TRẦN TRUNG
ĐẠO
Dấu tích của
con người trên địa cầu không chỉ là Kim Tự Tháp, Angkor Wat, Mona Lisa hay những
bản giao hưởng bất tử mà còn là Auschwitz, Armenia, Rwanda và nhiều hành động
diệt chủng tàn bạo và bất nhân khác. Thật vậy, bên cạnh những bậc thánh nhân
mang lại an lạc và giải thoát cho con người, những nhà khoa học có khả năng sáng
chế những cái hay, cái đẹp để làm thăng hoa cho cuộc sống, cũng có những ác nhân
như Hitler, Pol Pot, Stalin, Bin Ladin lại có thể nghĩ ra những cách giết người
vô cùng dã man, tàn độc.
Nhắc đến Bin
Ladin, tôi lại nhớ đến biến cố 11 tháng 9 năm 2001. Tôi làm việc trong ngành tài
chánh và nơi tôi làm việc cũng có tên là World Trade Center, mặc dù không phải
là World Trade Center New York. Đồng nghiệp của tôi, trong đó nhiều người tôi
quen biết, làm trong tòa nhà ngay bên kia đường của World Trade Center. Nơi tôi
làm, giống như hầu hết các công ty tài chánh khác, dọc bốn bức tường và các cột
chính thường treo nhiều máy truyền hình để nhân viên có thể trực tiếp theo dõi
biến động của thị trường đang diễn ra nhiều nơi trên thế giới. Buổi sáng ngày 11
tháng 9 năm 2001, thay vì nghe tin tức thị trường, tôi bàng hoàng nhìn cảnh khói
lửa mịt mù đang trực tiếp chiếu trên hàng chục máy truyền hình. Hình ảnh chiếc
máy bay thứ hai cất cánh từ thành phố tôi đang sống, lao vào tòa nhà phía nam
của khu thương mại World Trade Center sẽ không bao giờ phai đi trong trí nhớ của
tôi. Đứng nhìn cột khói bốc cao, tôi xúc động như đang nhìn chính căn nhà mình
đang cháy, và tương tự nhìn cảnh những người nhảy xuống trong tuyệt vọng từ
những tầng lầu cao, tôi cảm tưởng những người thân yêu của mình lao vào cõi chết.
Mỗi khi nhìn lại Ground Zero trơ trụi, trên đó một lần là World Trade Center New
York sầm uất, tôi lại chạnh lòng nghĩ đến những người dân vô tội đã chết. Tại
sao những thành viên của tổ chức Al-Qaeda lại có thể làm công việc giết người
tàn nhẫn như thế? Họ nhân danh ai và họ thật sự vì ai?
Thời gian
qua đi, cuộc sống đã dần dần trở lại bình thường. Những chuyến bay cất cánh từ
phi trường quốc tế Logan bên kia cửa sổ của phòng làm việc không còn làm tôi
nghĩ ngợi xa xôi. Thế nhưng, tuần trước, khi nhìn vết tích của tấm bia tưởng
niệm thuyền nhân chết trên đường vượt biển ở Galang bị nhà nước Việt Nam yêu cầu
chính phủ Nam Dương đập bỏ, cơn xúc động khi nhìn cảnh Ground Zero, tưởng chừng
như lắng xuống lại lần nữa nhói lên. Hai sự việc thoạt nhìn không dính líu gì
nhau. Hai tòa nhà ở New York không phải là bia tưởng niệm; tổn thất vật chất ở
New York lên đến hàng trăm tỷ đô-la trong lúc tấm bia tưởng niệm đồng bào bạc
phước ở Galang nhiều lắm là vài ngàn đô-la; số người chết ở hai tòa nhà thương
mại New York là 2986 người trong lúc bia tưởng niệm ở Galang chỉ là một tấm đá
đơn sơ. Có liên hệ gì chăng giữa hai di tích? Có chứ. Điều giống nhau không phải
ở chỗ người chết mà là người sống, không phải từ phía nạn nhân mà ở kẻ gây ra
tội ác, không phải thiệt hại về vật chất mà là những tác hại về tinh thần, không
phải ở hành động mà là suy nghĩ. Và quan trọng nhất, cả hai sự tàn phá đều phát
xuất từ những kẻ có cùng một tâm thức, mang cùng một não trạng, đó là tính cực
đoan, hận thù và sợ hãi còn ám ảnh và đè nặng trong tư duy họ.
Tôi nghĩ đến
nỗi bất hạnh của nạn nhân bởi vì tôi đã từng ở trại tị nạn và đã một lần phó
thác cuộc đời mình cho may rủi trên vùng biển đó. Những ngày ở Palawan, tôi
thường ngồi nhìn mặt trời lặn, tự hỏi phải chăng phía sau vầng ráng đỏ cuối chân
trời kia là quê hương tôi, là Hội An, là Đà Nẵng thân yêu. Những hình ảnh mẹ lạc
cha, vợ xa chồng, anh mất em, đứa bé bị bỏ quên đứng khóc trên đường ra bãi,
chuyến hải hành vô định trên biển Đông trùng trùng gió bão, đói khát, lo âu,
tuyệt vọng vẫn nhiều đêm trở về trong giấc ngủ tôi. Tôi vẫn nhớ phía cuối trại
Palawan là một căn nhà nhỏ, lúc nào dường như cũng tối. Người đến trước bảo đó
là chỗ ở của ba thuyền nhân còn may mắn sống xót từ chuyến ghe của gần một trăm
người. Sau hai tháng trời chết máy trôi bềnh bồng trên biển, một trăm người khi
ra đi đến nơi chỉ còn lại ba người. Ngoại trừ phái đoàn Cao Ủy Tị Nạn, ba người
kia không tiếp xúc với ai, không tâm sự với ai, không chia xẻ với ai làm cách
nào họ đã không chết đói, chết khát. Họ giữ cho riêng họ nỗi đau thầm kín, và
tôi tin có thể sẽ không bao giờ ai biết. Phía sau trại là căn nhà của những
người phụ nữ bị hải tặc hiếp dâm. Những phụ nữ bất hạnh kia lẩn tránh trong nhà,
ít khi ra ngoài để khỏi nghe những lời hỏi han, dù chỉ để an ủi cho số phận hẩm
hiu của họ. Nhiều trong số những người đi cùng ghe với các chị đã gởi thây trên
biển, bỏ xác trên các đảo san hô sau những lần bị hiếp dâm tập thể. Trên bờ cát
Palawan, có một em bé chừng năm, sáu tuổi, mỗi chiều vẫn ngồi im nhìn ra ngoài
khơi như thói quen chờ mẹ đi chợ về, khác chăng, mẹ của em sẽ không bao giờ về
nữa. Cha, mẹ, chị, và em của em đã chết trong chuyến hải hành dài cả tháng trời.
Không ai biết rõ em từ đâu ra đi. Nếu có người nào hỏi, em chỉ vỏn vẹn trả lời
rằng em đến từ Việt Nam, và đó cũng là tất cả những gì em biết về gia đình bạc
phước và đất nước đầy bất hạnh của em.
Hoàn cảnh
tương tự như thế cũng đã xảy ra trong các trại tị nạn khác trong vùng Đông Nam Á
như Galang, Bidong, Leamsing, Sungei Besi, Bataan, White Head, Panat Nikhom và
hàng chục trại tị nạn khác, nơi nhiều trăm ngàn người Việt Nam đã một lần tá túc
để chờ ngày định cư. Phần đông đồng bào đến trại sau khi đã trãi qua một cuộc
hải hành nhuộm đầy máu và nước mắt. Họ cố nuốt đau thương đưa tay cầm chén gạo
tình người. Những tiếng thank you, merci, danke, gracias vụng về,
ngượng ngập từ cửa miệng ở những người ở tuổi ba mươi, bảy mươi nhưng chỉ mới
bắt đầu tập nói.
Trong những
đợt sóng người vượt biển từ sau mùa bảo lửa 1975, bao nhiêu người đã ở lại trong
lòng biển cả? Một trăm ngàn, hai trăm ngàn hay năm trăm ngàn như Liên Hiệp Quốc
thống kê? Những con số mà chúng ta thường nghe, thường đọc, thật ra chỉ là những
phỏng đoán để điền vào khoảng trống cần thiết cho một bản thống kê. Con số thật
đã vĩnh viển nằm yên trong lòng biển. Sáng nay, trên đất nước Việt Nam, có những
bà mẹ già ba mươi năm sau vẫn còn nuôi hy vọng người phát thư buổi sáng sẽ trao
cho mẹ lá thư đầu của đứa con trai ra đi từ nhiều năm trước. Đêm nay, có những
người vợ nằm nghe tiếng lá rơi bên thềm mà ngỡ tiếng chân chồng mình trở về bên
căn nhà cũ. Lịch sử rồi sẽ sang trang nhưng cái chết đau thương của hàng triệu
người Việt Nam sẽ còn ở lại rất lâu trong lòng dân tộc như máu người Việt Nam
sẽ không bao giờ phai đi trong màu nước Thái Bình Dương.
Ngày trước ở
miền Nam, tuy khói lửa chiến tranh đang phủ một màu đen trên đất nước nhưng
không một giáo trình tiểu học nào dạy trẻ em để thù ghét nhau, chém giết nhau.
Mỗi sáng thứ hai trên tấm bảng đen của lớp học bao giờ cũng có một câu châm ngôn
đầu tuần thắm đượm tình dân tộc, lòng kính nhớ tổ tiên, ơn cha mẹ sinh thành
dưỡng dục. Câu cách ngôn đầu tiên một học sinh tiểu học miền Nam được dạy nếu
không là “một giọt máu đào hơn ao nước lã” thì cũng “nhiễu điều phủ lấy giá
gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”. Giống những người lính ngoài
mặt trận đang ráng bảo vệ từng tấc đất, từng con sông, các thấy các cô trong
ngành giáo dục cũng đã cố gắng giữ lại những đức tính nhân bản, dân tộc trong
tâm hồn các thế hệ măng non miền Nam. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có đạo, có
truyền thống kính trọng anh linh những người đã chết. Tình ruột thịt nghĩa đồng
bào được hun đúc nhiều năm trong tâm thức đã thôi thúc những người còn sống sót
dựng lên những tấm bia tưởng niệm đồng bào ở Galang, Bidong và những nơi có dấu
chân của người Việt tị nạn.
Một mặt của
tấm bia ở Galang viết: “Tưởng nhớ hàng trăm ngàn người Việt Nam đã thiệt mạng
trên đường tìm tự do (1975-1996). Dù họ đã chết vì đói khát, bị hãm hiếp, bị
kiệt sức hoặc vì một nguyên nhân nào khác, chúng ta cầu xin rằng họ bây giờ yên
bình vĩnh cửu. Sự hy sinh của họ không bao giờ bị quên lãng. Các cộng đồng người
Việt hải ngoại 2005.’’ Tại sao những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam, vốn
thích nhân danh những điều tốt đẹp nhất trên đời, những lý tưởng cao thượng và
vĩ đại nhất của nhân loại, lại có thể yêu cầu chính phủ Nam Dương, Mã Lai đập
phá những tấm bia tưởng nhớ những người đã chết? Có gì trong những dòng chữ đó
vi phạm đến an ninh quốc gia của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam? Có gì
trong những hàng chữ đó xúc phạm đến các lãnh tụ Cộng Sản đã chết hay còn sống?
Không. Nếu có chăng, trong tấm bia đá đơn sơ kia có dấu vết của bào thai bị chết
ngộp khi còn trong bụng mẹ, có tiếng khóc của những trẻ thơ đang đói khát, có
giọt máu của người phụ nữ Việt Nam đau đớn trong bàn tay hải tặc, có tiếng gào
tuyệt vọng của bà mẹ giữa cơn bão lớn ngoài khơi.
Chưa bao giờ
trong ba chục năm qua, những cụm từ “hòa giải dân tộc, xóa bỏ quá khứ” lại được
nhắc đi nhắc lại nhiều như trong những ngày này. Các lãnh đạo đảng và nhà nước
chủ trương hòa giải. Nhiều trí thức, học giả hô hào hòa giải. Nhiều nhà văn, nhà
thơ cổ võ cho tinh thần hòa giải. Nhiều vị lãnh đạo tôn giáo kêu gọi lấy tình
thương xóa bỏ hận thù.
Thật ra, bản
thân của cụm từ hòa giải không có gì sai trái, và tương tự, đem tình thương xóa
bỏ hận thù là một tư tưởng vô cùng cao quý. Từ kinh nghiệm sống đầy thăng trầm
và trắc trở của mình, tôi tin rằng tình thương là cứu cánh của mọi nỗi khổ đau,
và tôi cũng tin rằng nỗi đau trong trái tim dân tộc hơn nửa thế kỷ qua, phải
được hóa giải, không phải bằng “ai thắng ai” nhưng bằng tinh thần cảm thông, bao
dung và hướng thiện. Vâng, nhưng trước khi vượt qua quá khứ, mỗi người Việt Nam,
từ cấp lãnh đạo đảng, nhà nước cho đến những người dân thường đang ở trong hay
ngoài nước, phải can đảm nhìn vào sự thật, và những ai có trách nhiệm cho những
tan thương đổ vỡ của đất nước phải biết thừa nhận những sai lầm và thực hiện các
biện pháp căn bản để đổi thay đất nước. Con đường hòa giải là đại lộ hai chiều
và là chiếc cầu nhiều nhịp. Không ai có thể đứng bên này sông ra lệnh người khác
bơi qua để hòa giải với mình. Nhìn lại quá khứ không phải để ngủ vùi trong quá
khứ nhưng để học, để tránh những vết xe đã một thời làm nghiêng đổ non sông. Tôi
tin rằng khi nhìn vào sự khổ đau phải nhìn vào nguyên nhân của nó hơn là chỉ
nhìn vào sự lở lói bên ngoài. Những lở lói hôm nay của đất nước bắt nguồn từ ba
mươi năm, nếu không muốn nói là bảy mươi năm, đầy lầm lỗi của đảng Cộng Sản Việt
Nam.
Nếu thực tâm
hòa giải, giới lãnh đạo đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam lẽ ra phải là những
người dựng lên tấm bia tưởng niệm đó; lẽ ra họ là người phải chăm nom hương khói
những phần mộ, hài cốt của những đồng bào không may mắn bỏ thay trên xứ lạ quê
người. Quá khứ tuy khó có thể quên ngay nhưng tôi tin dù nói gì đi nữa trong
lòng con người Việt Nam cũng còn nhiều bao dung tha thứ. Người dân Việt Nam dù
bị lừa gạt năm lần bảy lượt nhưng trong trái tim của họ màu độ lượng vẫn đậm hơn
màu thù hận. Chịu đựng trong cơn mưa dài nửa thế kỷ, dân tộc Việt Nam đang quá
cần một ngày nắng đẹp, Hòa thượng Thích Huyền Quang, một trong những nhà lãnh
đạo tôn giáo bị tù đày, hành hạ nhiều nhất sau 1975, nhưng trong buổi tiếp xúc
với ông Phan Văn Khải tại Hà Nội ngày 2 tháng 4 năm 2003, cũng đã nhấn mạnh đến
tinh thần hòa giải và sẵn sàng gác qua quá khứ đầy khắc nghiệt và bản thân ngài
và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất gánh chịu suốt gần ba mươi năm để cùng
góp tay nhau xây dựng đất nước nếu đảng và nhà nước thành thật hối cải những sai
lầm. Tiếc thay bao nhiêu cơ hội đã đến và đi trước thái độ thờ ơ của đảng và
nhà nước Cộng Sản Việt Nam.
Đối với
những người lãnh đạo Cộng Sản, phương pháp truyền thống để gọi là “xóa bỏ quá
khứ” không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nơi trên thế giới trước đây, không phải là
đối thoại hay đối diện nhưng đơn giản là đập bỏ. Những tội ác như Goulag và
thanh trừng nội bộ ở Liên-xô, Cách Mạng Văn Hóa và Công Xã Nhân Dân ở Trung Quốc,
chính sách Năm Số Không (Year Zero) của Pol Pot ở Campuchia, tư tưởng Juche của
Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn, Cải Cách Ruộng Đất ở Việt Nam.v.v.. tuy khác nhau về
hình thức, mức độ nhưng đều bắt nguồn sâu xa từ lý thuyết Cộng Sản, đúng như Mác
khẳng định trong Tuyên Ngôn đảng Cộng Sản: “Những người vô sản chẳng có gì là
của mình để bảo vệ cả, họ phải phá hủy hết thảy những cái gì, từ trước đến nay,
vẫn bảo đảm và bảo vệ chế độ tư hữu”.
Tôi biết
điều đó và nhiều độc giả biết điều đó nhưng đồng bào chúng ta với bản chất nhân
hậu, thường có thói quen nghĩ rằng, dù sao những người lãnh đạo đảng Cộng Sản
Việt Nam cũng sinh ra từ một đất nước có truyền thống văn hóa bốn ngàn năm. Dân
tộc Việt Nam là một trong số rất ít quốc gia, ở đó người dân đã gọi nhau bằng
hai tiếng đồng bào thiết tha trìu mến. Tiếc thay những gì vừa xảy ra ở Galang đã
giết đi chút hy vọng cuối cùng ngay cả trong những người ôn hòa và kiên nhẫn
nhất. Việc xúc phạm đến anh linh những đồng bào đã qua đời trong hoàn cảnh vô
cùng thương tâm trên biển, không những sát muối vào vết thương vẫn còn đang mưng
mủ mà còn đào sâu thêm sự rẽ chia, phân hóa hôm nay và nhiều thế hệ Việt Nam mai
sau.
Hành động
đập bia để phi tang còn là lời tự thú của giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam
đối với đồng bào Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng. Nói rõ hơn, họ công
khai thú nhận rằng nếu không có Kinh Tế Mới, không có những trại tập trung,
không có kiểm kê tài sản, không có đổi tiền năm lần bảy lượt, không có lý lịch
ba đời và hàng chục chính sách bất nhân hà khắc hơn cả thời thực dân thì em
Hoàng Thị Thu Cúc đã không treo cổ ở Thái Lan, đồng bào tị nạn đã không tự
thiêu, tự sát tập thể ở Sungei Besi, Galang, Bidong mười năm trước, không có
thảm cảnh cha bị cọp tha trong rừng già và mẹ xác trôi bồng bềnh trên biển. Các
chính sách trả thù tàn nhẫn, tiêu diệt mọi mầm mống chống đối đã đẩy hàng triệu
người dân Việt không còn chọn lựa nào khác hơn là ra biển để tìm đường sống
trong con đường chết.
Trái với
thái độ rụt rè đến mức chỉ dăm câu chào hỏi tổng thống Bush mà phải cầm giấy đọc
như trường hợp ông Phan Văn Khải trong chuyến Mỹ du vừa rồi và sự hạ mình thần
phục thiên triều Trung Quốc qua việc ông Lê Khải Phiêu ký hiệp ước biên giới lén
lút năm 1999, đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam lại không có một hành động
thành thật và cụ thể nào để chứng tỏ tinh thần hòa giải với những người máu mủ
với mình. Tại sao? Họ lấy lòng các nước lớn vì họ biết rằng các hình thức lật đổ
chính quyền, các âm mưu đảo chánh, ám sát vốn quen thuộc trong thời kỳ chiến
tranh lạnh đã trở thành lỗi thời trong thời đại kinh tế toàn cầu ngày nay. Mối
quan tâm hàng đầu của chính quyền Mỹ không phải những ai là người lãnh đạo Việt
Nam hay đảng nào lãnh đạo Việt Nam nhưng ai đáp ứng nhiều nhất, phục vụ tốt nhất
cho chính sách đối ngoại, đem lại nhiều mối lợi và tạo sự ổn định cho thị trường
kinh tế thương mại của họ. Chính quyền Mỹ không quan tâm tài sản của ông Lê Khả
Phiêu, ông Lê Đức Anh trị giá bao nhiêu, ông Đỗ Mười sở hữu bao nhiêu biệt thự,
ông Phan Văn Khải có bao nhiêu triệu đô-la, và họ cũng không cần nghe, cần biết,
cần thấy tuyệt đại đa số người dân Việt Nam đang sống những tháng ngày cơ cực ra
sao trên vỉa hè, góc phố.
Lịch sử ban
giao quốc tế đã cho thấy rằng những khái niệm hận thù, thương ghét chỉ tồn tại
trong con người chứ không bao giờ là những phạm trù quốc gia. Quốc gia chỉ có
quyền lợi chứ không có bạn hay thù. Những ai chỉ nghe câu kết luận của tổng
thống Bush trong diễn văn nhậm chức: “Tất cả những ai đang sống dưới chế độ độc
tài bạo ngược và trong sự tuyệt vọng có thể biết là, Hoa Kỳ sẽ không làm ngơ
trước tình trạng bị áp bức của các bạn, hoặc tha thứ cho những kẻ áp bức. Khi mà
các bạn đứng lên vì tự do của mình, chúng tôi sẽ đứng về phía các bạn” mà vội
tin rằng vị tổng thống thứ 43 của Mỹ sẽ công khai và tiếp tục ủng hộ các phong
trào dân chủ Việt Nam, có thể chỉ là một giấc mơ hơi sớm. Với tổng sản lượng nội
địa vỏn vẹn 43 tỉ đô-la, trong đó 38% là từ khu vực dịch vụ, Việt Nam còn quá
xa, quá nhỏ để trở thành một hấp lực cho đầu tư quốc tế đừng nói chi đến việc
cạnh tranh với thị trường Trung Quốc.
Dân chủ là
lý tưởng cao đẹp, là nếp sống văn minh nhưng đồng thời cũng là món hàng vô cùng
đắt giá. Bằng chứng, Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nga giành nhau để đem lại cho dân chủ
cho Iran, Iraq trong lúc ba phần tư các quốc gia Châu Phi hàng trăm năm nay vẫn
còn chịu đựng dưới ách độc tài nghèo đói. Tại sao họ không giúp lật đổ các chế
độ độc tài tại Congo, Gabon, Chad? Đơn giản vì các quốc gia đó quá nghèo, không
có tài nguyên gì quý giá để đổi lấy món hàng dân chủ. Để bày tỏ thái độ ủng hộ
phong trào dân chủ tại Trung Quốc và phản đối việc nhà cầm quyền Trung Quốc đàn
áp sinh viên một cách đẫm máu trong biến cố Thiên An Môn, các quốc gia Mỹ, Nhật,
Pháp, Đức, đồng thanh lên án, các công ty lớn đe dọa ngưng đầu tư, hủy bỏ hợp
đồng nhưng không bao lâu, đâu cũng vào đó. Một mặt, các tổng thống Clinton, rồi
Bush tiếp tục chỉ trích tình trạng nhân quyền tại Trung Quốc, trong khi một mặt
khác, các công ty Mỹ đã đầu tư 450 tỉ đô-la vào Trung Quốc trong mười hai năm.
Thị trường Trung Quốc với lao động rẻ mạt và sức mua lớn vẫn là miếng mỡ béo cho
các con mèo tư bản. Tương lai dân chủ, tự do, giàu mạnh của những con người bị
áp bức, nếu có được, chỉ phải được thắp lên bằng chính những hy sinh xương máu
của chính họ chứ không trông cậy vào ai khác.
Một lý do
khác khiến giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam không thực tâm hòa giải với nhân dân
Việt Nam vì họ rất sợ sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam. Trung Quốc và Mỹ,
vì quyền lợi kinh tế, có thể không quan tâm đến chuyện thay đổi lãnh đạo tại
Việt Nam nhưng nhân dân Việt Nam, nếu có cơ hội chắc chắn sẽ làm ngay. Những nhà
lãnh đạo đảng biết rằng ngày nào dân tộc Việt Nam có cơ hội để đoàn kết nhau
thành một khối thì đó cũng là ngày đánh dấu sự cáo chung của chế độ độc tài toàn
trị tại Việt Nam. Bao nhiêu năm qua, cơ chế độc tài tồn tại nhờ vào sự hoài nghi
Nam Bắc, sự phân hóa xã hội, sự chia rẽ trong cộng đồng dân tộc và họ luôn luôn
tìm mọi cách để duy trì sự phân hóa, chia rẽ đó. Hành động yêu cầu đập bỏ những
tấm bia tưởng niệm ở Galang là một phản ứng tuyệt vọng trước ánh sáng của sự
thật. Sau ba mươi năm, đồng bào Việt Nam đã hiểu ra ai là nạn nhân và ai là
những kẻ sống bám vào máu, mồ hôi và nước mắt của bao nhiêu thế hệ Việt Nam đã
và đang đổ xuống.
Giống như
câu chuyện những sĩ quan và viên chức miền Nam bị tù ra miền Bắc trước đây, khi
đi ra họ đã bị dân chúng hai bên đường chửi bới, mắng nhiếc, thậm chí còn có kẻ
ném đất, ném bùn vào họ, nhưng mười năm sau trên chuyến tàu vào Nam, cũng chính
những người từng tin rằng lính miền Nam thích ăn thịt người, đã nhét vội vào bàn
tay tù xanh xao những điếu thuốc lá, những củ khoai mì. Món quà nhỏ nhoi không
đáng giá bao nhiêu nhưng mang theo hơi ấm của tình dân tộc. Đồng bào miền Bắc
cảm thông, thương xót người tù miền Nam không phải chỉ vì tình đồng bào ruột
thịt nhưng quan trọng hơn họ đã thấy được sự thật. Thấy được sự thật, hòa giải
sẽ tự nhiên đến, và có thể lúc đó chuyện hòa giải sẽ không còn cần thiết. Tôi
tin có một ngày khi chế độ độc tài tàn lụi, những người lính cũ Nam Bắc gặp
nhau, sẽ không ai hứng thú nói về những ngày ở Khe Sanh, An Lộc, Bình Long hay
trong các trại tù Hàm Tân, Thanh Phong, Thanh Hóa và cũng không còn thích nghe
những lời xin lỗi nhau đã trở thành thừa thãi, nhưng sẽ nói nhiều về các con,
các cháu của họ. Niềm hãnh diện của họ không phải là những tấm huy chương nhưng
là công trình, dự án mà con cháu họ đang theo đuổi cho đất nước mình. Ngày đó,
nhiều lắm, những ông già còn sống sót sẽ cùng uống với nhau một chén rượu nếp
than, và để nói như nhà thơ Tô Thùy Yên, “giải oan cho cuộc biển dâu này”.
Phân tích
như thế để cùng thấy rằng, khi nhìn lại chặng đường dài đầy bi tráng của dân
tộc, tất cả chúng ta, dù Nam hay Bắc, cầm súng hay không cầm súng, dù trực tiếp
hay gián tiếp tham dự cuộc chiến, vượt biên ra đi hay ở lại chịu đựng, nói cho
cùng, đều là nạn nhân của phong kiến, thực dân và độc tài lạc hậu.Nỗi đau của
ngư dân Thanh Hóa bị Trung Quốc giết mới đây hay thảm cảnh người vượt biển chết
chìm trên biển Đông ba mươi năm trước đều là nỗi đau chung của dân tộc. Trách
nhiệm đưa đất nước vượt qua hố thẳm độc tài lạc hậu để vươn lên cùng thời đại là
trách nhiệm của mọi người Việt quan tâm đến số phận dân tộc mình. Một giòng sông
không ra biển không còn là giòng sông nữa, dù rộng lớn bao nhiêu cũng là ao tù
nước đọng. Dân tộc Việt Nam như một dòng sông lớn, phải vận hành theo luật tuần
hoàn, tụ thành mây để làm những cơn mưa lớn và bay ra khơi để sớm trở về nguồn.
Chúng ta đã từng chịu đựng như một dân tộc và tôi tin chúng tôi sẽ vượt qua như
một dân tộc.
Trong ý nghĩ
đó, tấm bia tưởng niệm ở đảo Galang không chỉ để tưởng nhớ đồng bào đã hy sinh
trên đường tìm tự do, và quan trọng hơn, đó là một phần của lịch sử Việt Nam.
Một trăm năm sau, hai trăm năm sau, các thế hệ Việt Nam sẽ tìm đến Bidong,
Galang, Palawan, Sungei, Besi, White Head, Panat Nikhom, .v..v để dò lại dấu
chân của những người đi trước và lắng nghe tiếng biển thì thầm về một chặng
đường bi tráng đã qua. Đập đổ tấm bia là một trọng tội với lịch sử, và giống như
số phận của tập đoàn Taliban khi bắn sụp các tượng Phật ngàn năm ở Afghanistan,
không có đất sống cho những kẻ từ chối, khinh bỉ và hủy diệt các giá trị văn hóa
thiêng liêng của dân tộc mình.
No comments:
Post a Comment