Nằm trong kế hoạch hợp tác kỹ thuật của Citroën về cơ khí ô-tô và những quốc gia có ý định sản xuất phương tiện giao thông nội địa, còn được Citroën gọi là kế hoạch hợp tác FAF (Facile À Fabriquer, Facile À Financer = Dễ sản xuất, Dễ trả tiền).
Sơ lược nguồn gốc
Hãng xe Citroën đã thiết lập một cơ xưởng ở Đông Dương vào năm 1936, trụ sở lúc đầu đặt tại góc đường Lê Lợi – Nguyễn Huệ hiện nay đã trở thành Caféteria Rex ở Sài Gòn. Dưới thời VNCH được dời đi và đổi tên thành Công Ty Xe Hơi Citroën, sau là Công Ty Xe Hơi Saigon.
Trụ sở Công Ty Xe Hơi Saigon (viết theo kiểu đọc tây phương: Saigon Xe Hơi Công Ty).
Dân cư ở miền Nam đã quen dùng các sản phẩm của Pháp từ thời đô-hộ
nên các loại xe ô-tô thường là các loại xe xuất xứ từ Âu châu, mãi đến
giữa thập niên 60 với việc nhập cảng ồ ạt các loại xe gắn máy 2 bánh:
Honda, Suzuki, Yamaha, Kawasaki, Bridgestone… Loại xe ô-tô Nhật Bản cũng
chen chân vào thị trường Việt Nam: Toyota, Mazda, Mitsubishi, Nissan,
Daihatsu… Xe do Pháp chế tạo đã không còn sức thu hút người tiêu thụ
ngoại trừ chiếc Citroën 2CV – Hảng Citroën quyết định tung ra thị trường
một loại xe thực dụng và rẻ tiền, loại xe mà các công ty sản xuất xe
Nhật Bản không thể cạnh tranh được.
Một quảng cáo của công ty Xe Hơi Citroën tại Sài Gòn.
Dựa trên mẫu mã của chiếc Méhari và chiếc Babybrousse rất thành công ở
các thuộc địa cũ, Citroën nhập cảng vào Việt Nam những cơ-phận chính
như bộ phận máy, tay lái, bộ nhún, bộ thắng,v.v. còn lại như đèn, kén
báo hiệu, ghế nệm, dàn đồng đóng bằng tôn, mui xe bằng lá thép uốn hoặc
vải, v.v. được chế tạo tại Việt Nam. Lúc tung ra thị trường vào năm
1970, tỷ lệ cơ phận nhập cảng so với cơ phận nội địa là 75/25 cho đến
năm cuối cùng khi hãng Citroën đóng cửa vào năm 1975 là 60/40. Có tất cả
là 4 kiểu La Dalat: loại 4 chỗ ngồi hoặc 2 chỗ ngồi với thùng chở hàng.Vài chi tiết kỹ thuật
Động cơ 4 thì, 602 phân khối, 2 xi-lanh đối ở 2 đầu nằm dẹp (flat twin), hộp số gồm 4 số tay, chuyền động ở trục bánh trước. Dài 3,5 mét, rộng 1,53 mét, cao 1,54 mét. Nặng khoảng từ 480 đến 590 kí-lô tùy theo kiểu.
Nhận xét
Xe La Dalat đánh đúng vào nhu cầu của dân lao động Việt Nam: ít tốn xăng, dễ sửa chữa, cơ phận dễ thay thế và đặc biệt là các cơ phận như cánh cửa, kiếng xe, v.v. đều có thể “tự chế”, dễ làm hơn các loại xe Nhật và rẻ tiền. Các bộ phận rời được bán với giá phải chăng vì hoàn toàn được chế tạo tại Việt Nam.
Ghi chú:
- Năm 1971 mua La Dalat là 650,000 đồng VNCH.
- Năm 1972 mua Mazda 1200 là 1,450,000 đồng VNCH.
- Năm 1972 xe Toyota 800 Sedan là 1,100,000 đồng VNCH.
- Một cái nhà trong hẻm lớn 7m, dài 25m rộng 6m 2 tầng khoảng 1,300,000 đồng VNCH.
- Luơng nhân viên bộ Nội Vụ cấp đốc sự 1970 khoảng 8,000/tháng.
No comments:
Post a Comment