Kiến Hào
Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975, toàn bộ những giá trị kinh tế – xã hội của
miền Nam đều bị xóa bỏ và thay thế bởi những khái niệm, chuẩn mực mới
của miền Bắc XHCN. Riêng về lịch sử, triều Nguyễn (1802 – 1945) chịu sự
phê phán, lên án hết sức nặng nề. Tất cả đường phố Sài Gòn có biển tên
vua quan triều Nguyễn đều bị xóa bỏ, thay bằng những tên khác như Nguyễn
Hoàng (bị thay bằng Trần Phú), Gia Long (Lý Tự Trọng), Thành Thái (An
Dương Vương), Minh Mạng (Ngô Gia Tự), Hiền Vương (Võ thị Sáu), Lê Văn
Duyệt (Cách Mạng tháng 8), Võ Di Nguy (Phan Đình Phùng), Nguyễn Huỳnh
Đức ( Huỳnh Văn Bánh), Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ), Phan Thanh Giản
(Điện Biên Phủ), Võ Tánh ( Hoàng văn Thụ) v.vv… Những ngôi trường miền
Nam nổi tiếng một thời, mang tên vua chúa và các khai quốc công thần
triều Nguyễn cũng chịu chung số phận bị xóa tên như Gia Long, Petrus Ký,
Lê Văn Duyệt, Trịnh Hoài Đức, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản …Đặc biệt
địa danh “Gia Định” để chỉ một vùng đất là thủ phủ miền Nam đã tồn tại
hơn 200 năm cũng bị xóa mất. Sách giáo khoa và tham khảo trong nhà
trường phổ thông dùng những từ ngữ hết sức “cay nghiệt” khi nói về các
vua chúa nhà Nguyễn : “…Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng
dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược
của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập nên triều Nguyễn sau khi
đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân … Triều Nguyễn là vương
triều tối phản động …Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc
lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn
của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc phái
Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em… “Chính quyển nhà Nguyễn hoàn toàn đối
lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế
lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác
ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long
(1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847),Tự Đức
(1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật
đổ. Chính vì khiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không
dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế”.(1)
Nhiều
thế hệ học sinh đã được học những bài học lịch sử với quan điểm đánh
giá cực đoan như vậy, nên không trách trong một thời gian dài, rất nhiều
những ngộ nhận oan sai, thậm chí lòng căm thù đối với nhà Nguyễn tỏ ra
“hết sức sâu sắc”. Thực ra, các vua chúa triều Nguyễn cũng có nhiều công
lao to lớn trong sự nghiệp mở nước và thống nhất đất nước, chấm dứt nội
chiến…mà vì nhiều lý do, người ta cố tình bỏ quên hoặc lãng tránh nhắc
đến các sự kiện đó, hoặc buộc phải nhắc đến thì lại cố tình gán ghép cho
những động cơ sai trái, suy diễn theo hướng có tội. Đó là một thái độ
không công bằng, thiếu tôn trọng sự thật khách quan, thiên lệch và bóp
méo lịch sử. Bài viết này không có tham vọng “tan sương đầu ngõ vén mây
giữa trời” (Kiều), cũng không nhằm biện minh cho những sai lầm của nhà
Nguyễn trong quá khứ, chỉ mong cung cấp những sự kiện lịch sử có thật để
bạn đọc có một cái nhìn khách quan, đầy đủ hơn từ đó có những nhận xét
công tâm về nhà Nguyễn, một vương triều vẫn đang có nhiều tranh cãi
trong quá khứ và cả hiện tại.
1. KHAI HOANG MỞ CÕI :
a/. Vùng đất hứa của dân phiêu tán :
Năm
1558, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng xin vào Nam trấn thủ đất Thuận Hóa
(2), ” Ô châu ác địa” không ngờ là mảnh đất dung thân, nơi các Chúa
Nguyễn đứng vững và mở đầu cuộc Nam tiến của dân tộc Việt suốt hai thế
kỷ, trải chín đời chúa. Văn thần triều Lê – Trịnh là Lê Quý Đôn mặc dù
đứng trên lập trường đối nghịch cũng viết những nhận xét khách quan về
Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) trong Phủ Biên tạp lục như sau : ” Đoan Quận
Công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn
10 năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dụng
pháp công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quan dân hai xứ (
Thuận Hóa- Quảng Nam) thân yên tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong
tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không
phải đóng …” .(3)
Nửa cuối thế kỷ 16, cuộc chiến
tranh Lê – Mạc đã vắt cạn kiệt nguồn lực của xứ Bắc Hà, đói kém, mất mùa
liên tiếp khiến dân cư hết sức khổ sở, tạo thành một làn sóng di dân vô
vùng đất phía Nam của chúa Nguyễn. Đại Việt Sử ký toàn thư (4) ghi chép
lại tình cảnh khốn cùng của dân Đàng Ngoài qua các năm như sau :
…(Năm
1570) Bấy giờ nhân dân các huyện ở Thanh Hoa tan tác tháo chạy, ruộng
đồng bỏ không cày cấy, nhiều người bị chết đói……(Năm 1571) Năm ấy đất
Thanh Hoa mất mùa, dân đói to, nhiều người xiêu giạt……(Năm 1572) Năm ấy,
các huyện ở Nghệ An, đồng ruộng bỏ hoang, không thu được hạt thóc nào,
dân đói to, lại bị bệng dịch, chết đến quá nửa, nhiều người xiêu giạt,
kẻ thì lần vào Nam, người thì giạt ra Bắc, trong hạt rất tiêu điều…(Năm
1589) Ngày 15, mặt trăng phạm vào sao Tuế. Đại hạn, Gạo kém. Nhiều người
xiêu tán…(Năm 1592) Tháng 7 ngày mồng 6, lụt thình lình, nước sông chảy
tràn, gò đống bị ngập, đạo Thanh Hoa lúa má mất mùa. Ngày 15 lại bị
lụt. Dân miền Tây Nam cũng bị đói kém…(Năm 1594) Bấy giờ nhân dân các
huyện ở Hải Dương mất mùa to, đói kém đến ăn thịt lẫn nhau, chết đói đến
một phần ba…(Năm1595) Bấy giờ nhân dân mất mùa, đói to, lại thêm ôn
dịch, người chết xác gối lên nhau…(Năm1596) Bấy giờ đại hạn, thóc lúa vụ
chiêm đều không thu được, đầm phá khô cạn, cây cỏ úa vàng, hoa không
kết trái. Trộm cướp quần tụ trong dân gian, bọn lớn đến bảy tám trăm
đứa, bọn nhỏ cũng không dưới vài trăm, ngày đêm đốt phá nhà cửa, cướp
đoạt của cải gia súc, thủy bộ không thông, đường sá bế tắc, dân đói
nhiều, chết đến quá nữa…
Có thể nói , hai trấn Thuận
Hóa và Quảng Nam sau khi được Nguyễn Hoàng an định, đã trở thành vùng
đất hứa cho hàng ngàn người dân trải dài từ Thăng Long đến Thanh Nghệ,
họ là nạn nhân của những năm mất mùa đói kém và chiến tranh thảm khốc
giữa nhà Lê và nhà Mạc (5). Đợt di dân tự nguyện này cũng giúp giải
quyết áp lực dân số trên một vùng đất nông nghiệp có giới hạn, mở đầu
cho các cuộc Nam tiến sau này, những cuộc di dân đã làm tăng thêm sức
mạnh dân tộc và giúp đất nước thoát khỏi nguy cơ bị Hán hóa.
b.Mở cửa thị trường trong nước, đẩy mạnh giao thương với các thương nhân nước ngoài:
Chính
sách trọng thương của chúa Nguyễn đã khuyến khích các thương nhân nước
ngoài vào làm ăn buôn bán khiến các thương cảng Thanh Hà, Hội An ở Đàng
Trong trở nên sầm uất phát đạt lôi kéo theo các nghề thủ công, tiểu thủ
công như trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, gốm sứ, nghề gỗ, đóng tàu … phát
triển đến cực thịnh. Nguồn thu thuế, lợi tức từ việc trao đổi mua bán
hàng hóa chính là nguồn hỗ trợ chu cấp quân lương cho chúa Nguyễn trong
cuộc chiến với Đàng Ngoài. Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Minh
khiến hàng hóa Nhật muốn vào Trung Quốc và ngược lại đều phải trung
chuyển qua các cảng Đàng Trong, vô tình khiến các thương cảng Hội An
Thanh Hà càng thêm sầm uất. Số tàu buôn Trung Hoa đến thương cảng Hội An
từ 1647 đến 1720 nhiều hơn số tàu đến bất cứ nước nào khác trong vùng
(Bắc Hà 63 tàu, Chân lạp 109 tàu, Xiêm 138 tàu, Indonesia 90 tàu và Hội
An là 203 tàu). (6)
Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, một
người quê gốc Bình Định và có thiên kiến với triều Nguyễn cũng phải
nhìn nhận : ” …nhìn lại trong sự phát triển quyền lực của họ Nguyễn, căn
bản tổ chức tuy là theo khuôn mẫu của một chính quyền phương Đông nhưng
trong tình thế riêng biệt của vùng và của thời thế, yếu tố thương mại
đã có dáng quan trọng đến mức chứa chấp cả sự hưng vong của dòng họ.
Không phải chỉ vì nhu cầu tự vệ với Trịnh mà Nguyễn bị buộc phải củng cố
phát triển. Trong một trăm năm ngưng chiến, họ vẫn trên đà gia tăng
cường thịnh để có những toan tính dòm ngó đất Đàng Ngoài, và chuẩn bị
xưng vương lập nước …”.(7)
Nhà du hành hàng hải người
Anh John Barrow (1764-1848) là một người vận động cho công cuộc giao
thương giữa công ty Đông Ấn và xứ Nam Hà (8) đã có những nhận xét về
kinh tế Đàng Trong như sau : ” …Theo ý tôi, sự liên kết thân thiết với
Nam Hà sẽ mở ra một con đường lớn cho việc thực hiện mục tiêu này. Đất
nước này sẽ cung cấp nhiều mặt hàng có giá trị thích hợp với thị trường
Trung Quốc, và sẽ mở ra một lối thoát rất lớn để tiêu thụ nhiều hàng hóa
của chúng ta, và vị trí của nó nằm trên con đường đi thẳng từ Anh tới
Trung Quốc là một điều không thể không suy nghĩ. Chẳng hạn như những khu
rừng Nam Hà sẽ cung cấp nhiều loại gỗ hương liệu khác nhau như hồng
đào, trầm hương, kỳ nam …tất cả đều được tán thưởng ở thị trường Trung
Quốc, được trả với giá cực kỳ cao. Quế chi xứ Nam Hà, mặc dù hơi thô và
hương vị cay nồng, nhưng người Trung Hoa vẫn thích nó hơn thứ quế Tích
Lan (Ceyland) …Gạo là nhu cầu không thể thiếu của thành phố Quảng Châu
đông đúc, còn đường và hạt tiêu cũng đều được hoan nghênh, tất cả các
mặt hàng này đều được sản suất dồi dào trong các thung lũng phì nhiêu xứ
Nam Hà. Ngoài những sản vật này, còn có thể kể thêm cau, sa nhân, gừng
và các loại gia vị khác, cùng những tổ chim yến thu lượm được rất nhiều
trên những cụm lớn các đảo chạy song song với bờ biển mà trên các hải đồ
có tên là Paracels (Hoàng Sa)…”. (9)
c/. Mở rộng biên cương vạn dặm :
Nhà
sử học Trần Trọng Kim trong tác phẩm Việt Nam sử lược ( Chương VI: Công
việc họ Nguyễn làm ở miền Nam) đã viết : ” Còn những công việc họ
Nguyễn làm ở phía Nam quan trọng cho nước Nam ta hơn cả, là việc mở mang
bờ cõi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu mộ
những người nghèo khổ trong nước đưa đi khai hóa những đất phì nhiêu bỏ
hoang, làm thành ra Nam Việt bây giờ phồn phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái
công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lớn lắm vậy”. (10)
Đầu
thế kỷ 17, xứ Quảng Nam (gồm cả Quảng Ngãi và Quy Nhơn) là vùng đất cực
nam của Đại Việt giáp với Chiêm Thành. Năm Tân Hợi (1611) chúa Nguyễn
Hoàng đánh Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên, chia ra làm hai huyện
là Đồng Xuân và Tuy Hòa.
Năm Quý Tỵ 1653, vua nước
Chiêm là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc
Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm xin hàng. Chúa
Nguyễn lấy đất đặt làm phủ Diên Khánh ( Khánh Hòa bây giờ).
Năm
Quý Dậu 1693, vua Chiêm là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là
Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem quân đi đánh,
bắt Bà Tranh đem về Phú Xuân, đổi đất Chiêm Thành làm Thuận phủ, qua năm
1697 lại đổi làm phủ Bình Thuận, lấy đất Phan Rí, Phan Rang làm huyện
Yên Phúc và huyện Hòa Đa. Nước Chiêm Thành bị diệt.
Năm
1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh làm Khâm sai
Kinh lược sứ, vào nam lập phủ Gia Định gồm hai huyện : huyện Phước Long (
Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên và huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh
Phiên Trấn (11); lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để
lập ra thôn xã và tha thuế để khuyến khích khai khẩn ruộng đất. Những
người Tàu di dân ở đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, những người ở
đất Phiên Trấn thì lập làm xã Minh Hương. Những người Tàu này đều thuộc
sổ bộ dân nước ta. Phủ Gia Định khi ấy dân số ước chừng bốn vạn hộ ( 20
vạn người).
Năm 1708, Mạc Cửu cai quản đất Hà Tiên
(kể cả Phú Quốc) xin thuộc về Đàng Trong. Chúa Nguyễn chấp thuận, lập ra
trấn Hà Tiên, để Mạc Cửu làm Tổng binh giữ đất ấy.
Năm
1732, vua Sâtha của Chân Lạp xin cắt hai vùng Peam Mesar (Mỹ Tho) và
Longhôr (Vĩnh Long) dâng chúa Nguyễn Phúc Trú (Thái) để tạ ơn dẹp loạn.
Chúa Nguyễn đặt dinh Long Hồ và lập châu Định Viễn.
Năm
1735, Mạc Cửu qua đời, con là Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn cho nối
chức, tiếp tục mở rộng Hà Tiên đến Rạch Giá và Cà Mau. Năm 1757, chúa
Nguyễn đặt ra đạo Kiên Giang (Rạch Giá) và đạo Long Xuyên (Cà Mau) đều
thuộc về Trấn Hà Tiên.
Năm 1753, vua Chân Lạp là Chey
Chêtthâ V (tức Nặc Nguyên) bị chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư
Trinh cử binh phạt tội vì thông sứ với chúa Trịnh và ức hiếp người Côn
Man (dân Chămpa lưu vong). Năm 1755 vua Chân Lạp bị đánh thua, bỏ thành
Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ giúp tâu với chúa Nguyễn xin
nộp hai vùng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp ( Tân An và Gò Công) để tạ tội.
Chúa Nguyễn cho nhập hai vùng đất ấy vào châu Định Viễn.
Năm
1759, Nặc Nguyên mất, chú là Nặc Nhuận xin dâng hai vùng đất Trà Vinh
và Sóc Trăng để được công nhận là vua Chân Lạp. Đến đây thì toàn bộ bờ
biển hình chữ S của nước ta đã định hình.
Năm 1760,
Nặc Nhuận bị rể là Nặc Hinh giết chết. Quan tổng suất triều Nguyễn là
Trương Phúc Du đem quân sang đánh. Nặc Hinh thua chạy và bị giết. Con
Nặc Nhuận là Nặc Tôn (Ang Tong) được lên nối ngôi vua Chân Lạp, xin dâng
đất Tầm Phong Long ( Sa Đéc) để tạ ơn. Đến đây thì quá trình Nam tiến
kể như hoàn tất.
Nặc Tôn lại dâng năm phủ là Kampot,
Kompong Som, Chal Chun, Bantey Méas, và Raung Veng để tạ ơn Mạc Thiên
Tứ. Chúa Nguyễn Phúc Khoát cho nhập tất cả vào trấn Hà Tiên. Năm 1841,
vua Thiệu Trị trả năm phủ ấy lại cho Chân Lạp, ngày nay là hai tỉnh
Kampot và Tà Keo.
Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết những
dòng ray rứt : ” Nhà Nguyễn đã có công lao rất lớn đối với nước Việt
Nam, đó là một sự thật hiển nhiên, vậy mà không hiểu tại sao và từ lúc
nào, lại bị bóp méo đến biến dạng, bị sai lệch đi trong cái nhìn chính
thống, bị hạ thấp một cách oan ức về thang bậc giá trị lịch sử và văn
hóa, bị ruồng bỏ nhiều bài vị tôn kính, bị xóa tên đường phố nhiều vua
chúa kiệt xuất. Tại sao ?”(12)
2. THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC SAU GẦN 300 NĂM PHÂN LIỆT :
Có
lẽ chưa từng có nước nào mà sự cát cứ, chống đối giữa các thế lực phong
kiến lại kéo dài như Đại Việt, suốt từ nửa đầu thế kỷ XVI (1533) đến
đầu thế kỷ XIX (1802), bức tranh lịch sử với những sự kiện bi hùng xảy
ra dồn dập. Cuộc chiến Nam Bắc triều vừa chấm dứt thì cuộc chiến Trịnh –
Nguyễn lại tiếp tục đưa đất nước vào cảnh chia cắt hàng trăm năm lần
thứ hai. Xen vào đó là phong trào Tây Sơn nổi lên cuối thế kỷ 18. Những
cuộc chiến làm suy yếu nội lực đất nước, gây chia rẽ giữa các vùng miền
và tạo cơ hội cho các cuộc ngoại xâm, cũng như để lại hệ quả là những
dấu ấn khác biệt về văn hóa, tính cách, ngôn ngữ, tập quán trong quá
trình phát triển đất nước, con người Việt Nam giữa các địa phương.
a/. Chiến tranh Nam –Bắc triều :
Năm
1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra triều Mạc mở đầu giai đoạn
chiến tranh Nam – Bắc triều suốt thế kỷ 16. Bắc triều lấy Dương Kinh
(Hải Dương) làm kinh đô thứ hai, dựa vào quân bốn trấn Hải Dương, Sơn
Tây, Sơn Nam và Kinh Bắc để chống lại quân Nam triều cát cứ vùng Thanh
Nghệ. Chiến trường khi thì ở trong Thanh Hóa, Nghệ An khi thì tại kinh
đô Thăng Long hoặc Sơn Nam, Hải Dương tùy tình hình tương quan lực lượng
hai bên nhưng nhìn chung cuối cùng chỉ nhân dân là gánh chịu tất cả
thiệt hại. Năm 1592, Trịnh Tùng thắng trận quyết định lấy lại kinh đô
Thăng Long và giết chết Mạc Mậu Hợp. Tính ra họ Mạc làm chủ miền Bắc
được 65 năm, sau đó tàn dư kéo lên Cao Bằng nối dài thêm được một số năm
nữa. Có tài liệu cho nhà Mạc kéo dài đến cuối thế kỷ thứ 17, nhưng xét
về thực chất thì sau khi Mạc Kính Khoan thất bại trong cuộc chiến chiếm
lại Thăng Long năm 1623 thì nhà Mạc kể như cáo chung, vị thế người đứng
đầu chỉ là hữu danh vô thực, gần giống như một tù trưởng địa phương mà
thôi. Cuộc chiến Lê-Mạc đã làm suy yếu nội lực của Đại Việt, một quốc
gia cường thịnh lúc bấy giờ trong vùng Đông Nam Á. Những thành tựu kinh
tế – xã hội đạt được thời Lê sơ dưới triều đại các vị anh quân Lê Thái
Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông đều bị chiến tranh làm mai một,
chất lượng cuộc sống bị kéo lùi, nạn đói xảy ra khắp nơi ngay cả tại
vùng lưu vực sông Nhị Hà là vựa lúa lớn nhất Đại Việt thời bấy giờ.
b/. Trịnh – Nguyễn phân tranh :
Việt
Nam sử lược (chương III, trang 274, sđd) viết : ” Năm Kỷ Hợi 1599, đời
vua Thế tông nhà Lê, Trịnh Tùng thu xếp xong việc thông sứ với nhà Minh,
và đã chịu nhường đất Cao Bằng cho con cháu nhà Mạc rồi, trong nước đã
yên dần, bèn tự xưng làm Đô nguyên súy tổng quốc chính Thượng phụ Bình
An vương, rồi định lệ cấp bổng cho vua được thu thuế một ngàn xã gọi là
lộc thượng tiến, cấp cho vua 5000 lính để làm quân túc vệ. Còn những
việc đặt quan, thu thuế, bắt lính, trị dân đều thuộc về quyền họ Trịnh
cả. Chỉ có khi nào thiết triều hay là tiếp sứ thì mới cần đến vua mà
thôi. Từ đó về sau, họ Trịnh cứ thế tập làm vương, tục gọi là chúa Trịnh
…”. Năm 1627, Trịnh Tráng đem quân vào nam đánh Nguyễn Phúc Nguyên
(Chúa Sãi) lần thứ nhất, mở đầu cho cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn.
Trong 45 năm đối đầu, họ Trịnh chủ động vào đánh 6 lần, họ Nguyễn chỉ
đánh ra một lần nhưng đều bất phân thắng bại. Sau trận chiến năm Nhâm Tý
1672, sông Gianh (Linh Giang) được chọn làm ranh giới phân chia Nam
Bắc. Kể từ đó, đất nước bị chia cắt hơn một trăm năm nữa, miền Bắc (Đàng
Ngoài) sống dưới chế độ vua Lê-chúa Trịnh mà vua Lê chỉ là bù nhìn
(13); miền Nam (Đàng Trong) các chúa Nguyễn tiếp tục mở rộng cương vực
Đại Việt đến tận mũi Cà Mau. Năm Giáp Ngọ 1774, nhân nhà Nguyễn có nội
loạn (Tây Sơn khởi binh), họ Trịnh cho tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh lấy đất
Thuận Hóa và Quảng Nam. Đây là lần đánh nhau cuối cùng giữa hai thế lực
Trịnh – Nguyễn. Sông Gianh chấm dứt vai trò lịch sử kể từ đấy.
c/. Phong trào Tây Sơn :
Năm
1765, Võ vương Nguyễn Phúc Khoát từ trần, cường thần Trương Phúc Loan
chuyên quyền đẩy sự nghiệp hai trăm năm chúa Nguyễn vào thế bại vong :
kinh tế yếu kém, lòng dân ly tán, nội bộ chia rẽ. Nhân cơ hội đó, một
hào phú vốn là chức sắc trong bộ máy thu thuế địa phương là Nguyễn Nhạc
(Biện Nhạc) (14) tự xưng “Tây Sơn trại chủ” đã đứng lên tập hợp dân
nghèo dưới lá cờ “cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo” chống lại chính
quyền Đàng Trong. Chỉ trong ba năm , quân khởi nghĩa chiếm trọn một dải
đất từ Quảng Ngãi đến Phú Yên, trở thành một lực lượng đối trọng với
chính quyền Lê-Trịnh ngoài Bắc và họ Nguyễn trong Nam. Bị đánh dồn ép từ
hai phía, Định vương Nguyễn Phúc Thuần bỏ Phú Xuân vào Gia Định tính
chước khôi phục. Năm 1775, tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc thỏa hiệp với
Nguyễn Nhạc rút quân về chiếm đóng Phú Xuân, nhường đất Quảng Nam cho
Tây Sơn cai quản. Tháng ba năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào
Nam bắt giết Định vương ở Long Xuyên và Tân Chính vương ở Bến Tre (15).
Tháng năm năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ tiến chiếm Phú Xuân, thừa
thắng tiến thẳng ra Bắc, giương cờ “Phù Lê diệt Trịnh” truy đuổi và bắt
giết Trịnh Tông, giao lại quyền cai quản xứ Bắc Hà cho dòng chính thống
là vua Lê Chiêu Thống (16).
d/. Đại Việt trước nguy cơ tan rã :
Năm
1786, sau khi chiến thắng quân Trịnh trở về, đất Tây Sơn được chia ba :
Nguyễn Nhạc tự xưng Trung Ương Hoàng đế đóng đô tại Quy Nhơn, phân
phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản hai xứ Quảng Nam và
Thuận Hóa, còn Nguyễn Lữ làm Đông Định vương cai quản toàn bộ đất Gia
Định kể cả Bình Thuận. Mỗi nơi đều có hệ thống chính quyền riêng, độc
lập với hai nơi kia, thậm chí đối địch nhau mặc dù vẫn mang tên gọi
chung là Tây Sơn. Phong trào khởi nghĩa nông dân với chiêu bài ” cướp
của người giàu chia cho dân nghèo” đã đi đến điểm kết thúc với sự thành
lập nhà nước quân chủ phong kiến mới! Chính sự phong kiến hóa quá sớm đó
vô hình chung đã giúp cho chúa Nguyễn có cơ hội trung hưng vì nhờ mảnh
đất của vua Thái Đức làm trái độn, tránh đối đầu trực tiếp với kẻ thù mà
ông chỉ toàn đánh thua. Nếu kể thêm xứ Bắc Hà (An Nam cũ) do vua Lê
Chiêu Thống cai trị thì lúc này bức dư đồ Đại Việt như mảnh áo vá rách
chia làm bốn mảnh : từ Lạng Sơn đến Thanh Hóa thuộc vua Lê, từ Nghệ An
đến Quảng Nam thuộc Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, từ Quảng Ngãi đến Phú Yên
thuộc vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, từ Bình Thuận vào nam là của Đông Định
vương Nguyễn Lữ. Nhiều người thất vọng vì viễn tượng tập đại thành thống
nhất đất nước đã không xảy ra, chẳng những thế ở cả ba miền Bắc Trung
Nam sau đó đều xảy ra chiến tranh dữ dội, cục diện xoay chiều liên tục
giữa các thế lực phong kiến.
Đầu năm 1787, Nguyễn Huệ
đem quân Tây Sơn Thuận Hóa vào bao vây đánh phá kinh thành Quy Nhơn
(17), Nguyễn Lữ phái Đặng Văn Chân (Trân hoặc Trấn) đem quân Tây Sơn Gia
Định về cứu viện bị Nguyễn Huệ đánh tan tại Phú Yên, bản thân Chân bị
bắt sống (18). Thành Quy Nhơn (Đồ Bàn cũ) bị vây, quân Tây Sơn Thuận Hóa
đắp núi đất trên đặt súng lớn bắn vào trong thành, Nguyễn Nhạc phải lên
mặt thành khóc lóc, kêu gọi : ” Nồi da nấu thịt lòng em sao nỡ thế”,
Nguyễn Huệ mới thu quân giảng hòa. Bản Tân (Quảng Nam) trở thành địa
giới giữa Tây Sơn Thuận Hóa và Tây Sơn Quy Nhơn. Nguyên nhân là do bất
đồng giữa hai người trong việc phân chia số chiến lợi phẩm quý giá thu
được trong phủ chúa Trịnh (19), việc tranh giành cai quản đất Quảng Nam
và nhất là việc Nhạc bạo ngược giết công thần Nguyễn Thung, thông dâm
với vợ Nguyễn Huệ khiến ông tức giận mà từ chối lịnh đi chầu (Đại Nam
Liệt truyện, quyển 30, trang 13b, 14a). Từ nay mối rạn nứt giữa hai anh
em Nhạc – Huệ không còn cơ hội hàn gắn nữa mà kéo dài đến tận thế hệ sau
giữa hai anh em chú bác ruột là Nguyễn Bảo và Quang Toản, kết cục Toản
giết chết Bảo cuối năm Mậu Ngọ 1798. Ngay cả khi vua Quang Trung mất
(năm 1792), Quang Toản cũng không cho người bác ruột ra viếng tang,
khiến Nguyễn Nhạc đi đến đầu địa giới phải quay trở lại Quy Nhơn.
Mùa
đông năm Đinh Mùi (1787), sau khi đã giảng hòa với vua anh, Bắc Bình
Vương Nguyễn Huệ sai Vũ văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh mang tội
chuyên quyền, lấy oán báo ơn, mưu đối địch. Chỉnh bị giết chết, vua Lê
bỏ kinh thành trốn tránh trong các hương ấp, nay Hải Dương, mai Sơn Nam
rồi lại trở về Kinh Bắc. Tây Sơn áp đặt chế độ quân chính lên các trấn
xứ Bắc Hà, hoàng thân Lê Duy Cận được cử làm Giám quốc bù nhìn chỉ biết
ngày ngày đến tướng phủ Tây Sơn chờ mệnh lệnh (20). Tháng ba năm Mậu
Thân 1788, Bắc Bình vương lại thân ra Bắc diệt Nhậm (21). Những rối loạn
thay bậc đổi ngôi liên tục diễn ra trong một thời gian ngắn khiến tình
hình Bắc Hà thực sự rối ren, các võ tướng cũ của chúa Trịnh và các hào
mục địa phương nổi lên quy tụ từ vài trăm đến vài ngàn thổ binh tự quản
lấy, phép nước không còn ai tôn trọng. Trong lúc ấy tình hình miền Nam
cũng không hơn gì.
e/. Nguyễn vương Ánh lấy lại Gia Định :
Năm
1786, Nguyễn Lữ được phong làm Đông Định vương, cai quản một vùng đất
trù phú rộng lớn từ Bình Thuận trở vào. Tuy nhiên, lực lượng quân Tây
Sơn đóng trên đất Gia Định giống như một đạo quân chiếm đóng hơn là quân
phò chính diệt tà. Quan hệ giữa quân với dân vẫn giữ khoảng cách nếu
không muốn nói là thù địch. Hệ thống chính quyền quân quản do các võ
quan đứng đầu chỉ quen ra những mệnh lệnh tịch thu, sung công, cấm đoán,
bắt bớ chứ không biết ra những chính sách an dân. Người Thanh Hà (Trấn
Biên) và Minh Hương ở Phiên Trấn vẫn còn nhớ vụ cướp bóc, đốt phá Nông
Nại Đại Phố năm 1777, vụ tàn sát người Hoa để trả thù quân Hòa Nghĩa sau
cái chết của Phạm Ngạn năm 1782 , hoặc vụ quân Tây Sơn tàn sát giáo dân
Ba Giồng do đã chứa chấp chúa Nguyễn năm 1783 (22), gần nhất là vụ ép
dời chợ Bến Nghé về Cầu Sơn cho dễ thu thuế của Nguyễn Lữ (tháng 5 năm
1787). Những vụ “nhập khấu” này làm xấu đi hình ảnh của quân Tây Sơn
trong con mắt của dân Gia Định, nên thực khó mà nhận được sự hậu thuẫn
của người dân. Theo Nguyễn Hữu Hiếu : ” …Mỗi lần đại quân Tây Sơn đánh
vào chỉ tiêu diệt được lực lượng quân sự của Nguyễn Ánh, tàn phá phần
nào cơ sở vật chất (thu gom lúa gạo, đốt phá, tháo dở các công trình lớn
ở cù lao Phố, Chợ Lớn, Mỹ Tho…lấy vật tư chở về Quy Nhơn), chớ chánh
quyền Nguyễn Lữ chưa hề có động thái gì nhằm làm thay đổi cơ cấu xã hội
Gia Định, cơ sở tồn tại và phục hưng của Nguyễn Ánh…nên hễ túng thế thì
Nguyễn Ánh bỏ chạy, nhưng tạm yên thì ông ta lại quay về Gia Định như về
nhà mình vậy …”. (23)
Tóm lại, quân Tây Sơn chỉ biết
“bình” chứ không biết “định”, dù thời gian chiến đóng có ngắn và gián
đoạn nhưng không phải là không có cơ hội tổ chức quản lý lãnh thổ. Phàm
lòng dân không theo thì dù lực lượng quân sự có mạnh đến đâu cũng giống
như cây tầm gửi, rể không bén đất thì làm sao tính kế lâu dài cho được.
Nên cứ mỗi lần quân Tây Sơn chủ lực rút về Quy Nhơn, Nguyễn vương mộ
binh khôi phục thì dân chúng miền Nam vẫn còn nhớ ơn chúa cũ bèn “xứ xứ
tịnh khởi”.
Tháng 7 năm Đinh Mùi (1787), Nguyễn vương
từ Xiêm La trở về, thu phục một số hàng tướng Tây Sơn như Nguyễn văn
Trương, Nguyễn Đăng Vân và tập hợp được một số quân tướng cũ, lực lượng
lại mạnh lên. Từ Long Xuyên, chúa Nguyễn tiến lên đóng ở Ba Giồng (Tiền
Giang ngày nay), lại được Võ Tánh đem quân ở Gò Công về giúp, quân
Nguyễn dùng hỏa công phá tan lũy Ngũ Kiều của Tây Sơn, thừa thắng tiến
lên chiếm lại đất Đồng Nai, vây chặt thành Gia Định. Tháng bảy năm Mậu
Thân 1788, Nguyễn vương đánh thắng một trận lớn ở rạch Thị Nghè (Bến
Nghé), lại bịt kín đường thoát ra biển khiến Phạm văn Tham (Sâm) phải
rút về Hàm Luông rồi về Ba Thắc. Tháng tám năm đó, chúa Nguyễn nhập
thành Gia Định, chiêu an trăm họ, sửa sang phép tắc và phong thưởng cho
các tướng sĩ. Qua năm sau 1789, Phạm văn Tham đầu hàng vì tuyệt lương mà
không thấy viện binh. Tây Sơn mất toàn bộ đất Gia Định. Quân Nguyễn từ
đây chuyển dần từ thế thủ sang thế công còn quân Tây Sơn thì ngược lại.
g/. Nhà Tây Sơn tự gây ra họa diệt vong :
Là
người dân Việt, hầu như không ai là không biết đến chiến thắng Đống Đa
oanh liệt, một chiến thắng chống ngoại xâm giúp giữ vững chủ quyền lãnh
thổ, ngăn ngừa âm mưu đưa đất nước vào vòng Bắc thuộc một lần nữa của
những kẻ đặt quyền lợi cá nhân, sự tồn tại của giòng tộc cao hơn sự
thiêng liêng của độc lập dân tộc. Chiến thắng của hoàng đế Quang Trung
đã đem lại chính danh cho vương triều mới, đẩy triều đại Lê Trịnh mục
ruỗng lùi vào quá khứ và thu phục được lòng dân xứ Bắc. Tiếc thay, cái
chết đột ngột của người anh hùng áo vải đuổi Nguyễn, diệt Lê , tuyệt
Trịnh, đánh tan hai đạo binh xâm lược ở hai đầu đất nước xảy ra quá sớm
đã khiến cho vương triều Tây Sơn sớm lụi tàn vì không có người kế thừa
xứng đáng.
Thiếu người cầm chịch, các quan đại thần
ghen ghét tìm cách vu cáo hãm hại lẫn nhau khiến sức mạnh Tây Sơn bị suy
yếu đi. Thái sư Bùi Đắc Tuyên giẫm lên vết xe đổ của Trương Phúc Loan
năm nào: tự chuyên lộng quyền, truy bức công thần, hiếp chế ấu chúa,
tham lam tư lợi. Năm 1795, Vũ Văn Dũng nghe theo lời xúi giục của Trung
thư lệnh Trần Văn Kỷ đem quân từ Bắc Hà về bắt giết Bùi Đắc Tuyên và con
là Bùi Đắc Trụ. Sau đó lại cho bắt Đại tư mã Ngô văn Sở về Phú Xuân,
dìm nước chết đi. Nghe tin, Trần Quang Diệu đem quân từ Diên Khánh về
toan bắt Dũng hỏi tội. Nhờ Quang Toản và các tướng hết sức can ngăn, cả
hai mới chịu giải hòa. Năm 1798 Quang Toản nghe theo lời xúi giục của
bọn cận thần giết chết Thiếu phó Nguyễn văn Huấn và Đại tư lệ Lê Trung,
con Trung là Lê Chất bèn về hàng chúa Nguyễn. Từ đấy quá trình suy sụp
của Tây Sơn diễn ra nhanh chóng vô phương cứu vãn. Lịch sử đất nước rẽ
sang một chương khác.
h/. Vua Gia Long thống nhất đất nước :
Tháng
năm năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn vương đem quân ra vây thành Quy Nhơn.
Trấn thủ Lê Văn Thanh chống giữ không nổi phải mở cửa thành đầu hàng.
Quy Nhơn bị đổi tên thành Bình Định. Tháng giêng năm Tân Dậu (1801) quân
Nguyễn đánh thắng một trận thủy chiến lớn ở cửa Thị Nại, tiêu diệt gần
hết tàu thuyền chủ lực của Tây Sơn, từ đó làm chủ mặt bể. Ba tháng sau,
quân Nguyễn lại thắng trận thủy chiến ở cửa Thuận An, tiến lên vây đánh
thành Phú Xuân. Vua Tây Sơn Quang Toản bỏ chạy, chúa Nguyễn thu phục lại
được đô thành sau 27 năm bị chiếm đóng. Bấy giờ là ngày mồng 3 tháng 5
năm Tân Dậu (1801).
Tháng giêng năm Nhâm Tuất (1802),
vua Tây Sơn đem quân 4 trấn Bắc Hà và quân Thanh Nghệ vào đánh lũy Trấn
Ninh, lại sai tướng đem 100 chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ (Quảng
Bình ngày nay). Bị thủy quân của chúa Nguyễn đánh bại, quân Tây Sơn phải
rút lên bộ rồi bỏ Trấn Ninh chạy về Nghệ An. Đây cũng là cố gắng tận
lực cuối cùng của vua tôi Quang Toản trước lúc triều Tây Sơn cáo chung.
Tháng năm năm Nhâm Tuất, Nguyễn vương lên ngôi tôn tại Phú Xuân, đặt
niên hiệu là Gia Long nguyên niên. Tháng sáu, quân Nguyễn triều Bắc
tiến, thế như chẻ tre, nội trong một tháng đánh lấy Thanh Nghệ rồi tràn
ra Thăng Long, tướng Tây Sơn là Nguyễn văn Thọ mở cửa thành ra hàng, vua
Gia Long nhập thành chiêu an, đổi tên Thăng Long thành Bắc thành. Tháng
bảy cùng năm, vua Gia Long trở về kinh đô Phú Xuân, mở đầu giai đoạn
thống nhất đất nước từ Nam tới Bắc, thu giang sơn về một mối.
Nhận
xét về sự kiện này, nhà nghiên cứu lịch sử Đỗ Bang đã viết trong tham
luận “Triều Nguyễn-sau 200 năm nhìn lại” (24), xin trích dẫn một đoạn :
“…Một số ý kiến cho rằng triều Nguyễn là phản động vì đã đánh bại triều
Tây Sơn, một triều đại có những cống hiến to lớn trong lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc, lật đổ được chế độ phong kiến cát cứ Đàng
Trong-Đàng Ngoài cũng không đúng. Vì những yếu tố tích cực, tiến bộ của
phong trào Tây Sơn mà nhân dân ta đã giành được dưới thời Nguyễn Huệ đã
không còn phát huy sau ngày vua Quang Trung mất (1792). Triều đại Tây
Sơn dưới thời vua Cảnh Thịnh đã thoái hóa, biến chất, suy đồi dẫn đến
mâu thuẫn nội bộ và mâu thuẫn xã hội vô cùng gay gắt, là nguyên nhân dẫn
đến thất bại trước áp lực quân sự của Nguyễn Ánh. Vương triều Tây Sơn
đã làm mất lòng dân, không được nhân dân đồng tình ủng hộ nên quân
Nguyễn thắng Tây Sơn là việc thường tình và dễ hiểu…”.
Như
vậy kể từ năm 1527 đến năm 1802 là 275 năm chia cắt, đất nước mới trở
lại thống nhất. Năm 1527, lãnh thổ phía nam Đại Việt chỉ đến núi Đá Bia
(Phú Yên). Nếu tính từ đời chúa Nguyễn Hoàng (1558) đến đời chúa Võ
Vương Nguyễn Phúc Khoát (1765), trải 8 đời chúa trong 207 năm đã mở rộng
cương vực Đại Việt lớn gấp đôi; trong lúc đó ở phía Bắc, năm 1540, Mạc
Đăng Dung đã cắt đất 4 động châu Vạn Ninh (Quảng Ninh ngày nay) dâng cho
triều Minh để cầu phong. Công lao to lớn của các chúa Nguyễn trong sự
nghiệp mở rộng đất nước, cũng như công lao thống nhất, quy giang sơn về
một mối của vua Gia Long cho dân Việt yên nghiệp làm ăn, đem lại một
cuộc sống thái bình cho lê dân sĩ thứ sau gần ba trăm năm loạn lạc là
một sự thật không thể chối cãi.
3. THỬ TÌM NGUYÊN DO CỦA NHỮNG ĐỊNH KIẾN CAY NGHIỆT :
a/. Vì sao Thăng Long trở thành phế đô :
Thăng
Long ngàn năm văn hiến, với vai trò vị trí là kinh đô của nước Đại Việt
từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18, niềm tự hào của sĩ phu và dân chúng Bắc Hà,
sự thực đã chấm dứt vai trò lịch sử từ năm 1788 dưới triều Tây Sơn chứ
không phải năm 1802 dưới thời Gia Long, vị vua mở đầu triều Nguyễn như
nhiều người lầm tưởng. Năm 1786, họ Trịnh thất bại trong việc khôi phục
lại địa vị, Trịnh Bồng chạy khỏi kinh thành, Lê Chiêu Thống ngầm cho
người đốt phủ chúa đi. Đám cháy lan khắp hai phần ba kinh thành và cháy
trong mười ngày liền, làm mất đi một quần thể kiến trúc đẹp của Thăng
Long – Hà Nội. Điều này được sách Hoàng Lê nhất thống chí chép như sau: ”
…Sớm hôm sau, hoàng thượng mới biết là Án Đô vương đã trốn đi lúc ban
đêm tức thì ngầm sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy,
khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt. .Thế
là hai trăm lâu đài cung khuyết huy hoàng bỗng chốc đã thành bãi đất
cháy đen. Xa gần nghe thấy tin đó, ai cũng thương chúa và trách vua làm
quá đáng. Hôm ấy nhằm ngày mồng 8 tháng chạp năm Bính Ngọ (1786)…”(25).
Như vậy đã rõ, chính Lê Chiêu Thống là kẻ đã ra lịnh hủy hoại công trình
kiến trúc có giá trị vào loại bậc nhất của Thăng Long chứ không phải
Nguyễn Hữu Chỉnh làm chuyện này như nhiều sách đã viết (26).
Năm
sau 1787, Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Chiêu Thống bỏ
kinh đô bôn tẩu và Thái hậu chạy sang Quảng Tây cầu viện nhà Thanh (27).
Xứ Bắc Hà trở thành một phần lãnh thổ của Tây Sơn và kể từ đây Thăng
Long không còn là kinh đô nữa. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế
Quang Trung tại kinh đô Phú Xuân trước khi Bắc tiến tiêu diệt 29 vạn
quân Thanh. Mười ba năm sau (1802), Nguyễn Vương lên ngôi hoàng đế cũng
tại kinh đô Phú Xuân trước khi Bắc tiến tiêu diệt bọn Quang Toản, hoàn
thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Như vậy chỉ trong một thời gian
ngắn, kinh đô Phú Xuân hai lần chứng kiến hai cuộc lên ngôi chính danh
của hai vị hoàng đế trước khi Bắc phạt , một để đánh đuổi quân xâm lược
ngoại bang, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc, một chấm dứt cuộc nội
chiến, thu giang san về một mối. Trong cả hai lần , Thăng Long đều đóng
vai trò chứng nhân lịch sử một cách thụ động.
Có thể
nói Thăng Long trở thành phế đô là một tất yếu của lịch sử, do sự tác
động chính từ bên trong (sự mục ruỗng thối nát của chế độ Lê-Trịnh) chứ
không phải do một thế lực bên ngoài nào, Tây Sơn chỉ đóng vai trò là
người kết thúc mà thôi. Nếu không phải là Tây Sơn thì cũng là một lực
lượng khác từ phía Nam hoặc từ phía Bắc tiến vào xóa sổ nhà Lê mạt như
lời của Vũ Văn Nhậm (28). Ai ở trong cảnh nước mất nhà tan thì mới hiểu
cho nổi niềm của kẻ nhà tan nước mất, chúng ta hết sức thương cảm cho
tấm lòng trung trinh hoài Lê của Nguyễn Du và Bà Huyện Thanh Quan nhưng
xâu chuổi các sự kiện lại thì Thăng Long sụp đổ là một biến cố rất logic
(!) bởi vượng khí đã lụi tàn. Lòng riêng ai đó có thể vì nuối tiếc mà
sinh lòng oán ghét cái mới nhưng nếu bình tâm xem xét thì Thăng Long lúc
ấy thua xa Phú Xuân và Gia Định về mọi mặt : kinh tế suy thoái, trật tự
suy đốn, đạo lý lụi tàn, dép mũ đảo lộn. Điển hình là việc viên trấn
thủ Kinh Bắc Nguyễn Cảnh Thước trấn lột cả vua Lê Chiêu Thống thế cô
đang trên đường bôn tẩu ” …Vua cho Thước tất cả. Thước liền gọi lái đò
đưa thuyền đến bến, chở nhà vua cùng đám người cùng đi qua sông. Khi vua
đã lên bờ, Thước lại cho người đuổi theo lột chiếc áo ngự bào vua đang
mặc. Vua ứa nước mắt cởi áo ngự bào trao cho chúng, rồi chạy về núi Như
Thiết”(29). Thật khác với vua Gia Long, dù bao phen bị Tây Sơn truy đuổi
gay gắt thập tử nhứt sinh nhưng đều vượt qua được nhờ sự chở che của
người dân miền Nam. Hoặc trường hợp tên tiểu lại làng Hạ Lôi Nguyễn
Trang phản thầy bán chúa: ” Quán nghe tin có việc biến (chúa bị bắt-KH),
thân hành đến tận chỗ chúa, rập đầu xuống đất mà nói : Làm lầm chúa đến
nông nỗi này, là do tội của tôi cả. Tông đáp : người ta ai có bụng nấy,
khanh có can dự gì. Quán lui trở vào, bảo Trang : Chúa là chúa chung
của thiên hạ. Mà ta lại là thầy anh.Vua tôi là nghĩa lớn, sao anh nỡ làm
như thế . Trang đáp : Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu
thân mình, tôi không để cho quan lớn làm cho lầm lỡ đâu. Tiếp đó Trang
bức Quán phải trở về nhà, rồi quát thủ hạ dìu chúa về kinh đô”(30).
Về
mặt võ bị, hãy nghe những lời giễu cợt của tướng Tây Sơn Ngô Văn Sở,
“trưởng ban quân quản” Bắc thành nói với viên quan cựu Lê lưu dụng là
Ngô Thời Nhậm ” …nếu giặc Thanh có sang thì phiền ông làm một bài thơ để
lui quân giặc, nếu không thì túi đao bao kiếm là phận sự của kẻ võ
thần, can gì phải quá lo …”(31) hoặc những lời khích tướng của Nguyễn
Hữu Chỉnh khi khuyên Nguyễn Huệ thừa thắng tiến ra đánh lấy Bắc Hà “xứ
ấy không còn nhân tài” mặc dù hơi miệt thị nhưng cũng có phần sự thật
như sau này lịch sử đã chứng minh (32). Qua đó, chúng ta thấy Thăng Long
không tự bảo vệ được mình, các đạo quân chiếm đóng lần lượt đến rồi đi
như quân Tây Sơn của Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ (1786), quân Nghệ
An của Nguyễn Hữu Chỉnh (1787), quân Tây Sơn của Vũ Văn Nhậm (1787),
quân Thanh xâm lược của Tôn Sĩ Nghị (1788), quân Tây Sơn của vua Quang
Trung (1789) rồi sau này là quân Nguyễn của vua Gia Long (1802) thay
nhau vào ra Thăng Long như chốn không người, một phần bởi địa hình công
dễ thủ khó nhưng phần lớn do tướng bất tài, quân bê trễ, triều đình
không còn kỷ cương.
Xâu chuổi các biến cố lịch sử có
ảnh hưởng đến đại cục đất nước qua ba thế kỷ thứ 16, 17 và 18, ta thấy
luôn luôn xảy ra ở phương Nam, là xuất phát điểm cho những mầm mống mới :
Lê trung hưng (1533), Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa(1558), Tây Sơn khởi
nghĩa (1771), chúa Nguyễn xưng vương (1780), Quang Trung xưng đế (1788)
và cuối cùng là vua Gia Long lên ngôi (1802).Thuở sinh tiền, vua Quang
Trung đã chọn Nghệ An làm kinh đô vì đó là trung tâm của đất nước do ông
cai quản (từ Quảng Nam đến Lạng Sơn) chứ cũng không chọn Thăng Long.
Tiếc thay, vận số quá ngắn ngủi của người anh hùng Tây Sơn khiến dự định
không thành. Hãy nghe lời trối trăng của vua Quang Trung cho bọn Trần
Quang Diệu : “…khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải lo chôn cất,
việc tang làm lao thảo thôi. Bọn ngươi nên cùng nhau giúp Thái tử sớm
thiên đô về Vĩnh Đô để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo
đến thì bọn ngươi chết không có đất chôn thây đấy ..”(33). Nhà sử học Tạ
Chí Đại Trường lý giải việc tại sao Quang Toản không thiên đô như di
mệnh của vua Quang Trung như sau :
” Tính chông chênh
của nhóm Tây Sơn Quang Trung thấy đầu tiên ở nơi vị trí trú đóng. Nòng
cốt của quân lực thì lấy ở đất Quy Nhơn mà lại đứng chân trên kinh đô
của giòng họ Nguyễn. Người cầm đầu cũng thấy điều ấy nên lăm le trở về
Nghệ An, quê của tổ tông để tìm sự liên kết cố cựu. Tuy nhiên thực tế
đất ấy lại không còn là của họ nữa vì những người dân đang phải chịu tai
ách của chiến tranh hơn cả lúc trước, như lời Nguyễn Thiếp trình bày,
thì không có lòng dạ nào nhận bà con với người áp bức họ được. Quang
Toản sau đó vẫn ở Phú Xuân là minh chứng”.(34)
Sau
ngày thống nhất đất nước, vua Gia Long cũng không chọn Thăng Long làm
kinh đô vì nơi ấy không còn là trung tâm Đại Việt nữa. Các chúa Nguyễn
đã mỡ cõi rất xa về phía Nam suốt hai thế kỷ (1611-1760), đến tận Phú
Quốc và Côn Đảo. Định đô ở Phú Xuân là một quyết định sáng suốt, phù hợp
với tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Nhà Thanh sau đó đã phong cho Gia
Long làm vua nước Việt Nam, Thăng Long trở thành Bắc thành, ngang với
Gia Định thành. Huế tiếp tục là kinh đô cho đến khi thực dân Pháp chia
ba đất nước bằng hòa ước Giáp Thân 1884 (Hòa ước Patenôtre). Tóm lại ,
“hào khí Thăng Long” trải qua các đời Lý, Trần, Lê đến cuối thế kỷ XVIII
đã lụi tàn, cùng với việc ra đời của vương triều Nguyễn, kinh thành Huế
(Phú Xuân) trở thành trung tâm đất nước về mọi mặt hành chính, kinh tế,
văn hóa, quân sự là một sự thay đổi hợp quy luật biến đổi thịnh suy của
vạn vật. Không có gì lạ! Hoàn toàn không phải vì “… khiếp nhược trước
phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải
dời vào Huế…”, như lời nhận xét hàm hồ của một số người.
b/.
Thành kiến cục bộ địa phương và quan điểm chính trị của giới Sử học Hà
Nội dẫn đến những nhận xét bất công, áp đặt, cực đoan đối với nhà Nguyễn
:
” …sự thắng thế của Nguyễn Ánh trước
Tây Sơn có thể coi là sự thắng thế của những nhân tố bảo thủ lạc hậu
đối với những yếu tố tiến bộ…” (Nguyễn Ngọc Cơ, “Một giai đoạn của lịch
sử Việt Nam thời Nguyễn và những câu hỏi cần giải đáp thỏa đáng”, Lịch
sử nhà Nguyễn, sđd, trang 14).
” …cái thống nhất của
Gia Long nhờ cắt đất dâng cho thực dân mà có được đã gây mầm chia cắt
đất nước …” (Văn Tạo, “Nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc”, Lịch sử nhà
Nguyễn, sđd, trang 27)
” …một số người nghiên cứu và
giảng dạy lịch sử ở miền Nam thời Mỹ-ngụy đã ra sức ca tụng Nguyễn Ánh
có công thống nhất đất nước từ Nam ra Bắc. Luận điểm này nhằm thực hiện
âm mưu của chính quyền Sài Gòn chủ trương “lấp sông Bến Hải”, ” Bắc
tiến”. Ca tụng Gia Long, phê phán Tây Sơn là “Ngụy triều”, họ đã biện hộ
cho việc chia cắt đất nước, tìm mọi cách kéo dài “biên giới Hoa Kỳ”
không chỉ đến vĩ tuyến 17 mà đến Mục Nam Quan, phục vụ âm mưu chiến lược
của Mỹ dùng Việt Nam làm bàn đạp tấn công Trung Quốc ‘cộng sản”, hòng
xóa bỏ hệ thống chủ nghĩa thế giới …”.(Phan Ngọc Liên, ” Một số yêu cầu
về phương pháp luận đối với việc dạy học lịch sử thời nhà Nguyễn”, Lịch
sử nhà Nguyễn, sđd, trang 59)
Thứ nhất, Nguyễn Ngọc
Cơ đã nhầm lẫn hoặc cố ý nhầm lẫn khi ông đánh tráo khái niệm bảo thủ
lạc hậu và tiến bộ giữa hai chủ thể Tây Sơn và Gia Long. Những năm cuối
thế kỷ 18, vương triều Tây Sơn đã không còn ánh hào quang buổi đầu :
lộng thần Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền, áp chế ấu chúa, vua Quang Toản ích
kỷ nhỏ nhen, đa nghi đố kỵ, giết người bừa bãi, tàn sát công thần, mù
quáng nghe lời nịnh thần dẫn đến nội loạn, trong triều thì rối ren,
ngoài biên cương thì quân tướng hoang mang. Nguyễn Thiếp xin từ chức về
trí sĩ; Nguyễn Bảo, Lê Chất về hàng Nam triều, Trần Quang Diệu và Võ Văn
Dũng mang quân về kinh chực đánh nhau. Thật khác xa với tính chất phong
trào nông dân khi khởi xướng ” cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo”.
Người dân hai miền Nam Bắc trông mong gì ở “yếu tố tiến bộ” ấy ? Trong
khi lực lượng Nguyễn Vương mỗi ngày một lớn lên, thu phục được nhân tâm
cả nước, trong một tháng lấy trọn cả một vùng đất vua Lê cũ. Một đạo
quân nếu không có chính nghĩa sao làm được như vậy ? Sau ngày thống nhất
đất nước, Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh, khống chế lân
bang, trở thành lực đối trọng với Xiêm La trong vùng Đông Nam Á. Đó là
một “nhân tố bảo thủ lạc hậu” ư ? Thực ra, từ thế kỷ 19 trở về trước,
khi một “lực lượng sản xuất” phá vỡ “quan hệ sản xuất” thì lại tạo ra
một “quan hệ sản xuất” mới theo mô hình cũ. Các lãnh tụ nông dân khi
giành được chính quyền từ các vua chúa cũ thì lại …lên làm vua, thành
lập một triều đại phong kiến mới, chứ không hình thành nên một chủ nghĩa
gì cả vì khi ấy ngài Các Mác hãy còn ở truồng nằm nôi. Nhìn một cách
khách quan, việc nhà Tây Sơn Quan Toản suy yếu mọi mặt sụp đổ là có
nguyên nhân từ bên trong, và trong hoàn cảnh đó vua Gia Long chấm dứt
nội chiến, thống nhất đất nước, Đại Việt vững mạnh lên thì không thể nói
đó là một “nhân tố bảo thủ lạc hậu” được.
Thứ hai,
vua Gia Long hoàn toàn không có cắt đất liền hay biển đảo nào cho ngoại
bang (sic!). Hiệp ước Versailles ( 28-11-1787) có các điều khoản nhượng
cảng Hội An ( Đà Nẳng) và Côn Đảo cho Pháp để đổi lấy sự viện trợ về mặt
quân sự của Pháp. Việt Nam Sử lược [Cận kim thời đại, Nhà Nguyễn,
Chương I, Thế Tổ (1802-1819)] viết về sự kiện này như sau: “Năm 1817,
chiếc tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp vào cửa Đà Nẳng. Quan thuyền
trưởng là Bá tước De Kergarion nói rằng Pháp hoàng Louis XVIII sai sang
xin thi hành những điều ước của ông Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường
cửa Đà Nẳng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những
điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến
nữa”.
Thứ ba, việc chia cắt đất nước năm 1954 là một
vết đen trong lịch sử Việt Nam, thể hiện mối tương quan và cân bằng
quyền lực của các xu thế chính trị trên thế giới mà đạo diễn là các nước
lớn, còn vận mệnh của các nước nhỏ chỉ là quân tốt trên bàn cờ. Một
điều rất rõ ràng, dễ hiểu mà lâu nay mọi người quên khuấy mất là hãy xem
lại trong các thư tịch, về phía Việt Nam, ai là người đã ký kết vào các
văn kiện chia cắt tủi hổ ấy. Càng lạ hơn với luận điểm miền Nam muốn
“lấp sông Bến Hải”, “Bắc tiến” bằng bạo lực và “tấn công” Trung quốc
cộng sản, xóa bỏ hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Vương triều Nguyễn
có thể không phải là một vương triều minh trị vua sáng tôi hiền, chính
thể miền Nam cũng chưa làm gì nhiều cho dân vì phải lo đối phó với chiến
tranh, nhưng đừng vì phải tuân thủ quan điểm đường lối chính trị trong
nghiên cứu, giảng dạy hoặc vì mặc cảm thất thế của dân tràng an trong
bối cảnh lịch sử những năm cuối của thế kỷ 18 mà vẽ ra những điều vô căn
cứ, xa rời sự thực như vậy. Đạo đức của người làm sử xưa nay đều không
cho phép các quan thái sử viết như vậy, nhất là các nhà mô phạm với
thiên chức truyền thụ kiến thức cho đời sau. Miền Nam là cái nôi cho nhà
Nguyễn trung hưng phục quốc, càng về phía nam thì lòng dân ủng hộ càng
nhiều, nhưng vẫn đề cao, ghi công chống ngoại xâm cho vị anh hùng dân
tộc Nguyễn Huệ. Con đường đẹp nhất Sài Gòn mang tên Nguyễn Huệ trong khi
Gia Long chỉ là một con đường nhánh khuất phía sau chợ Bến Thành. Đồng
tiền có giá trị cao nhất mang hình ảnh Trần Hưng Đạo, kế đến là vua
Quang Trung và cuối cùng là Lê Văn Duyệt. Không có tiền giấy nào in hình
vua Gia Long cả. Một thái độ công bằng đối với lịch sử. Sự tri ân của
hậu thế đối với tiền nhân.
c/. Lấy “nay” để phê phán “xưa”, một lối biện chứng sai lầm từ trong căn bản :
Tôi
thiết tưởng bất cứ ai trong số chúng ta, thuở cắp sách đến trường, cũng
đều quặn lòng khi đọc đến những trang đen tối trong sử Việt cuối thế kỷ
XIX : chế độ phong kiến lỗi thời với những ông vua bảo thủ và quần thần
mê muội khiến đất nước suy yếu, dễ dàng rơi vào tay thực dân Pháp. Đó
là chiến thắng của khoa học kỹ thuật phương Tây trước nền văn minh
phương Đông đã bước vào giai đoạn suy tàn. Làn sóng chiếm đất làm thuộc
địa của các nước tư bản phương Tây tràn vào châu Á nói chung và Đông Nam
Á nói riêng, khiến hầu hết các nước đều chịu chung số phận : Indonesia (
thuộc địa của Bỉ và Hòa Lan), Ấn Độ, Mã Lai, Diến Điện (Anh),
Philippine (Tây Ban Nha), Macao (Bổ Đào Nha), Việt Nam, Lào, Căm Bốt
(Pháp)…chỉ trừ Thái Lan may mắn thoát khỏi nhờ vị trí địa lý, làm trái
độn giữa hai đế quốc. Hầu như không một nước nào chống lại được sức mạnh
quân sự của phương Tây, do sự chênh lệch về hiệu năng vũ khí quá lớn.
Điển hình là Trung Hoa, một nước lớn làm “mẫu mực” hàng ngàn năm cho các
tiểu quốc trong vùng, bị “bát quốc liên minh” đánh cho tơi tả. Trước
khi phê phán trách nhiệm để mất nước vào tay thực dân Pháp, chúng ta hãy
thử đặt mình vào vị thế của nhà Nguyễn lúc đó, với những hạn chế khách
quan về tương quan quân sự Đông –Tây lúc đó. Những hạn chế tác động đến
đại cục. Dĩ nhiên không thể lấy đó để biện minh cho trách nhiệm của nhà
Nguyễn trước lịch sử. Nhưng cũng không thể vì thành kiến mà đổ vấy hết
tội cho triều Nguyễn, mà phải xét thấu đáo đến những yếu tố khách quan,
chủ quan lúc đó. Đứng ở thế kỷ 21 nhìn về hơn trăm năm trước, dùng thế
giới quan hiện đại mà phê phán nặng lời tiền nhân thì dễ, nhưng nếu tự
đặt mình vào hoàn cảnh đó, hoặc nhìn lại mình hôm nay, có thấy khá hơn
chăng ? Thậm chí những thành tựu trong cải cách kinh tế – xã hội và hành
chánh đều bị xuyên tạc, suy diễn theo hướng có tội, kiểu như ” Mỹ xây
xa lộ Biên Hòa là để cho máy bay …đáp” trước đây, thử điểm lại một vài ý
kiến :
“…cải cách hành chính của vua Minh Mệnh càng
thành công trong việc củng cố vương triều Nguyễn bao nhiêu, lại là củng
cố cái trì trệ, bảo thủ, lạc hậu của phong kiến Nguyễn, phong kiến Tống
Nho sao chép Mãn Thanh đang suy tàn bấy nhiêu. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự bất lực, đầu hàng của triều Nguyễn trước
cuộc xâm lăng của đế quốc thực dân…. (35). Thực ra, cuộc cải cách hành
chánh của vua Minh Mệnh đã củng cố bộ máy nhà nước theo hướng trung ương
tập quyền, tránh được tình trạng phân phong cát cứ vốn là cố tật của
các chế độ phong kiến. Bãi bỏ Bắc thành và Gia Định thành, lãnh thổ Đại
Nam (gần trùng khớp với lãnh thổ Viêt Nam ngày nay ) được chia làm 30
tỉnh (trừ phủ Thừa Thiên) , trực thuộc triều đình, dưới tỉnh là phủ,
huyện và xã. Đây là một cuộc cải cách với quy mô lớn, tăng cường tính
pháp trị của nhà nước phong kiến thống nhất, củng cố chế độ giám sát
toàn bộ nền hành chính quốc gia, là một tiến bộ giúp xã hội ổn định sau
nhiều thế kỷ loạn lạc. Về đại thể mô hình này vẫn còn được áp dụng cho
đến ngày nay, dù trải qua nhiều cải biến như vai trò của người đứng đầu
đơn vị hành chánh xã (xã trưởng) và thôn (lý trưởng) hoặc các Bộ trực
thuộc trung ương (Thượng thư, tham tri tức Bộ trưởng, thứ trưởng bây
giờ) .
“…Họ (lưu dân) ra đi là để tỏ thái độ quyết
chối bỏ chúa Nguyễn, nhưng chạy trời không khỏi nắng, chúa Nguyễn đã
đuổi theo họ, lợi dụng họ như một con bài chính trị và xã hội trong cuộc
tranh giành ảnh hưởng ở phương nam. Nói khác hơn, giữa chúa Nguyễn với
lớp lưu dân Việt đến Thủy Chân Lạp trước thế kỷ XVIII, tuy có cùng một
địa chỉ tập kết nhưng mục đích thì hoàn toàn khác nhau.” (36). Đây là
một trường hợp xuyên tạc lịch sử trắng trợn, điển hình cho lối tư duy
chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa giáo điều, máy móc. Ít nhất trong thời kỳ
của các chúa Nguyễn, quan hệ giữa nhà nước và lưu dân không phải là quan
hệ giữa giai cấp bóc lột và lớp người bị bóc lột. Thử xem lại một đoạn
trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, một Điền tuấn quan
dưới thời chúa Nguyễn: “…nghe theo ý muốn của dân, không bó buộc gì, cốt
cho mở đất vỡ hoang thành ruộng lập xã mà thôi, lại có khi đất bùn lầy
mà trưng làm ruộng nộp thuế, ruộng ở núi và gò giồng mà trưng làm ruộng
cỏ, như thế nhiều lắm. Còn như sào mẫu khoảng thửa, thì tùy theo miệng
nói mà biên vào sổ, cũng không hạ thước đi khám và bổ chia tốt xấu theo
thực trạng về thuế lệ nhiều ít, cái hộc đong lớn nhỏ, thì lại tùy theo
lệ cũ, theo thế mà làm, rất không đều nhau. Đến đây mới tham chước mà
đặt tiêu chuẩn công bằng, nhưng so sánh với các dinh trấn ở phía bắc thì
Gia Định pháp chế rộng mà thuế nhẹ…”, ” …dân ở vùng này đều có thể tự
do đi khai khẩn đất ruộng ở các vùng khác, ai muốn đến ở đâu, khai khẩn
ruộng gò, ruộng thấp ở nơi nào tùy ý. Lựa chọn đất đai rồi chỉ cần khai
báo với nhà cầm quyền là mình trở thành nghiệp chủ của khoảnh đất ấy,
chính quyền cũng không đo đạc lại xem diện tích là bao nhiêu, không cần
biết đất ấy tốt xấu thế nào. Người nghiệp chủ tùy theo điền sản mình
chiếm rộng hẹp mà tự nguyện nộp thuế nhiều hay ít và nộp thuế bằng thóc
dùng hộc già hay hộc non đong cũng được…”.(Trịnh Hoài Đức, Gia Định
thành thông chí, Viện Sử học,Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1980). Hoặc theo
Nguyễn Phúc Nghiệp : “…Như vậy, đến cuối thế kỷ XVIII, nhờ chính sách
khẩn hoang và thiết lập bộ máy hành chính ở cơ sở của chính quyền chúa
Nguyễn, hệ thống thôn ấp ở Tiền Giang đã được hình thành và đi vào ổn
định. Điều đó có tác dụng tích cực trong việc tiếp tục đẩy mạnh tốc độ
khai hoang và phát triển kinh tế-xã hội của Tiền Giang nói riêng và Nam
Bộ nói chung. Đồng thời, nó cũng chứng tỏ rằng lưu dân đã được vào tổ
chức chính thức, đã được công nhận quyền lợi “chiếm đất” và phải có bổn
phận đóng thuế đinh thuế điền…” (37).
…nguyên nhân
quan trọng nhất – có thể nói là chủ yếu – làm cho các đề nghị đổi mới
thời đó thất bại là do thái độ bảo thủ, phản động của vua quan triều
đình, tuy có lúc do tình thế thúc bách nên có chủ trương một vài đổi mới
về các mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục…,nhưng về cơ bản thì trong tư
tưởng, cũng như trong cơ cấu chính trị vẫn không hể thay đổi, nên không
bảo đảm cho việc đổi mới được thực hiện triệt để, trót lọt, thường là
nữa chừng bị bỏ dở…”(38) Quả thật, đứng ở thế kỷ XXI nhìn về hai thế kỷ
trước để phê phán cải cách, đổi mới thời Nguyễn thất bại vì lối tư duy
“Đổi mới khoa học – kỹ thuật nhưng theo định hướng… phong kiến” thì quá
dễ, nhưng hình như bài học này vẫn còn nguyên giá trị cho đến tận ngày
hôm nay, với cục xương khó nuốt : ” Đổi mới kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN”!
KIẾN HÀO MẠN ĐÀM :
Ngày
nay một mặt thì “người ta” xuyên tạc, bóp méo sự thật, đổi trắng thay
đen khiến vương triều Nguyễn từ một vương triều có công mở rộng và thống
nhất đất nước thành một “tập đoàn phong kiến phản động, tối phản động”;
mặt khác thì lại cố công bôi son trét phấn cho Mạc Đăng Dung, một kẻ
quyền thần tiếm ngôi giết vua, hãm hại trung thần; một kẻ cố kết bè
cánh, bảo vệ địa vị bằng mọi giá kể cả cắt đất dâng nộp cho ngoại bang;
một kẻ trói tay khom lưng quỳ gối trước quân tướng giặc phương Bắc hết
sức hèn hạ nhưng sau đó quay ra tích cực “nồi da nấu thịt” khiến đất
nước suy kiệt, nhân dân phiêu tán. Thậm chí còn gọi hành động cắt đất,
bán nước của Đăng Dung là khôn khéo, mềm mỏng (?); một nguyên thủ quốc
gia quỳ gối trước tướng giặc là sự tính toán trong sách lược ứng phó
(!); bỏ quốc hiệu xin nội thuộc nước Tàu là một việc làm tránh chiến
tranh bảo vệ chủ quyền (!) (39). Một trò ngụy tạo chữ nghĩa để tránh né
sự thật, một thủ thuật chơi chữ để biện minh cho hành động của những kẻ
cướp nước và bán nước trước lịch sử và hậu thế. May mắn
thay, Việt Nam vẫn còn những nhà nghiên cứu độc lập tâm huyết với lịch
sử dựng nước và mở nước của cha ông, với những nhận xét đánh giá công
tâm về Vương triều Nguyễn : công tội phân minh. Nếu chỉ chăm chắm nhìn
vào những hạn chế của nhà Nguyễn như cấm đạo hay chính sách bế quan tỏa
cảng hoặc thái độ bảo thủ cố chấp của vua Tự Đức khiến Việt Nam mất đi
cơ hội duy tân, nhất là trách nhiệm của các vua triều Nguyễn trong việc
để mất nước vào tay thực dân Pháp, mà không nhìn thấy công lao của các
chúa và vua nhà Nguyễn trong sự nghiệp mở nước và thống nhất đất nước là
một thiếu sót rất lớn nếu không muốn nói là bất công. Điều này hoàn
toàn đi ngược lại truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt
Nam.
Nhà văn Nam Bộ Hoàng Lại Giang trong bài viết
“Bi kịch của người anh hùng đi mở cõi”, đăng trên tạp chí Xưa và Nay số
294 khi nhắc đến vị anh hùng dân tộc Nguyễn Hoàng đã viết : ” Tôi nghĩ,
chúng ta tôn kính các vua Hùng đã có công dựng nước và dựng đền thờ ở
thành phố Hồ Chí Minh là phải đạo. Nhưng ai dám chắc đây là những vị vua
huyền thoại hay sự thực? Trong khi đó, các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi
gấp đôi như ngày nay là một sự thực lịch sử thì chúng ta lại …quên một
cách có ý thức ).
Để kết thúc, người viết xin trích
một đoạn trong bài ” Nguyễn Hoàng và đất phương Nam” của tác giả Nguyên
Hương Nguyễn Cúc, nói lên tấm lòng tri ân của thế hệ hậu sinh đối với
bậc tiền nhân mở cõi : ” …tôi mơ ước có một ngày được nhìn thấy tại cố
đô Huế Đài kỷ niệm Công chúa Huyền Trân, tại Quy Nhơn Đài Kỷ niệm vua Lê
Thánh Tôn, tại Tuy Hòa Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Hoàng, tại Nha Trang Đài
Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Tần, tại Phan Rang, Phan Thiết, Sài Gòn, Hà
Tiên Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Chu, tại Vĩnh Long Đài Kỷ niệm chúa
Nguyễn Phúc Trú, tại Sa Đéc, Châu Đốc, An Giang Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn
Phúc Khoát v.v… thì tình quê hương nguồn cội, nghĩa dân tộc đồng bào sẽ
thắm thiết cảm động biết bao” ./. (40)
KIẾN HÀO (9-2015)
Ghi chú :
1. Lịch sử Việt Nam, tập I,Ủy Ban Khoa học- xã hội Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội, 1971.
2.
Khuynh hướng chung lâu nay là quy kết cho Trịnh Kiểm tội hãm hại Nguyễn
Uông, chực chờ dịp ra tay “nhổ cỏ tận gốc” Nguyễn Hoàng. Việc Nguyễn
Hoàng xin lánh ra Thuận Hóa là để thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Trịnh
Kiểm, trước tự cứu lấy mình sau mưu đồ lập giang san riêng. Tuy nhiên
cũng có ý kiến (Trần Viết Ngạc, Nguyễn Hoàng 400 năm nhìn lại, Chim Việt
Cành Nam) cho rằng quan hệ giữa Trịnh Kiểm- Nguyễn Hoàng không mâu
thuẩn vì tranh quyền mà vẫn trong chừng mực tin tưởng lẫn nhau. Bằng
chứng là Nguyễn Hoàng hai lần ra Bắc (1569) và (1592) để góp sức diệt
Mạc.
3. Phủ Biên tạp lục, sách đã dẫn, trang 42.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, trang 155
5. CBVNLQ,sđd, trang 144
6. Xứ Đàng Trong- Lịch sử kinh tế và xã hội thế kỷ XVII và XVIII, sđd, trang 114.
7. Lịch sử nội chiến Việt Nam, sđd, trang 361
8.
Xứ Nam Hà thoạt tiên dùng để chỉ vùng đất phía nam sông Gianh, nhưng
sau này khi các chúa Nguyễn khai hoang mở cõi thì Nam Hà gồm cả phần đất
Nam Bộ ngày nay.
9. Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà, sđd, trang 107
10. Việt Nam sử lược, sđd, trang 327
11. Phiên Trấn bao gồm cả Củ Chi và Tây Ninh, còn Trấn Biên gồm cả hai tỉnh Bình Dương, Bình Phước bây giờ.
12. Rơm rạ ơi ta trở về đây- Sài Gòn tiếp thị, Xuân 2008
13.
Truyền thuyết dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện Trịnh Kiểm vấn kế
Nguyễn Bỉnh Khiêm về việc có nên soán ngôi nhà Lê hay không ? Ông Nguyễn
Bỉnh Khiêm không trả lời thẳng mà chỉ ngoảng mặt bảo đầy tớ rằng: năm
nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo
mạ. Nói rồi lại sai đầy tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa và đốt hương để ông
ra chơi chùa, lại bảo tiểu rằng : Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản. Nghe sứ
giả về thuật lại, Trịnh Kiểm hiểu ý nên tìm người trong hoàng tộc họ Lê
để tôn lên làm vua, chấp nhận thân phận “dưới một người trên vạn
người”. Sự thực tấm gương họ Mạc còn sờ sờ ra đó khiến Trịnh Kiểm phải
chờn lòng, hơn nữa lòng dân vẫn còn luyến nhớ công đức Thái Tổ, Thánh
Tông không dễ quên nên dù gì thì tôn phù chính thống vẫn hay hơn là thay
cũ đổi mới. Trong Nam thì Nguyễn Hoàng dần trở thành một lực đối trọng
họ Trịnh, ngoài Bắc thì dư đảng họ Mạc vẫn còn nhiều ở hai trấn Kinh
Bắc, Hải Dương, lại thêm Minh triều vẫn có ý bênh họ Mạc, chưa công nhận
triều Lê trung hưng. Nên Trịnh Kiểm đã khôn ngoan tạm chấp nhận “lùi
một bước, trời cao biển rộng” chứ chưa chắc là vì nghe theo lời khuyên
của Trạng Trình.
14. Nhiều người vẫn bảo lưu ý kiến
cho rằng lãnh tụ phong trào Tây Sơn thuộc giai cấp nông dân. Thực ra
xuất thân của Nguyễn Nhạc là lái buôn, nối nghiệp ông nội là Hồ Phi Tiễn
và cha là Hồ Phi Phúc. Ba đời đi buôn, gia tư khá giả nên trong nhà lúc
nào cũng có nhiều môn khách và gia sư. Trước khởi nghĩa (1771), Nguyễn
Nhạc là một hào mục địa phương. Theo giáo sư Trần Trọng Kim trong Việt
Nam Sử lược, Nguyễn Nhạc phạm tội tiêu lạm công quỹ, một tội bị hình
luật triều Nguyễn xử phạt rất nặng nên cũng giống như Lưu Bang nhà Hán,
Biện Nhạc không còn đường lùi đành đánh cược với số phận. Nhưng cũng có ý
kiến nói Nguyễn Nhạc không nộp thuế không phải vì thua bạc mà vì muốn
tỏ thái độ chống đối chính quyền. ( Tạ Chí Đại Trường, sách đã dẫn,
trang 47)
15. Cả hai vị chúa Nguyễn là Định vương và
Tân Chính vương đều bị Nguyễn Huệ bắt sống đem về chùa Kim Chương (Gia
Định) hành quyết năm 1777. Định vương mất ngày 18 tháng 9 năm Đinh Dậu
(18.10.1777), Tân Chính Dương mất ngày 17 tháng 8 cùng năm (18.9.1777).
Chùa Kim Chương hiện nay không còn, vị trí chùa trước kia ở vào khoảng
giữa đường Nguyễn Trãi thuộc quận 1 Sài Gòn, khu đất thuộc Tổng Nha Cảnh
Sát cũ, thời Pháp gọi là Gò Ô Ma.
16. Lối hành quân
thần tốc và chiến thuật tốc chiến tốc thắng của vua Quang Trung khiến kẻ
địch hầu như tê liệt, không có cơ hội để phản công. Kỷ luật quân Tây
Sơn rất nghiêm, nên dù đối phương đã mất hết ý chí chiến đấu nhưng sức
tiến công vẫn không giảm. Đời sau có người phê phán là quân Tây Sơn
“hiếu sát”, điều đó tuy đúng nhưng phàm đã ra trận đối địch thì luôn
luôn mục tiêu chiến thắng được đưa lên hàng đầu, đó là lẽ đương nhiên.
Điển hình là các trận đánh : thủy chiến Cần Giờ 1783, đại chiến Phú Xuân
1786 và nhất là trận Đầm Mực – Ngọc Hồi 1789.
17.
Cuộc chiến giữa hai anh em Tây Sơn xảy ra từ tháng 2.1787 đến tháng
7.1787. Trong lúc này, vua Lê và Nguyễn Hữu Chỉnh cử mưu sĩ Trần Công
Xán vào Nam yết kiến Nguyễn Huệ đòi lại đất Nghệ An. Sợ lộ việc anh em
bất hòa, Nguyễn Huệ cho đục thuyền, dìm nước giết chết Trần Công Xán và
từ đó đã có ý diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.
18. Nhân vật
Đặng Văn Chân này sẽ xuất hiện trong lịch sử một lần nữa vào năm 1788,
khi ấy là bộ tướng của Ngô Văn Sở, lãnh đạo thủy binh triệt thoái từ
Thăng Long về Tam Điệp ( Ninh Bình) chờ cứu viện.
19.
Toàn bộ vàng bạc và các vật dụng quý giá thu được trong trận đánh chiếm
Phú Xuân năm 1774, Hoàng Ngũ Phúc đều cho tải về Bắc giao nộp Trịnh
Sâm. Mười hai năm sau (1786), vật hoàn cố hương nhưng lần này là trong
tay Tây Sơn. Mười lăm năm sau nữa (1801), họ Nguyễn lấy lại Phú Xuân thì
vật mới về tay chủ. Câu chuyện sủng phi Thị Huệ làm mình làm mẩy với
Trịnh Sâm, quăng hạt ngọc dạ quang trên đầu khăn của chúa Trịnh xuống
đất là có nguồn gốc từ số chiến lợi phẩm này.
20. Mùa
Đông năm Đinh Mùi (1787), Thăng Long mất vào tay quân Tây Sơn, Nguyễn
Hữu Chỉnh bị giết chết, vua Lê bỏ kinh đô bôn tẩu. Xứ Bắc Hà chính thức
do Tây Sơn cai quản. Khi ấy tại miền Nam, chúa Nguyễn đã về đóng quân
tại Long Xuyên kể từ tháng 7 , binh thế ngày càng mạnh. Như vậy về danh
nghĩa thì từ tháng 11 năm Đinh Mùi (1787) đến tháng 8 năm Mậu Thân(1788)
cả nước Việt Nam đều thuộc về ba anh em Tây Sơn nhưng trên thực tế chưa
bao giờ Tây Sơn thực sự thống nhất cai quản toàn bộ đất nước. Tháng 8
năm Mậu Thân 1788, khi chúa Nguyễn nhập thành Gia Định, chế độ Tây Sơn
tại miền Nam chính thức cáo chung.
21. Nguyễn Huệ
không dám mang đại quân ra Bắc vì vẫn còn e dè, đề phòng lực lượng Tây
Sơn Quy Nhơn tiến đánh sau lưng. Ông cũng không dám ở lâu trên đất Bắc,
sau khi giết Nhậm bèn cải tổ sắp xếp lại hệ thống quan chức cai trị các
trấn rồi gấp rút về Nam. Năm 1792 khi ông mất, Nguyễn Nhạc dẫn đoàn tùy
tùng ra viếng nhưng đến đầu địa giới thì bị các tướng Tây Sơn Thuận Hóa
cản lại phải trở về. Năm Quý Sửu 1793, Quy Nhơn bị quân chúa Nguyễn vây
đánh rát quá, liệu thế chống không nổi, Nguyễn Nhạc xin Quang Toản đem
quân Thuận Hóa vào cứu viện. Giải vây xong, Quang Toản chiếm luôn đất
Quy Nhơn của vua bác khiến Nguyễn Nhạc tức giận, lâm bệnh nặng và từ
trần. Quang Toản giài tán triều đình trung ương ở Quy Nhơn, chỉ cho duy
trì “tiểu triều” Nguyễn Bảo (con Nguyễn Nhạc), ăn lộc huyện Phù Ly. Năm
Mậu Ngọ 1798, Nguyễn Bảo bất mãn, đem quân chiếm lại thành Quy Nhơn và
có ý đầu hàng chúa Nguyễn. Âm mưu bị lộ, Bảo bị Quang Toản bức tử.
22. Lê Công Lý, Dấu ấn của chúa Nguyễn trên đất Ba Giồng, kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, sđd, trang 121.
23.
Nguyễn Hữu Hiếu, Tiếp cận những yếu tố giúp Nguyễn Ánh thành công trong
việc xây dựng vương triều Nguyễn, kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn, sđd, trang 82
24. Đỗ Bang, Triều Nguyễn – Sau 200 năm nhìn lại, kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn,sđd, trang 52
25. Hoàng Lê nhất thống chí, sđd, trang 187
26. CBVNLQ, sđd, trang 181
27.
Khi ấy, tổ chức chính quyền và quân sự nhà Lê yếu ớt đến nỗi quân Tây
Sơn đi đến đâu là tan rã đến đó, không thể tổ chức nổi một trận đánh cho
ra hồn, còn bọn quân tam phủ (kiêu binh), một thời làm mưa làm gió đất
kinh kỳ, chỉ nghe phong thanh chiêng trống thúc quân của Tây Sơn là đã
vứt giáo bỏ chạy.
28. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 285
29. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 271
30. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 105
31. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 335
32. Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 94
33. Đại Nam Liệt truyện, sđd, trang 596
34. Lịch sử nội chiến Việt Nam, sđd, trang 393
35.
Văn Tạo, Nhận thức mới về nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam,
trang 663.
36. Lý thị Mai, Đôi điều về một bối cảnh
và một con người, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và Vương triều
Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, trang 125.
37. Nguyễn
Phúc Nghiệp, Sự hình thành thôn ấp ở Tiền Giang dưới thời các vị chúa
Nguyễn, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong
lịch sử Việt Nam, trang 148.
38. Đinh Xuân Lâm,
Trách nhiệm triều Nguyễn về sự thất bại của xu hướng đổi mới ở Việt Nam
cuối thế kỷ XIX, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và Vương triều
Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, trang 312.
39. Hỏi đáp Lịch sử Việt nam, sđd, trang 106
40. CBVNLQ,sđd, trang 151
Tài liệu tham khảo :
Hoàng Lê Nhất thống chí, Nhà xuất bản Văn học, 2006 Đại Nam thực lục, Nhà xuất bản Giáo Dục, 2002 Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học-Xã hội, 2004 Phủ Biên tạp lục, NXB Khoa học, 1964 Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, NXB Tổng hợp TP HCM, 2005 Đại Nam liệt truyện, NXB Thuận Hóa 2006 John Barrow, Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà, NXB Thế Giới, 2011 Lịch sử nội chiến Việt Nam từ 1771-1802, Tạ Chí Đại Trường, Nhà xuất bản Tri Thức, 2012 Lịch sử nhà Nguyễn- một cách tiếp cận mới, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011 Hỏi đáp Lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, 2008 “Xứ Đàng Trong- Lịch sử kinh tế và xã hội thế kỷ XVII và XVIII” của Li Tana, NXB Trẻ 2013 Các bậc vĩ nhân lập quốc trong lịch sử VN (CBVNLQ), NXB Lao Động, 2013
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam – Nhà xuất bản Thế Giới – Hà Nội 2008
Nguồn : Chim Việt Cành Nam
No comments:
Post a Comment