cáo chung được ký, Mikhail Gorbachev trong
diễn văn truyền hình ngày hôm sau tuyên bố văn bản đại diện ba
nước ký là “bất hợp pháp”.
Để giải quyết bất đồng, Yeltsin và Gorbachev gặp nhau một tiếng
rưỡi đồng hồ. Khi bước ra khỏi phòng họp, Gorbachev biết dù ông
tìm mọi cách cứu vãn sự sụp đổ của Liên Xô là điều không tránh
khỏi.
Trong buổi họp đó, Boris Yeltsin, lãnh đạo Nga vừa hồi sinh và
Mikhail Gorbachev, lãnh đạo Liên Xô đang hấp hối, đồng ý năm
chôn cất Liên Xô là 1992 chứ không phải 1991 như đã diễn ra.
Những ngày đó Liên Xô còn tồn tại nhưng trong thực tế đang trên
đà tan rã.
Nhắc lại, trước đó ba tháng, 18 tháng 8, 1991, phe cực đoan bảo
thủ, được gọi là “nhóm tám người” trong trung ương đảng CSLX
ráng hết sức hắt hơi lần cuối cùng để cố phục hồi sinh khí cho
Liên Xô. Thành phần này được báo chí gọi là “nhóm tám người”,
chủ trương quay ngược kim đồng hồ trở lại thời Leonid Brezhnev.
Dù là những lãnh đạo cao cấp nhất trong đảng như Phó Chủ Tịch
Nước Gennady Yanayev, Thủ tướng Valentin Pavlov, Bộ Trưởng Bộ
Quốc Phòng Dmitry Yazov, Tổng Giám Đốc KGB Vladimir Kryuchkov
v.v… “nhóm tám người” đã không giữ được quyền lực quá ba ngày vì
bộ máy CS đã rệu rã đến tận cùng.
Điều đó cho thấy sự mục nát của các chế độ độc tài CS thường bắt
đầu từ bên trong cơ chế. Căn nhà càng cao càng dễ sụp đổ. Thượng
tầng kiến trúc chính trị không thể tồn tại lâu trên một hạ tầng
kinh tế xã hội mục nát.
Biến cố lật đổ Gorbachev chẳng những không làm chậm phong trào
độc lập tại 15 nước “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa” trái lại thúc
đẩy phong trào được tiến hành nhanh hơn và dẫn đến sự ra đời khá
vội vã của Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập (Commonwealth of
Independent States, gọi tắt CIS).
Boris Yeltsin muốn đặt Gorbachev trước sự kiện đã rồi khi thành
lập CIS thay thế cho Liên Xô như một tổ chức đáp ứng nhu cầu của
quốc gia thành viên sau khi Liên Xô sụp đổ . Sau lễ ký kết sơ
khởi, các quốc gia Trung Á và vùng Caucasus như Kazakhstan,
Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkmenistan, Uzbekistan, Armenia,
Azerbaijan, Georgia và Moldova lần lượt tham gia.
Lãnh đạo của các quốc gia tham gia CIS đều ý thức vai trò chế
ngự của Nga nhưng lúc đó họ đã không đặt nặng. Họ quan tâm đến
các yếu tố kinh tế xã hội hơn là vai trò chủ đạo của Nga trong
các lãnh vực khác, nhất là chủ quyền lãnh thổ, an ninh và quốc
phòng.
Dưới thời Putin khái niệm “lân bang” được ra đời để chỉ các quốc
gia “vùng độn” bao bọc chung quanh Nga như thời Nga Hoàng.
Tuy nhiên, có ba quốc gia rất nhỏ vùng Baltics đã thấy trước
điều đó. Lãnh đạo ba quốc gia nhỏ này đã từ chối thẳng thừng
việc tham gia Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập. Ba nước đó là
Latvia, Lithuania, Estonia.
Chọn Latvia để phân tích vì chính sách đối ngoại và vị trí chiến
lược của Lithuania, Estonia về căn bản cũng giống như của
Latvia.
Latvia là quốc gia theo thể chế Cộng Hòa vùng Baltic, thủ đô
Riga, có dân số thống kê năm 2019 là 1.9 triệu người, bằng dân
số tỉnh Quảng Nam, có chung biên giới với Estonia, Lithuania,
Belarus và Nga.
Latvia độc lập năm 1918 nhưng bị Liên Xô chiếm năm 1940, bị Đức
Quốc Xã chiếm năm 1941, bị Liên Xô chiếm lần nữa năm 1944 và sau
đó trở thành nước CS trong hệ thống Liên Xô mãi cho đến khi
chính thức độc lập năm 1991.
Bằng việc chấp nhận Tuyên Bố về Tái Lập Nền Độc Lập của Cộng Hòa
Latvia (The Declaration on Restoration of Independence of the
Republic of Latvia), Latvia chính thức thoát ra khỏi quỹ đạo
Liên Xô ngày 4 tháng 5 năm 1990, hơn một năm rưỡi trước khi Liên
Xô đổ.
Không ít người nghĩ một cách bi quan và hạn hẹp rằng khi nào
Liên Xô còn tồn tại thì các nước nhỏ chung quanh khó mà độc lập.
Không. Phần lớn các quốc gia trong khối Liên Xô trở nên độc lập
trước khi Liên Xô tan rã.
Lãnh đạo của nền cộng hòa Latvia khẳng định họ không phải là một
nước cộng hòa tân lập mà kế tục chế độ cộng hòa được thành lập
từ 1918.
Mặc dù đa số thành viên bỏ phiếu hay chấp nhận bản tuyên bố độc
lập chưa sinh ra trong giai đoạn lịch sử 71 năm trước đó, họ
biết rằng lịch sử Latvia là một dòng Cộng Hòa liên tục. Giọt
nước Latvia của thời điểm 1990 đã bắt đầu từ thượng nguồn Latvia
năm 1918 đầy hy sinh gian khổ dưới hai ách Hitler và Stalin, hai
lãnh tụ độc tài tàn ác nhất trong lịch sử loài người. Các thế hệ
Latvia học lịch sử để làm lịch sử.
Như người viết đã phân tích trong loạt bài về các quốc gia vùng
Baltics, trong thời điểm 1990, các lãnh đạo phong trào độc lập
Latvia có một tầm nhìn vô cùng sáng suốt thể hiện qua bốn quan
điểm chính dưới đây:
(1). Thay vì theo đuổi các mục tiêu riêng, lãnh đạo phong trào
giành độc lập chỉ tập trung dưới một tổ chức duy nhất là Phong
Trào Dân Tộc Latvia (Latvian People’s Front) nhằm theo đuổi chỉ
một mục tiêu cụ thể trước mắt là loại bỏ chế độ CS tại Latvia và
“thoát Nga”. Họ ý thức mọi phân hóa trong lòng dân tộc chỉ tạo
cơ hội cho Nga vận dụng và “thoát Nga” quan trọng nhất là “thoát
Nga” về chủ quyền. Những người tham gia Phong Trào Dân Tộc
Latvia không chỉ là những người bị chế độ CS bỏ tù, đàn áp hay
các thành phần chống Cộng mà là bất cứ ai đồng ý với mục tiêu
“tự do dân chủ” và “thoát Nga”. Mục tiêu càng cụ thể càng dễ
thực hiện và không gian càng rộng càng dễ quy tụ người ủng hộ.
(2). Dứt khoát đứng về phía Tây Phương dân chủ ngay từ ngày đầu
tuyên bố độc lập. Các lãnh đạo ba quốc gia Baltic luôn nghĩ rằng
đất nước họ là một phần của Châu Âu. Họ không phải là những
chính trị gia thân Mỹ hay có cảm tình với Mỹ mà thậm chí còn
ghét Mỹ nhưng đồng thời họ biết để hiện đại hóa một quốc gia nhỏ
từng bị xâu xé bởi các cường quốc độc tài đi về phía Mỹ là chọn
lựa của thời đại.
(3). Vận dụng nhưng không bị gạt gẫm trước mọi cải tổ kinh tế
chính trị của Mikhail Gorbachev. Các phong trào đổi mới tại
Latvia được kích thích từ các phong trào đổi mới do Gorbachev
chủ trương tại Moscow. Nhưng các lãnh đạo phong trào độc lập
Latvia chỉ muốn dùng không gian dễ thở của những đổi mới đó để
dấy lên phong trào đòi tự do độc lập chứ không phải theo đuôi
Gorbachev.
(4). Từ chối đề nghị của Boris Yeltsin tham gia vào Cộng Đồng
Các Quốc Gia Độc Lập cùng với các quốc gia cựu Liên Xô để rồi
khối này bị cuốn vào vòng kiểm soát của Nga cho đến hôm nay.
Trong khi các quốc gia sáng lập hay gia nhập sau đó như Ukraine,
Georgia phải chịu đựng cảnh “tránh vỏ dưa Liên Xô gặp vỏ dừa
Nga”, Latvia là quốc gia có mức phát triển kinh tế nhanh nhất
Châu Âu. GDP trên đầu người năm 2020 của Latvia là 17,560 Mỹ
kim, gấp 7 lần Việt Nam. Latvia hội viên của NATO, Liên Hiệp
Châu Âu (EU), WTO, UN, IMF và nhiều tổ chức quốc tế khác. Nhờ
các lãnh đạo có tầm nhìn thời đại, các quốc gia vùng Baltic trở
nên giàu có và được cả khối NATO bảo vệ.
Dòng chữ đầu tiên của chính sách bảo vệ không phận các quốc gia
hội viên của NATO ghi rõ: “NATO bảo đảm tính toàn vẹn, an toàn
và an ninh của không phận mình bằng cách duy trì nhiệm vụ thực
thi một chính sách trên không 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày mỗi tuần,
365 ngày mỗi năm do Bộ Tư lệnh Không quân Đồng minh giám sát.”
(NATO ensures the integrity, safety and security of its airspace
by maintaining a 24/7/365 Air Policing mission, overseen by
Allied Air Command.)
Chính sách kiểm soát không phận của NATO đã có từ 1961 nhưng
được điều chỉnh năm 2004 để áp dụng cho các nước hội viên mới
vùng Baltic.
Vladimir Putin dù gan lớn cỡ nào cũng không dám thử Article 5
của NATO: “Một cuộc tấn công chống lại một đồng minh được coi là
một cuộc tấn công chống lại tất cả các đồng minh.”
Putin chỉ giỏi hăm he nhưng một phi cơ dù chiến đấu hay dân sự
và dù cố tình hay sơ ý bay vào không phận Latvia sẽ bị chặn tức
khắc. Mới đây thôi, 30 tháng 7 2021, các chiến đấu cơ F35 của
NATO chặn hai máy bay thám thính của Nga cất cánh từ vùng
Kaliningrad thuộc Nga trên biển Baltic ngay cả trước khi các máy
bay này bay vào không phận của các nước Baltic.
Các em học sinh Latvia ngày nay mỗi sáng yên tâm cắp sách đến
trường trong một đất nước tự do, giàu mạnh và thanh bình là nhờ
tầm nhìn của ông bà, cha chú các em.
Trong khi đó, vì giới lãnh đạo mắc bịnh tham quyền cố vị, ham mê
quyền lực, các quốc gia như Belarus, Uzbekistan đến nay vẫn còn
chìm đắm trong độc tài, áp bức.
Alexander Lukashenko của Belarus là một bằng chứng. Sau 26 năm,
y và phe nhóm vẫn sống xa hoa trên sự chịu đựng của dân tộc
Belarus chỉ vì sau lưng y có Putin che chở. Những chữ vàng mà
Yeltsin và sau đó Putin cam kết tôn trọng chủ quyền Belarus và
những khẩu hiệu “độc lập tự do” vang trên đường phố thủ đô Minsk
trong ngày lễ mừng độc lập chỉ là những khẩu hiệu mỉa mai, lạc
lõng, vô hồn.
Con người dù sinh ra ở đâu trên trái đất này cũng có những ước
mơ và khao khát giống nhau. Khác nhau chăng là tầm nhìn về phía
trước của giới lãnh đạo. Thời điểm những năm đầu thập niên 1990
là thời điểm đầy thách thức về tầm nhìn đối với 15 giới lãnh đạo
của 15 nước vừa thoát ra khỏi Liên Xô. Cuộc đấu tranh cân não
giữa họ là những bài học vô giá mà các thế hệ trẻ Việt Nam cần
học thuộc. Một tầm nhìn xa sẽ đưa đất nước cất cánh bay xa và
tầm nhìn bảo thủ, hẹp hòi, cổ hủ và lạc hậu sẽ đẩy đất nước vào
hố thẳm.
Trần Trung Đạo
Wednesday, December 4, 2024
Friday, November 22, 2024
BÀN TAY NHUỐM MÁU CỦA HỒ CHÍ MINH
Trung Tướng Walt đã đến trụ sở một quận lỵ , một ngày sau khi quận này bị VC và bộ đội miền Bắc tràn ngập . Một số binh sĩ VNCH không bị chết trên chiến trường đã bị bắt . Chúng trói những binh sĩ này lại rồi bắn vào mồm hay vào sau gáy họ . Vợ con của họ và trẻ em mới 2 hay 3 tuổi , bị bọn chúng đưa đi diễu hành trên đường phố trần truồng trước khi bị chúng đưa ra hành quyết . Có người cổ họng bị cắt đứt , có người bị chặt đầu hay bị mổ bụng , xác họ được đem bêu trên các hàng rào kèm theo với những tấm bảng cảnh cáo dân làng , nếu tiếp tục ủng hộ chính quyền Sài Gòn , cũng sẽ bị chung một số phận tương tự . Những hành động khủng bố như vậy không phải là những hành động lẻ tẻ mà là do một chính sách có chủ định sẵn của chúng .
Hầu hết tại các làng mạc miền Bắc , những đoàn cán bộ võ trang điều động dân chúng tới để chứng kiến những vụ tự thú của các địa chủ mà chúng cho là cường hào ác bá . Rồi thì tới lượt các nhà trí thức , các giáo viên , nói tóm lại tất cả những ai có thể là nguồn chống đối mai sau này , cũng được chúng gom lại để làm bản tự thú về những tư tưởng lầm lẫn trong quá khứ .
Sau khi đã củng cố được Miền Bắc rồi , Trung Ương đảng Bộ Ðảng Cộng Sản Việt Nam họp tại Hà nội ngày 13/03/1959 đưa ra quyết định phải có hành động chống lại Miền Nam Việt Nam , hợp lực với những cán binh nằm vùng đã ở lại Miền Nam sau khi Pháp thất trận năm 1954 . Nhiệm vụ loại bỏ các nhà lãnh đạo tại Miền Nam , thanh toán tất cả những ai có thân nhân phục vụ , trong quân lực VNCH , các nhân viên dân chính , cảnh sát , hoặc tất cả những ai không chịu đóng thuế cho chúng .
Một du kích quân VC bị bắt đã cho biết các hoạt động của nhóm 8 người của y tại các làng mạc miền Nam như sau : Lần đầu tiên chúng tôi vào làng này , chúng tôi đã hạ sát 4 người đàn ông mà huyện uỷ của chúng tôi nói họ là những phần tử phản động rất nguy hiểm đối với chúng tôi . Một người đã theo Pháp , tham gia vào trận chiến chống lại chúng tôi và rồi bây giờ lại ủng hộ chính quyền miền Nam . Một người khác đã có cảm tình với quân đội chính phủ và 2 người khác là địa chủ và họ đã bị chặt đầu .
John Hubbell & Nguyễn Hữu Nguyên
Readers Digest,
November 1968 John G.Hubbell
The village chief and his wife were distraught. One of their children, a seven-year-old boy, had been missing for four days. They were terrified, they explained to Marine Lt. Gen. Lewis W. Walt, because they believed he had been captured by the Vietcong.
Suddenly, the boy came out of the jungle and ran across the rice paddies toward the village. He was crying. His mother ran to him and swept him up in her arms. Both of his hands had been cut off, and there was a sign around his neck, a message to his father: if he or any one else in the village dared go to the polls during the upcoming elections, something worse would happen to the rest of his children.
The VC delivered a similar warning to the residents of a hamlet not far from Danang. All were herded before the home of their chief. While they and the chief’s pregnant wife and four children were forced to look on, the chief’s tongue was cut out. Then his genital organs were sliced off and sewn inside his bloody mouth. As he died, the VC went to work on his wife, slashing open her womb. Then, the nine-year-old son: a bamboo lance was rammed through one ear and out the other. Two more of the chief’s children were murdered the same way. The VC did not harm the five-year-old daughter — not physically: they simply left her crying, holding her dead mother’s hand.
General Walt tells of his arrival at a district headquarters the day after it had been overrun by VC and North Vietnamese army troops. Those South Vietnamese soldiers not killed in the battle had been tied up and shot through their mouths or the backs of their heads. Then their wives and children, including a number of two- and three-year-olds, had been brought into the street, disrobed, tortured and finally executed: their throats were cut; they were shot, beheaded, disemboweled. The mutilated bodies were draped on fences and hung with signs telling the rest of the community that if they continued to support the Saigon government and allied forces, they could look forward to the same fate.
These atrocities are not isolated cases; they are typical. For this is the enemy’s way of warfare, clearly expressed in his combat policy in Vietnam. While the naive and anti-American throughout the world, cued by communist propaganda; have trumpeted against American “immorality” in the Vietnam war — aerial bombing, the use of napalm, casualties caused by American combat action — daily and nightly for years, the communists have systematically authored history’s grisliest catalogue of barbarism. By the end of 1967, they had committed at least 100,000 acts of terror against the South Vietnamese people. The record is an endless litany of tortures, mutilations and murders that would have been instructive even to such as Adolf Hitler.
Perhaps because until recently the terrorism has been waged mainly in remote places, this aspect of the war has received scant attention from the press. Hence the enemy has largely succeeded in casting himself in the role of noble revolutionary. It is long past time for Americans, who are sick and tired of being vilified for trying to help South Vietnam stay free, to take a hard look at the nature of this enemy.
Bloodbath Discipline.
The terror had its real beginning when Red dictator Ho Chi Minh consolidated his power in the North. More than a year before his 1954 victory over the French, he launched a savage campaign against his own people. In virtually every North Vietnamese village, strong-arm squads assembled the populace to witness the “confessions” of landowners. As time went on, businessmen, intellectuals, school teachers, civic leaders — all who represented a potential source of future opposition — were also rounded up and forced to “confess” to “errors of thought.” There followed public “trials,” conviction and, in many cases, execution. People were shot, beheaded, beaten to death; some were tied up, thrown into open graves and covered with stones until they were crushed to death, Ho has renewed his terror in North Vietnam periodically. Between 50,000 and 100,000 are believed to have died in these blood-baths — in a coldly calculated effort to discipline the party and the masses. To be sure, few who escape Ho’s terror now seem likely to tempt his wrath. During the 1950s, however, he had to quell some sizeable uprisings in North Vietnam — most notably one that occurred in early November 1956, in the An province, which included Ho’s birthplace village of Nam Dan. So heavily had he taxed the region that the inhabitants finally banded together and refused to meet his price. Ho sent troops to collect, and then sent in an army division, shooting. About 6,000 unarmed villagers were killed. The survivors scattered, some escaping to the South. The slaughter went largely unnoticed by a world then preoccupied with the Soviet Union’s rape of Hungary.
With North Vietnam tightly in hand, the central committee of the North Vietnamese communist party met in Hanoi on March 13, 1959, and decided it was time to move against South Vietnam. Soon, large numbers of Ho’s guerrillas were infiltrating to join cadres that had remained there after the French defeat in 1954. Their mission: to eliminate South Vietnam’s leadership, including elected officials, “natural” leaders, anyone and everyone to whom people might turn for advice. Also to be liquidated were any South Vietnamese who had relatives in their country’s armed forces, civil, services or police; any who failed to pay communist taxes promptly; any with five or more years of education.
A captured VC guerrilla explained how his eight-man team moved against a particular target village: “The first time we entered the village, we arrested and executed on the spot four men who had been pointed out to us by the party’s district headquarters as our most dangerous opponents. One, who had fought in the war against the French was now a known supporter of the South Vietnamese government. Another had been seen fraternizing with government troops. These two were shot. The others, the village’s principal landowners, were beheaded.”
General Walt tells of the “revolutionary purity” of Vietcong who came home to two other villages. In one case, a 15-year-old girl who had given Walt’s Marines information on VC activities was taken into the jungle and tortured for hours, then beheaded. As a warning to other villagers, her head was placed on a pole in front of her home. Her murderers were her brother and two of his VC comrades. In the other case, when a VC learned that his wife and two young children had cooperated with Marines who had befriended them, he himself cut out their tongues.
Genocide.
In such fashion did the storm of terror break over South Vietnam. In 1960, some 1,500 South Vietnamese civilians were killed and 700 abducted. By early 1965, the communists’ Radio Hanoi and Radio Liberation were able to boast that the VC had destroyed 7,559 South Vietnamese hamlets. By the end of last year, 15,138 South Vietnamese civilians had been killed, 45,929 kidnaped. Few of the kidnaped are ever seen again.
Ho’s assault on South Vietnam’s leadership class has, in fact, been a form of genocide — and all too efficient. Thus, if South Vietnam survives in freedom, it will take the country a generation to fully replace this vital element of its society. But the grand design of terror involves other objectives, too. It hopes to force the attacked government into excessively repressive anti-terrorist actions, which tend to earn the government the contempt and hatred of the people. It also seeks valuable propaganda in the form of well-publicized counter-atrocities certain to occur at the individual level — for South Vietnamese soldiers whose families have suffered at communists’ hands are not likely to deal gently with captured VC and North Vietnamese troops.
Dr. A. W. Wylie, an Australian physician serving in a Mekong Delta hospital, points out that a hamlet or village need not cooperate with the Saigon government or allied forces to mark itself for butchery; it need only be neutral, a political condition not acceptable to the communists. After a place has been worked over, its people of responsibility are always identifiable by the particularly hideous nature of their wounds. He cites some cases he has seen:
— When the VC finished with one pregnant woman, both of her legs were dangling by ribbons of flesh and had to be amputated. Her husband, a hamlet chief, had just been strangled before her eyes, and she also had seen her three-year-old child machine-gunned to death. Four hours after her legs were amputated, she aborted the child she was carrying. But perhaps the worst thing that happened to her that day was that she survived.
— A village policeman was held in place while a VC gunman shot off his nose and fired bullets through his cheekbones so close to his eyes that they were reduced to bloody shreds. He later died from uncontrollable hemorrhages.
— A 20-year-old schoolteacher had knelt in a corner trying to protect herself with her arms while a VC flailed at her with a machete. She had been unsuccessful; the back of her head was cut so deeply that the brain was exposed. She died from brain damage and loss of blood.
Flamethrowers at Work.
Last December 5, communists perpetrated what must rank among history’s most monstrous blasphemies at Dak Son, a central highlands village of some 2,000. Montagnards — a tribe of gentle but fiercely independent mountain people. They had moved away from their old village in VC-controlled territory, ignored several VC orders to return and refused to furnish male recruits to the VC.
Two VC battalions struck in the earliest hours, when the village was asleep. Quickly killing the sentries, the communists swarmed among the rows of tidy, thatch-roofed homes, putting the torch to them. The first knowledge that many of the villagers had of the attack was when VC troops turned flamethrowers on them in their beds. Some families awoke in time to escape into nearby jungle. Some men stood and fought, giving their wives and children time to crawl into trenches dug beneath their homes as protection against mortar and rifle fire. But when every building was ablaze, the communists took their flamethrowers to the mouth of each trench and poured in a long, searing hell of fire — and, for good measure, tossed grenades into many. Methodical and thorough, they stayed at it until daybreak, then left in the direction of the Cambodian border.
Morning revealed a scene of unbelievable horror. The village now was only a smoldering, corpse-littered patch on the lush green countryside. The bodies of 252 people, mostly mothers and children, lay blistered, charred, burned to the bone. Survivors, many of them horribly burned, wandered aimlessly about or stayed close to the incinerated bodies of loved ones, crying. Some 500 were missing; scores were later found in the jungle, dead of burns and other wounds; many have not been found.
The massacre at Dak Son was a warning to other Montagnard Settlements to cooperate. But many of the tribesmen now fight with the allies.
If the communists’ “persuasion” techniques spawn deep and enduring hatred, Ho could not care less; the first necessity is the utter, subjugation, of the people. Ho was disturbed by the rapid expansion of South Vietnam’s educational system: between 1954 and 1959, the number of schools had tripled and the number of students had quadrupled. An educated populace, especially one educated to democratic ideals, does not fit into the communist scheme. Hence, the country’s school system was one of Ho’s first targets. So efficiently did he move against it that the World Confederation of Organizations of the Teaching Profession soon sent a commission, chaired by India’s Shri S. Natarajan, to investigate.
Typical of the commission’s findings is what happened in the jungle province of An Xuyen. During the 1954-55 academic year, 3,096 children attended 32 schools in the province; by the end of the 1960-61 school year, 27,953 were attending 189 schools. Then the communists moved in. Parents were advised not to send their children to school.
Teachers were warned to stop providing civic education, and to stop teaching children to honor their country, flag and president. Teachers who failed to comply were shot or beheaded or had their throats cut, and the reasons for the executions were pinned or nailed to their bodies.
The Natarajan commission reported how the VC stopped one school bus and told the children not to attend school anymore. When the children continued for another week, the communists stopped the bus again, selected a six-year-old passenger and cut off her fingers. The other children were told, “This is what will happen to you if you continue to go to that school.” The school closed.
In one year, in An Xuyen province alone, Ho’s agents closed 150 schools, killed or kidnapped more than five dozen teachers, and cut school enrollment by nearly 20,000. By the end of the 1961-62 school year, 636 South Vietnamese schools were closed, and enrollment had decreased by nearly 80,000.
But, in the face of this attack, South Vietnam’s education system has staged a strong comeback. Schools destroyed by the communists have been rebuilt, destroyed, and rebuilt again. Many teachers have given up their own homes and move each night into a different student’s home so the communists can’t find them, or commute from nearby cities, where they leave their families.
Against such determination, the size of Ho’s failure can be measured: in 1954, there were approximately 400,000 pupils in school in North and South Vietnam together; today South Vietnam alone has some two million in school. About 35,000 — four times as many as in 1962 — now attend five South Vietnamese universities, while 42,000 more attend night college.
A South Vietnamese government official explains: “A war shatters many traditional values. But the idea of education has an absolute hold on our people’s imagination.”
Bar of Justice.
The pitch of communist terrorism keeps rising. After the Tet carnage at Hue early this year, 19 mass graves yielded more than 1,000 bodies, mostly civilians — old men and women, young girls, schoolboys, priests, nuns, doctors (including three Germans who had been medical-school faculty members at Hue University). About half had been buried alive, and many were found bound together with barbed wire, with dirt or cloth stuffed into their mouths and throats, and their eyes wide open. The communists came to Hue with a long list of names for liquidation — people who worked for the South Vietnamese or for the US government, or who had relatives who did. But as their military situation grew increasingly desperate, they began grabbing people at random, out of their homes and off the streets, condemned them at drumhead courts as “reactionaries” or for “opposing the revolution” and killed them.
“The Tet offensive represented a drastic change in tactics,” says General Walt. “This is a war to take over the South Vietnamese people. Ho launched the Tet offensive because he knew he was losing the people. But his troops didn’t know it; they were told that they didn’t need any withdrawal plans because the people would rise and fight with them to drive out the Americans. What happened was just the opposite. Many fought against them like tigers.” Some of the Tet offensive’s explosion of atrocities probably can be attributed to sheer vengeful frustration on the part of Ho’s terror squads — which Ho may well have foreseen, and counted on.
The full record of communist barbarism in Vietnam would fill volumes. If South Vietnam falls to the communists, millions more are certain to die, large numbers of them at the hands of Ho’s imaginative tortures. That is a primary reason why, at election times, more than 80 percent of eligible South Vietnamese defy every communist threat and go to the polls, and why, after mortar attacks, voting lines always form anew. It is why the South Vietnamese pray that their allies will stick the fight through with them. It is why the vast majority of American troops in Vietnam are convinced that the war is worth fighting. It is why those who prance about even in our own country — waving Vietcong flags and decrying our “unjust” and “immoral” war should be paid the contempt they deserve.
Finally, it is why the communists should be driven once and for all from South Vietnam — and why, if possible, the monsters who presently rule North Vietnam should be brought before the bar of justice.
Friday, November 8, 2024
IDYLLY (MỘT TRUYỆN DÂM MÀ KHÔNG DÂM)
Guy de Maupassant (1850-1893) là một nhà văn danh tiếng của Pháp, chuyên viết truyện ngắn. Ông tập sự viết văn với văn hào Gustave Flaubert, một người bà con xa của ông. Chính Gustave Flaubert dậy cho Maupassant biết rằng thiên tài chỉ là một sự làm việc kiên nhẫn lâu dài.
Monday, September 16, 2024
SỬ GIA TRẦN TRỌNG KIM VIẾT VỀ CỘNG SẢN

Thủ Tướng Chính Phủ Trần Trọng Kim (17/4/1945 – 19/8/1945) bị Việt Minh cướp chính quyền, nhân cơ hội sau ngày Nhật bị Hoa Kỳ thả hai trái bom nguyên tử đã tạo ra một khoảng trống chính trị. Ông Trần Trọng Kim là một trí thức yêu nước,có tài. Trong bốn tháng điều hành chính phủ, ông đã thực hiện: Sửa đổi hành chánh, hợp nhất hai chính phủ Bảo Hộ và Nam Triều, thay thế công chức Pháp bằng công chức Việt, ra lệnh dạy tiếng Việt tại các trường trung tiểu học, dự định thống nhất pháp luật ba kỳ, tổ chức những đoàn Thanh Niên Tiền Phong, chiến dịch chống nạn đói, mang gạo từ Nam ra Bắc cứu đói…
Là một nhân chứng lịch sử, ông Trần Trọng Kim đã ghi lại những sự kiện xảy ra trong quyển “Một Cơn Gió Bụi.” Hồi ký này viết từ 1949, xuất bản 1969. Sau đây là một số trang được chụp ra từ quyển sách ấy.


Tuesday, August 27, 2024
HỒ CHÍ MINH CHUẨN BỊ CHO CUỘC CƯỚP CHÍNH QUYỀN VÀO THÁNG 8 NĂM 1945 VÀ 02 THÁNG 09 NĂM 1945
Khi phe đồng minh trên đà thắng khối Fascist trong đó gồm có Nhật tại Đông Dương thì phe cộng sản đã có chương trình cho tình hình biến chuyển được coi là rối ben. Hồ Chí Minh(HCM) đã dọn đường nhiều tháng trước khi có biến cố vào tháng 8/1945.
Tháng 7/1945 “Deer” team OSS của tình báo Hoa Kỳ nhảy vào miền Bắc Việt Nam. Hai bên OSS và HCM đã gặp nhau. Lúc này HCM đang bị bệnh kiết lỵ và đường ruột bị nhiễm trùng rất nặng. Nhân viên y tế của OSS đã chuẩn bệnh và đoán Hồ khó qua khỏi, nhưng ông ta được tận tình giúp và thoát chết.
Could the war in Vietnam been avoided? Cuộc chiến tranh Việt Nam có thể không xảy ra? Đây là câu hỏi của một số bài viết, trong đó đưa ra những trường hợp, sự kiện (facts):
- Pháp đã trao độc lập cho Việt Nam vào 3/1945 và vua Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập. Hòa ước 1884 đã bị xé bỏ. Ngay cả HCM vào 7/1945 cũng đã ký một văn kiện với Mỹ là hợp tác với chính phủ Trần Trọng Kim.
- Nếu người Mỹ (bộ phận y tế thuộc OSS) không cho thuốc HCM uống để trị bệnh kiết lỵ thì Hồ chắc chắn không sống sót. HCM chết lúc này thì khó ai thay thế để tiếp tục có những thủ đoạn gian manh như Hồ.
- Khi đã biết âm mưu của HCM là thừa lệnh quốc tế cộng sản nhuộm đỏ cả
Đông Dương (sau khi Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946 đã bị vô hiệu hóa) thì
chính phủ Pháp đã tuyên chiến với Hồ vào 9/1946. Tuy nhiên, trước khi
thật sự có chiến tranh chính phủ Pháp đã cho tướng Jean Fonde nói chuyện
với tướng cộng sản Võ Nguyên Giáp, mục đích là khuyên Giáp và HCM nên
suy nghĩ lại vì chiến tranh sẽ gây nhiều hệ lụy thảm khốc. Giáp trả lời
ngay rằng giết cả triệu dân Việt cũng không quan trọng vì tất cả phục
vụ cho mục tiêu chính trị.
https://www.youtube.com/watch?v=w5EAJmxBK0w - Dĩ nhiên còn những sự kiện nữa để chứng minh rằng không cần cộng sản Việt Nam vẫn có độc lập. Cộng sản chỉ mang đến tai họa mà thôi.
HCM biết rằng Hoa Kỳ đã cho phép Pháp tái chiếm Đông Dương để diệt trừ cộng sản qua hội nghị Potsdam vào 7/1945. Lúc này khoảng ngày 15/8/1945 theo lời kể của tác giả Patti:
Tại Hà Nội, Hồ và Archimedes Patti, trưởng cơ quan tình báo OSS của Hoa Kỳ, có buổi nói chuyện. HCM quyết làm ra chiến tranh nếu Pháp tái chiếm, dù có tiêu diệt hết sự sống của mỗi đàn ông, đàn bà, và trẻ em. Chính sách “tiêu thổ tới cùng” (scorched earth to the end) của HCM mà qua lần đối thoại này đã làm cho ông Patti không bao giờ quên những lời nói quá ác độc đó.
This statement from a man who was a master of understated diplomacy was, I knew, not an idle threat and I still remember it vividly (Why Viet Nam, page 4) – Lời nói này từ miệng của một người mà người này là tổ sư của lối ngoại giao gian manh, tôi đã biết, đó không là một đe dọa vu vơ và tôi vẫn còn nhớ nó một cách rõ ràng.
Trở về những tháng đầu của 1945. Khi biết phe đồng minh đang thắng thế ở Âu Châu thì tại Á Châu Nhật đang lo sợ sự đổ bộ của đồng minh trên vùng miền mà Nhật đang chiếm đóng. Như trên, Nhật đảo chánh Pháp ngày 9/3/1945. Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập ngày 11/3/1945 và xé Hòa Ước 1884 với Pháp. Cụ Trần Trọng Kim được mời từ Thái Lan về thành lập chính phủ ngày 17/4/1945.
Chính phủ Trần Trọng Kim gồm những nhân tài lãnh đạo và được dân chúng ủng hộ. Chính phủ đã sửa đổi hành chánh để hợp nhất hai chính quyền bảo hộ và Nam triều, thay thế công chức Pháp bằng công chức Việt, dự định thống nhất pháp luật ba kỳ để tránh lạm quyền, tổ chức những đoàn thanh niên tiền phong, chiến dịch chống nạn đói. Có những lần gạo được mang từ Nam ra Bắc đã bị Việt Minh chặn lại cướp lấy.
Một số cơ sở chính phủ vẫn còn người Nhật điều hành. Buổi xuống đường ngày 17/8/1945 tại Nhà Hát ở Hà Nội là để nói lên tinh thần độc lập và ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim. Trong lúc các diễn giả đang hô hào dân chúng thì Việt Minh vào hạ cờ vàng ba sọc đỏ của chính phủ. Hai ngày sau, tức 19/8/1945, Việt Minh tổ chức một cuộc xuống đường quy mô hơn cũng tại Nhà Hát Lớn, và sau đó chiếm cứ các công sở.
Để được “công nhận” cái “chính phủ” HCM sắp ra mắt vào ngày 2/9/1945, Hồ đã thực hiện một số màn ngoạn mục nhắm vào những người Mỹ.
Ngày 25/8/1945, trên các đài phát thanh đã kêu gọi dân xuống đường ngày 26/8/1945 để nghênh đón “phái bộ đồng minh”. Trên tờ Cứu Quốc ra ngày 29/8/1945 cũng có đăng về tin này, và họ còn dùng chữ “vĩ nhân“ để nói về người Mỹ. Sau đó chỉ huy trưởng cơ quan tình báo OSS, ông Archimedes Patti, đã đính chánh rằng Hoa Kỳ không phải đồng minh với Việt Minh, xin đừng lạm dụng. Còn ai ngoài Hoa Kỳ để Hồ dựa vào? Một quốc gia hùng mạnh thắng thế chiến thứ hai và đang đương đầu với làn sóng đỏ.
Người dân ồ ạt ra đường, một phần cũng vì hâm mộ người Mỹ, nhưng không thấy Mỹ nào hiện diện. Thế nên cả đám Việt Minh nằm trong ban tổ chức kéo nhau đến tận nhà riêng của ông Patti. Họ kéo cờ, ca quốc ca Hoa Kỳ, nên bắt buộc ông Patti phải thay quần áo ra ngoài làm lễ.
Chưa hết. Bốn ngày sau, tức 30/8/1945, phe Hồ lại hô hào dân chúng xuống đường nữa để chống Pháp, để chứng tổ cho Hoa Kỳ thấy rằng dân không ưa Pháp. HCM thừa biết qua hội nghị Potsdam vào tháng trước, tức tháng 7/1945, Hoa Kỳ đã ngấm ngầm cho Pháp trở lại tái chiếm, dù vào tháng 3/1945, pháp đã tuyên bố ra đi trao độc lập cho vua Bảo Đại. Tái chiếm để dẹp làn sóng đỏ của Hồ mà de Gaulle đã nhiều lần yêu cầu Hoa Kỳ giúp đỡ.
HCM rất muốn những đại diện của OSS tham dự ngày 2/9, nhưng ông ta hoàn toàn thất bại. Có lẽ Hồ nghĩ rằng ông đã qua mắt được những người Mỹ khi nói với họ rằng mình không phải cộng sản. HCM đã lầm vì ngay lúc OSS mướn Hồ làm lon ton để đương đầu với Nhật, người Mỹ đã biết Hồ là ai. Họ dùng người cộng sản này trong giai đoạn mà thôi.
Trong đám đông ngày 2/9/1945, giữa mùa thu nóng nực của Hà Nội, có vài người Mỹ thuộc OSS đến để quan sát. Đại Úy Ray Grelecki kể lại trong phim thời sự “Uncle Ho Uncle Sam” rằng những máy quay hình cứ để thẳng vào các người Mỹ, và họ đi qua đi lại nhiều lần. HCM rất cần Mỹ trong các phim để tuyên truyền rằng Hoa Kỳ ủng hộ chính phủ của ông ta. Có phải Hồ khi biết chỉ có vài người Mỹ tham dự để quan sát nên đăm ra lúng túng. Câu nói thừa thải “đồng bào có nghe rõ không?” để chấn chỉnh sự bối rối.
Thủ đoạn dùng ngay những câu trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ để đọc trong ngày gọi là “tuyên ngôn độc lập” của HCM thật là hạ sách mà sau này nhiều sử gia của Hoa Kỳ đem ra châm biếm. Một con người không có tư tưởng (pragmatic)! Lối nịnh hót, ve vuốt này của HCM cũng đã làm cho Stalin bực mình đến phải đặt cho Hồ một tên là người cộng sản ngu xuẫn kém văn hóa (troglodyte)!
Chính tác giả Archimedes Patti trong cuốn Why Viet Nam cũng cho rằng HCM thật là ngu ngơ khi đạo văn mà còn yêu cầu Patti xem qua. Hơn hết, tác giả đã thẳng thắn ghi ngay vào Chương 1 (Chapter 1) với kết luận là HCM là sư tổ của lối ngoại giao gian hùng, lưu manh.
Tóm lại, mẹ Việt Nam đã cho ra lầm một đứa con phản bội tổ quốc. Di lụy của HCM là đàn em cộng sản và con cháu họ đã theo gương bán nước của Hồ bất kể phản ứng của toàn dân, ngay cả còn sát hại, bỏ tù những tấm lòng yêu nước.
Xin đáp lại lời thơ của Tố Hữu:
Hồ trở về đây tổ quốc ơi
Mang theo chủ nghĩa sát hại người
Ba mươi năm ấy Minh học tập
Dân tộc là mồi cho Đảng xơi!
Bút Sử
20/8/2018
Nguồn: Why Viet Nam?, Archimedes Patti, 1980; phim Uncle Ho Uncle Sam Documentary; Sử Địa 12ab, Ban Giáo Sư Sử Địa, 1973, nhà xuất bản Trường Thi, Saigon
Wednesday, June 26, 2024
NHỮNG QUY TẮC GIAO CHIẾN CỦA KHÔNG LỰC HOA KỲ TẠI VIỆT NAM
Mark Berent
![]() |
Mark Berent |
![]() |
US Air Force Lt. Col. Mark Berent |
![]() |
F-4-flight |
![]() |
F-105 |
![]() |
AC-130-view-of-convoy |
![]() |
Mark with his books on the SE Asia War Games (Vietnam) |
![]() |
Berent, a three-tour veteran of the S E Asia War |