ĐỒI 30 HẠ LÀO - PHẦN 23 & PHẦN 24

Đồi 30 Hạ Lào - Phần 23

Trương Duy Hy

TRỞ LẠI KHE SANH TIẾP TỤC CHIẾN ĐẤU

Mười bảy giờ ngày 15-3-1971, sau khi trình diện Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, tôi tiếp tục nhận thêm 2 đại bác 155 ly với Thiếu Úy Trí, Chuẩn Úy Khánh làm Trung Đội Trưởng. Đồng thời 2 khẩu khác của Pháo Đội A do Thiếu Úy Ba chỉ huy được sát nhập vào Pháo Đội tôi, cuối cùng, Pháo Đội C chúng tôi được đầy đủ 6 khẩu.

Tại Lao Bảo, Ngân được lệnh thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 101 Pháo Binh Cơ Giới 175 ly, giao Trung Đội lại cho Thiếu Úy Châu.

…Kể từ đây, lộ trình di chuyển từ Khe Sanh đến Lao Bảo, tuy không quá 15 cây số, đường rộng, hai bên lộ tương đối ít rậm rạp, đa số các lùm cây được Công binh phát quang trống trãi. Tuy nhiên, Cộng quân lại tăng gia pháo kích ngày càng khủng khiếp. Những quả đạn pháo kích được trải dài giữa đường, do các Tiền Sát viên địch ẩn nấp trên các sườn núi điều chỉnh. Vì vậy, việc tiếp tế đạn dược thật là trở ngại. Thỉnh thoảng, chúng mang cả B40 ra sát lộ trực xạ vào các đoàn xe của ta. Dần dần, vị trí Pháo Binh ở Lao Bảo bị uy hiếp nặng nề cả ngày lẫn đêm.

Thiếu Úy Châu đích thân vào máy báo cáo chi tiết từng phút… những gì xảy ra cho Pháo Đội của tôi tại Lao Bảo giờ đây, cũng không khác những gì đã xảy ra cho chúng tôi như khi còn ở Căn cứ Hỏa Lực 30. Cộng quân xử dụng đủ loại súng: Hỏa tiễn, pháo binh, súng cối 82, và ngay cả loại súng bắn thẳng như B40, 57 ly, 75 ly SKZ không giật trực xạ vào vị trí! Hầm ngủ các khẩu lần lượt bị tung nắp. Hai khẩu đại bác 175 ly của Hoa Kỳ bị hủy diệt tại chỗ.

Tình trạng mỗi lúc một bi đát vì súng hư hỏng, chiến đấu khó khăn. Nhưng tinh thần pháo thủ không hề bị suy giảm. Có lẽ vì anh em đã trải qua một cuộc thử thách cam go đầy nguy hiểm tại Căn cứ Hỏa Lực 30 trước đó không quá 3 tuần!

Đồng thời, hầu hết các tiền trạm của ta, kéo dài từ phi trường chính Khe Sanh đến Bộ Tư Lệnh Dù, Tổng Hành Dinh của Trung Tướng Hoàng-Xuân-Lãm… đều có đạn pháo kích rót đến. Những trận pháo kích này, thật sự không gây thiệt hại gì cho ta và cũng không hề làm cản trở công việc yểm trợ tiếp liệu của Tiền trạm.

Bấy giờ tôi được chỉ thị chiếm đóng vị trí ở bìa bãi đáp trực thăng cạnh Bộ Tư Lệnh Dù. 4 đại bác của tôi chỉ có nhiệm vụ tác xạ theo lệnh Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Dù để bảo vệ các căn cứ quanh vùng. Song, việc tác xạ không còn sôi động như trước, giúp cho chúng tôi có thời gian để bảo trì quân dụng, tu bổ các công sự.

Mãi đến ngày 20 và 23-3-71, các Pháo Đội B từ A Lưới, Pháo Đội A và Pháo Đội tôi từ Lao Bảo lần lượt kéo súng về Khe Sanh. Cuộc triệt thoái của những Pháo Đội này cũng thật cam go, đầy trở ngại khó khăn. Suốt dọc theo lộ trình triệt thoái, Pháo Đội B đã phải nhờ chiến xa kéo súng và chiến đấu với số “Lính Pháo Đánh Bộ” cùng với Lữ Đoàn Dù. Chính các lực lượng này đã vượt “Suối Máu” một cách vất vả, gian khổ nhất. Sau khi đoàn quân triệt thoái từ A Lưới về đến Lao Bảo, Pháo Binh của ta trấn đóng tại đây cũng được lệnh di chuyển theo… Lợi dụng thời gian này, địch gia tăng pháo kích kịch liệt, cố tạo nên trở ngại lớn lao trong kế hoạch của ta, nhưng cuối cùng đoàn quân vẫn hoàn thành nhiệm vụ.

Được quy tụ cả 3 Trung Đội về một chỗ, tôi lại nhận lệnh mới di chuyển vị trí vào gần Bộ Tư Lệnh Dù hơn. Chính nơi đây trong những lúc rỗi rảnh, tôi dành thì giờ để ghi lại những chi tiết cần thiết, bổ túc cho quyển nhật ký dở dang.

Qua hôm sau, Pháo Đội C được xuất phái Bộ Tư Lệnh Dù để tăng phái cho Lữ Đoàn I Đặc Nhiệm của Đại Tá Nguyễn Trọng Luật. Dịp này, tôi hân hạnh được tiếp xúc với Trung Tá Sáu vài lần – nguyên trước kia Trung Tá là Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn I, và nay là Chỉ Huy Phó Lữ Đoàn I Đặc Nhiệm. Vẫn với giọng trầm tĩnh, nụ cười cởi mở, Trung Tá thuật lại nỗi gian truân của toàn Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn lúc chiếm đóng Căn cứ A Lưới, lúc triệt thoái… Trong câu chuyện, thỉnh thoảng Trung Tá cho tôi vài nhận xét về kinh nghiệm chiến trường thật xác thực, cùng vài cảnh tượng thương tâm xảy ra trước mắt Trung Tá…

…Vào một buổi trưa, bỗng Thiếu Tá Liên, Tiểu Đoàn Phó của tôi từ bên ngoài, nhảy vội vào Đài Tác Xạ ôm lấy tôi mừng rỡ! Râu Thiếu Tá mọc dài! Điều mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy! Thôi thì thiếu Tá hàn huyên đủ chuyện – và chính tôi không ngờ, thật tình không ngờ, lúc Căn cứ Hỏa Lực 30 bị nổ tung kho đạn, là lúc Thiếu Tá đang dùng ống nhòm từ Căn cứ A Lưới quan sát, lo lắng cho số phận mong manh của tôi! Thế rồi trong suốt cuộc hành trình cùng các chiến hữu Dù rời bỏ căn cứ, Thiếu Tá đã theo dõi từng phút, để cuối cùng mừng cho Pháo Đội C trở lại Khe Sanh an toàn. Những cảm nghĩ trung thực của Thiếu Tá đối với chiến tích của Pháo Đội C, thể hiện lòng yêu thương đậm đà, mà có lẽ, chỉ có Thiếu Tá, là người ở trong cuộc giằng co từng phút với tử thần mới phát khởi như thế.

Nhờ trở lại Khe Sanh tiếp tục chiến đấu, tôi chứng kiến hàng trăm đồng bào Lào tháp tùng theo các đơn vị thiết giáp vượt biên giới về Việt Nam. Trông họ thật thảm thương! Qua hình thức bên ngoài về cách phục sức: đàn ông đóng khố, đàn bà lượt bượt gói mình trong chiếc “xà-rông” rộng thùng thình, con nít trần truồng… Mỗi người đều có mang sau lưng một cái gùi to tướng, chứa đựng bên trong nào ngô, khoai, nào những vật dụng “không đáng giá” nhưng tối thiết cho đời sống của họ… người sau theo chân kẻ trước, âm thầm bước cạnh các chiến binh của ta.

Bất giác tôi thở dài, liên nghĩ đến những lời tuyên truyền loan đi từ Đài Phát Thanh Hà Nội về sức đề kháng của Nhân Dân Nam Lào đối với cuộc Hành Quân Lam Sơn 719! Tôi không thể và không bao giờ tưởng tượng nổi, dù có cố gắng – cũng không làm sao tin được rằng: những con người Hạ Lào ấy có đủ khả năng xử dụng các chiến cụ, cơ giới tấn công vào chúng tôi, như chúng tôi đã chạm mặt qua các cuộc công đồn của chúng tại Căn cứ Hỏa Lực 30! Thật vậy, không cần phải chú ý mới nhận thấy, thoáng nhìn họ, ta có thể so sánh họ chẳng khác nào dân tộc thiểu số trong dãy Trường Sơn dưới thời kỳ Pháp thuộc!… Hơn thế nữa, tù hàng binh do lực lượng ta bắt được tại trận, toàn là người Việt, nói tiếng Việt thuộc miền Đồng Hới trở ra… Ấy thế mà ngày cũng như đêm, đài Hà Nội không ngượng mồm lải nhải cái gọi là “Tin Chiến Sự” thuật lại những trận đánh khốc liệt trên đất Hạ Lào với giọng điệu cổ võ nhân dân Nam Lào trước thành tích này, thành tích nọ!…

Suy từ đấy, dù có khó tính bao nhiêu, tưởng cũng khó mà xuyên tạc. Nhưng với Cộng sản không có cái gì là chúng không làm được, miễn cái cứu cánh chúng đạt được! Vì lẽ này, luận điệu tuyên truyền bịp bợm của chúng, lại một lần nữa đem ra áp dụng, có gây hoang mang trong hàng ngũ chiến sĩ ta và xảo trá lường gạt dư luận quốc tế! Sự kiện đó là ngón sở trường của nhà nước Cộng sản miền Bắc vậy.

Qua ngày 24-3-1971, BCH/TĐ cùng các Pháo đội Tác Xạ A và B được triệt thoái về Đông Hà. Riêng Pháo Đội tôi vẫn trấn giữ Khe Sanh yểm trợ bao vùng. (

 

Đồi 30 Hạ Lào - Phần 24

Trương Duy Hy

ĐÔNG HÀ NHỮNG NGÀY TẠM TRÚ

Sáng 26-3-1971, tôi thi hành bàn giao nhiệm vụ lại cho Pháo Đội 155 ly cho Đại Úy Khôi thuộc Tiểu Đoàn 48 Pháo Binh đến thay thế. Kế đấy, tôi hướng dẫn Pháo Đội C với đầy đủ 6 đại bác, di chuyển theo các đơn vị tiền trạm.

Khởi hành từ Khe Sanh lúc 14g15, chúng tôi theo sau một đơn vị Pháo Binh phòng không Hoa Kỳ. Đoàn xe rất dài, nối tiếp nhau có đến 10 cây số. Đường đi được Công Binh sửa chữa thêm trong suốt thời gian hành quân nên bây giờ trở nên rộng rãi như xa lộ, và tuy là đường đất không rải nhựa nhưng mặt đường ít lồi lõm. Có điều quanh co và hai bên cạnh đường vẫn còn những vách núi chằng chịt cây rừng, khuất lấp. Chính Cộng quân đã lợi dụng địa thế này, đặt những toán phục kích nhỏ, xử dụng B40 bắn vào đoàn xe của ta.

Sau một tiếng đồng hồ lăn bánh chậm chạp, chúng tôi phải dừng lại để các đơn vị tiền phong chiến đấu với một toán phục kích địch. Khi xe tiếp tục chạy, chúng tôi vượt qua chặng phục kích, nhìn thấy chiếc xe cần trục (wrecker) cháy dở nằm bên vệ đường, cùng một xe jeep với 4 chiến hữu tử thương tại chỗ!

Di chuyển trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, riêng pháo đội tôi liên tiếp thoát khỏi 3 lần phục kích tại 3 địa điểm khác nhau trên lộ trình. Lúc thì địch quân đánh vào đằng trước, giữa hoặc sau đoàn xe, nhưng may mắn, không có lần nào ngay trong đoàn xe của chúng tôi.

Để khích lệ tinh thần anh em, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng dùng trực thăng vần vũ bay theo chúng tôi, liên lạc từng phút với lòng lo lắng cực độ.

Suy nghĩ lại, quả thật Pháo Đội tôi có số đỏ! Đã vinh dự tiền phong vượt biên giới Lào-Việt sau khi Tổng Thống hạ lệnh tấn công và cuối cùng rút về sau rốt đối với các Pháo Đội tác xạ trong Tiểu Đoàn 44 Pháo Binh này!

…18g00, thị trấn Đông Hà hiện ra trước mắt chúng tôi. Từ trên trực thăng, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh cho tôi đưa Pháo Đội vào đóng quân chung trong doanh trại Pháo Hồng của Tiểu Đoàn 48 Pháo Binh. Nơi đây, các Pháo Đội A, B đang tạm chiếm từ hai hôm qua.

Bấy giờ chúng tôi mới cảm thấy nhẹ cả người, mặc dầu thỉnh thoảng địch vẫn pháo kích hỏa tiễn vào phi trường đối diện với chúng tôi không quá 1000 thước, không làm bận tâm cho ai cả!

Tuy nhiên, công việc nhà binh là thế. Hết nhiệm vụ này, lập tức có ngay nhiệm vụ khác. Thôi thì đủ việc để làm, không có lấy một giờ “thất nghiệp”. Chúng tôi bắt tay ngay vào việc tu bổ đại bác, liên lạc Quân Cụ xin cơ phận thay thế, tu bổ quân xa, chuẩn bị “banderoles” duyệt binh, lập phúc trình tổn thất, lập bản đề nghị thăng thưởng cấp bậc, tưởng thưởng huy chương cho các anh em Hạ Sĩ Quan, binh sĩ… cơ hồ không còn đủ giờ để làm hết việc…

Chính lúc này, chúng tôi, những người hiện diện tại đơn vị, được nhận một ít tặng phẩm của Phu Nhân Tổng Thống Thiệu gởi đến. Món quà tuy nhỏ, mỗi người được 5 gói thuốc Ruby Quân tiếp vụ và 1 lọ dầu cù là, nhưng cử chỉ ưu ái này phần nào đã an ủi được lòng các chiến binh xông pha ngoài trận tuyến.

…Chẳng bao lâu, nhờ các Sĩ quan giàu thiện chí và ham việc, Pháo Đội tôi hoàn tất các công tác của Tiểu Đoàn giao phó. Rồi theo lệnh mới, tôi tiếp nhận Trung Úy Vinh làm Sĩ quan tác xạ Pháo Đội thay thế Trung Úy Lân. Vinh là người dong dỏng cao, nước da cháy nắng, là một Sĩ quan gan dạ, đã đi đoạn hậu triệt thoái được 2 khẩu đại bác 155 ly từ A Lưới về Khe Sanh bằng đường bộ, trong đoàn của Đại Úy Vẹn và Trung Úy Phương.

Suốt thời gian từ 27-3 đến 3-4-1971, chúng tôi chỉ quanh quẩn ở cổng trại Pháo Hồng chờ đợi những chỉ thị của Thượng cấp… Anh em đi phép, nhân đấy lần lượt trở về đầy đủ. Chúng tôi tiếp tục cuộc sống bình thường như trước khi đi hành quân.

Vào một buổi tối, tôi tiếp nhận thư của một đồng bào Đại Lộc – lại là người đang kiêm Hiệu Trưởng Trung học Đệ I, Đệ II cấp sở tại – gởi đến. Lời lẽ trong thư đã an ủi cho tôi cùng toàn thể quân nhân Pháo Đội C/44 Pháo Binh rất nhiều.

Ông ấy viết:

Hội An, ngày 16 tháng 3 năm 1971

Anh Hy,

Trong những ngày bận rộn lo thủ tục xuất ngoại tại Sàigòn, tôi thật sự băn khoăn khi nghĩ đến anh và Pháo đội C. Chiến trường Lào với những khó khăn lúc đầu làm tôi không yên tâm. Tôi cố gắng tìm những liên lạc về anh để trả lời câu hỏi hằng ngày của Quý vị Giáo Sư trong trường tôi, của mấy em nam-nữ sinh thơ ngây và thành thật khi chúng hỏi về anh – Vị Sĩ quan trẻ, hào hoa mà chúng mến đậm đà. Tin thất thủ từ Đồi 31 làm tôi thêm bối rối. Tôi thường không say mê tin chiến sự, bỗng dưng tôi thấy quan trọng lạ thường. Tôi tìm đọc tin tức về Lào, nhưng làm sao để biết bây giờ anh ở đâu? Tôi biết chắc là trong Lào Quốc đèo heo hút gió, có lúc anh nghĩ đến trường do anh đỡ đầu – thật là kỳ lạ, chỉ có thể hiểu mà không lý giải được có hàng ngàn người đang chiến đấu tại Lào – Tại sao, ở đây quận Đại Lộc này, từ cụ già đến em học sinh, từ người thứ giả đến thứ dân đều nghĩ đến anh, hỏi về anh, lo cho anh. Đây quả là trường hợp hi hữu. Vì như anh rõ, anh cùng Pháo Đội C chỉ ở đây mấy tháng – Thời gian không đủ để sự cảm mến, những khả tín nơi anh lan tỏa rộng rãi thế này.

Chúng tôi đi ngang qua Cà phê Trâm, ngang nhà Huynh đều bị chận lại hỏi về anh. Trời tháng 2 mà trở lạnh. Chúng tôi ngồi trong văn phòng, nhìn vật kỷ niệm anh tặng, nhìn lên Đồi 37 rồi bất giác thở dài:

“Un seul être vous manque et tout est dépeuplé..” quả đúng như vậy. Sự ra đi của anh và Pháo Đội C để lại một khoảng trống quá lớn tại địa phương này, nhưng với tôi mới là điều quan trọng. Vài đêm ngủ trên đồi anh, tôi không quên được. Có cái gì đó khiến tôi tự nghĩ là “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” với anh, nó có thể là quan niệm sống về những “goût” giống nhau, những cảm nghĩ về cuộc chiến như nhau.

Tôi biết anh không có thì giờ để buồn khi chiến đấu ở Lào. Chính cái điều làm ta băn khoăn là ta ý thức quá rõ về thân phận của ta và tha nhân.

Xông pha trăm trận, chắc anh không quản ngại da ngựa bọc thây, nhưng lo là sau mình, không biết có ai tiếp tục sự nghiệp mà mình phải trả bằng mồ hôi và xương máu? Thú thật với anh, tôi không tin tưởng bao nhiêu ở thế hệ mai sau.

Dù vậy, cả tôi, cả anh, chúng ta sinh ra dưới vì sao lung linh, chúng ta không chịu an nhàn trong vô vi. Chúng ta đủ an tâm thủ phận, nhưng không yên lòng vì hoàn cảnh hiện tại của nước nhà. Tôi cố gắng tạo một triết lý trong tôi khi nghĩ đến nỗi gian lao của anh. Nhưng tôi tầm thường quá, nghĩa là thấy lo lắng ưu tư, vẫn thấy có cái gì chua xót khi nghĩ về anh đang chiến đấu trong cực kỳ thiếu thốn gian nan. Trong tiềm thức ở, từ Sàigòn – không chiến tranh, tôi theo dõi tin tức ở Lào, và thật là huyền diệu, ngày 14-3-1971 tôi tìm được tin anh trên mặt báo Tin Sống.

Anh Hy, tôi thật sự sung sướng khi đọc mẩu tin nhỏ này, tôi tin là đồng bào ở Đại Lộc cũng thế và chắc là nam-ngiáo sư và học sinh trường tôi không còn sống trong lo sợ phập phồng, ít ra là lúc này – ngay khi đọc bài báo ngắn này.

Bây giờ thì có lẽ anh đã trở về bên này biên giới. Tôi hy vọng rất ít, lá thư này sẽ đến tay anh, dù vậy, không viết cho anh tôi không chịu được.

Tôi vừa từ Sàigòn về ngày qua, và ngày mai định đi Đà Nẵng ra thăm chị, lũ cháu để được biết ít nhiều về anh…

Tôi đã trải qua một cuộc thi trắc nghiệm hào hứng và hy vọng nhiều về chuyến xuất ngoại sắp đến. Trước khi được đi, tôi sẽ ghé thăm chị và lũ cháu.

Nắng lên, trường ta bắt đầu những hoạt động rất ngoạn mục. Tôi đã tổ chức được một Chi Đoàn Thanh Niên Hồng Thập Tự và Toán Nghĩa Sinh để làm công tác cứu giúp đồng bào. Cả trường mong tái ngộ anh. Anh cho chúng tôi gởi lời thăm Trung Úy Lân, Thiếu Úy Thiện và tất cả anh em trong Pháo Đội C 44 Pháo Binh. Xin nói giùm với các chiến hữu trong Pháo Đội anh là thầy trò chúng tôi đang chờ các anh từng giờ từng khắc, cầu mong các anh được nhiều may mắn trong sa mạc tử thần.

Thân kính,

PHAN-THẾ-TẬP

Hiệu Trưởng Trung Học Đại Lộc.

 Lá thư khá dài, cả 4 tờ pelure lớn viết bằng tay! Nội cái công ngồi viết cho xong bức thư, đã nói lên được những gì mà Pháo Đội tôi gặt hái được trong lòng dân Đại Lộc trước ngày xuất quân.

Những hoạt động tích cực của pháo thủ Pháo Đội C chúng tôi – khơi nguồn từ thiện tâm, thiện chí, tự nguyện của anh em, dầu sao cũng xoa dịu phần nào, dù là một phần rất bé nhỏ – đối với đồng bào sống trong thảm họa thiên tai bão lụt tại quận Đại Lộc trước đây.

Tôi vô cùng cảm động sau khi đọc xong bức thư trên, và không đợi đến sáng, tôi ra điếm canh, nhờ cái bàn nhỏ ở đấy viết phúc đáp ngay…

Trong thư, tôi thuật sơ lược những gian nan nguy hiểm cùng những chiến thắng vẻ vang thu đoạt được tại Căn cứ Hỏa Lực 30 trong 7 ngày tử thủ, trước khi rời vị trí. Tôi nhờ ông hiệu trưởng chuyển lời thành kính biết ơn của tôi và Pháo Đội C đến đồng bào đã đặc biệt lưu tâm lo lắng cho chúng tôi. Tôi không quên xác nhận rằng, lòng thương mến của đồng bào ở hậu phương là niềm khích lệ lớn lao cho toàn thể quân nhân Pháo Đội C/TĐ44 Pháo Binh chúng tôi.

Qua ngày kế tiếp, tôi nhận được một gói báo do gia đình tôi gởi ra, gồm có các nhật trình Hòa Bình, Ngôn Luận, Tin Sáng, Xây Dựng… mà vợ tôi mua từ mấy tuần trước. Trong đó có đăng những tin tức Pháo Đội C chúng tôi liên quan đến cuộc hành quân tại Căn cứ Hỏa Lực 30… Kèm theo với gói báo, có thư của Thiếu Úy Thiện gởi cho tôi, viết tại Tổng Y Viện Duy Tân:

Bệnh viện, ngày 23 tháng 3 năm 1971

Kính Đại Úy,

Lá thư này đến tay Đại Úy, trước kính thăm Đại Úy, các vị Sĩ quan và anh em binh sĩ Pháo Đội C – cũng không gì hơn – kính chúc Đại Úy và tất cả được an lành, luôn luôn may mắn, dù có hành quân ở bất cứ nơi nào.

Kính Đại Úy, bây giờ tôi cũng khỏe hơn hồi Đại Úy cùng Cô đến thăm tôi nhiều. Tuy nhiên, cái chân bị cưa vẫn còn nhức nhối, khó chịu, nhất là vào buổi tối – một đôi khi cũng rất mệt lúc tiết trời thay đổi, mưa nắng bất thường.

Tôi bị cưa chân như thế này, tuy rất giận ông Bác sĩ nhấp nhem ngoài bệnh viện Nguyễn Tri Phương, nhưng bây giờ tôi cũng đã an phận của tôi rồi – Phần Đại Úy tôi rất lo lắng. Thú thật là tôi rất thương và cảm phục Đại Úy – Đại Úy đã sống thực và tình cảm. Kể ra, tôi sống với Tiểu Đoàn trong thời gian gần hai năm, nhưng chỉ sống với 4 vị Đại Úy Pháo Đội Trưởng, mà Đại Úy là người tôi chịu sống và thích sống nhất. Còn nói về tình cảm mà Đại Úy dành cho tôi thì không thể nào kể cho xiết tôi mang ơn Đại Úy và Cô quá nhiều – Chúa nhật nào Cô cũng dẫn mấy cháu lên thăm tôi kèm theo món quà – Ơn này không biết khi nào tôi mới trả cho xong!

Kính Đại Úy, tôi kính tin Đại Úy rõ: Hôm trước có Hạ Sĩ Phan mới lên giúp đỡ cho tôi, còn trước đó một tuần có Hạ Sĩ Hường lên săn sóc tôi vào buổi sáng.

Đôi dòng kính thăm Đại Úy, các vị Sĩ quan và anh em binh sĩ Pháo Đội C – Lạy Phật gia hộ cho Đại Úy và tất cả được an lành.

Thiếu Úy cụt giò

HUỲNH-CÔNG-THIỆN

 Bây giờ Thiện chỉ còn một chân! Nhưng tôi tin tưởng là Thiện đã hãnh diện với chiến tích của đồng đội gặt hái ở Căn cứ Hỏa Lực 30, những người bạn đã từng chia vui xẻ buồn trong đời quân ngũ của Thiện. Đổi một chân, cá nhân Thiện hẳn bị thiệt thòi, nhưng xác địch hàng ngàn tên quanh căn cứ là một sự trả thù nhãn tiền và hiệu quả của tất cả chúng tôi, những chiến hữu thừa kế sự nghiệp Thiện – làm cho Thiện, ít ra cũng vơi được sự hận lòng khi Thiện nhìn xuống cái chân cụt của mình.

Trước và sau Thiện, còn biết bao chiến hữu mà lòng họ không bao giờ quên được hình ảnh một người bạn, một người anh, một người em trong tập thể gia đình Pháo Đội C, đã sống với nhau qua bao ngày tháng gian khổ, nguy nan… Tất cả điều đó phải là tia nắng sưởi ấm lòng Thiện trong những phút suy tư về kiếp sống tàn phế của mình.

Thiện! Tôi muốn nói, muốn hét to trong không gian bao la này: Thiện luôn luôn vẫn là mẫu người lý tưởng của Pháo Đội C, thể hiện nơi em tất cả những gì cao đẹp nhất, khơi nguồn từ tình đồng đội… sẽ mãi mãi in sâu vào lòng mọi người – trong đó có anh.

…Vào một buổi sáng, tôi nghe Đài Phát Thanh Quân Đội thuật lời phỏng vấn tôi tại Khe Sanh. Ít hôm sau, Đài Tự Do tái phát thanh chương trình ấy vào 4 buổi trưa liên tiếp.

Cùng lúc Đài Phát Thanh Hà Nội cũng lại nói về tôi! Nhưng lại xuyên tạc một cách trắng trợn rằng, Căn cứ Hỏa Lực 30 bị bọn chúng tràn ngập và tôi đã thất lạc 6, 7 ngày trong rừng, nhịn đói, nhịn khát không tìm thấy đường về!… Quả đúng là lời tuyên truyền của Việt cộng! Trong lúc, chính chúng tôi, luôn luôn sát cánh chiến đấu với Tiểu Đoàn 2 Dù, thi hành viên mãn nhiệm vụ của Thượng Cấp giao phó. Vả lại, tôi hiện hữu, tưởng chỉ bấy nhiêu cũng đủ trả lời cho bọn chúng rồi vậy. (Còn tiếp)

No comments: