ĐỒI 30 HẠ LÀO - PHẦN 1 & PHẦN 2

 

Trần Vũ

November 30th, 2020

(Trần Vũ viết phần giới thiệu và đã cất công đánh máy lại tác phẩm này post trên online để nói lên những oai hùng của người lính VNCH.)

 

Đồi 30 Hạ Lào - Phần 1

Ngay sau Tết Tân Hợi 1971 Quân đội Quốc gia hành quân ngoại biên sang Lào. Lam Sơn 719 sẽ là một thất trận ngay cả khi phía Bắc-Việt phải trả giá đắt. Một tháng sau trận đánh, Đại úy Trương Duy Hy, Pháo đội trưởng của Tiểu đoàn 44 Pháo binh ghi lại những gì tận mắt chứng kiến, từ 8 tháng 2 đến 3 tháng 3-1971.

Những trang viết tay của Đại úy Hy cực sống động. Người đọc nhìn thấy các căn cứ Ranger North, Ranger South của Biệt Động Quân lần lượt thất thủ, rồi đến phiên Đồi 31 bị tràn ngập khiến Đại úy Nguyễn Văn Đương phải tự sát. Tiếp đến là những tấn công biển người với thiết giáp PT76 của Bắc quân mà Đại úy Hy đã phải dùng đại bác 155 ly bắn trực xạ để ngăn chận; xen kẽ các pha cận chiến của Nhảy dù.

Tập hồi ký cho người đọc nhìn thấy thêm sự vận hành bên trong của một đơn vị pháo binh VNCH. Cách tổ chức, thiết lập vị trí, cách gọi pháo, check fire và phối hợp giữa nhiều pháo đội cùng một lúc, song song với không yểm Hoa Kỳ. Đặc biệt Đại úy Hy đã không tránh né mà ghi lại sự kiện đã từng bị thổi phồng: vài binh sĩ ôm càng trực thăng rời khỏi Đồi 30 và việc Trung tá Trần Kim Thạch, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Nhảy dù, bỏ đơn vị về Khe Sanh. Tính trung thực không bao gộp duy nhất những điều tồi tệ. Đã có những tấm gương can trường: như Thiếu tá Lê Văn Mạnh, Tiểu đoàn phó, chống trả cho đến phút cuối cùng rồi cùng binh sĩ mở đường máu về được Lao Bảo bằng đường bộ. Chính bản thân Đại úy Hy cũng đã đứng thẳng trên bãi đáp trực thăng, đang hỗn loạn, đễ giữ đội hình và quyết định tháo vải ngụy trang để lộ ba mai vàng giúp phi công nhìn thấy có sĩ quan chỉ huy bên dưới mà đáp xuống. Chỉ là một chi tiết nhỏ, nhưng nói lên phẩm cách của Đại úy Hy. Một giáo chức bị động viên.

Ít tập hồi ký nào sôi động với những khắc khoải lo âu từng giờ như Đồi 30 Hạ Lào. Tôi đọc hồi ký này năm 1973 khi vừa lên trung học mà nhớ mãi những bực tức cùng lo lắng của Đại úy Hy, cả những phản công bằng phóng lựu M79 của binh sĩ quốc gia đẩy bật Cộng quân xuống rào kẽm gai và Đại úy Nguyễn Văn Đương là người bạn thiết mà Đại úy Hy nhắc đến những phút cuối cùng. Khi ấy, phim kịch Người Chết Trở Về của Nhật Trường với ca khúc Anh Không Chết Đâu Em đang phát hằng ngày trên Radio và Tivi. Tôi cố gắng tìm chân dung Đại úy Hy trên Net, nhưng không một tấm hình nào hay văn bản nào cho biết ông còn sống hay mất. Xin phép đại úy Hy cho đánh máy lại, vì giá trị lịch sử của hồi ký và cũng vì sách đã tuyệt bản, không còn tìm thấy ở các nhà sách, cũng không thấy trên mạng.   

“Tôi Tham Chiến Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30 Tại Hạ Lào” nhận Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Phủ Tổng Thống VNCH năm 1972, các chương sẽ được tuần tự đánh máy lại trên tuần san Trẻ từ tuần này. [Trần Vũ]

clip_image002

—oOo—

Trương Duy Hy

THAY LỜI TỰA

Đà-Nẳng, ngày 10 tháng 06 năm 1971

Thân gởi,

Đại Úy Trương Duy Hy, Pháo đội trưởng Pháo đội C/44 PB, tham dự cuộc hành quân Lam-Sơn 719 tại căn cứ hỏa lực 30, Hạ Lào.

Anh Hy thân mến,

Tôi vừa nhận được bản thảo Hồi Ký Chiến Tranh của Anh, nhan đề “Tôi Tham Chiến Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30 tại Hạ Lào”. Anh có nhờ tôi đề tựa. Đáng lẽ Anh phải nhờ một nhà văn nổi tiếng hay một sĩ quan cao cấp làm việc đó, nhưng anh đã nghĩ đến tôi, chắc vì mối tình tri-ngộ giữa chúng ta kể từ hơn 20 năm nay. Do đó tôi viết bức thư không niêm này, thay vì đề tựa chính thức để giải bày cùng anh những cảm nghĩ của riêng tôi sau khi đọc tác phẩm này. Năm, tháng trôi qua thật nhanh, bao nhiêu biến cố dồn dập đến trên dải đất thân yêu của chúng ta, kể từ một phần tư thế kỷ này đã đảo lộn nhiều chế-độ chánh trị, xáo trộn cả bộ mặt xã-hội và nếp sống hàng ngày, cơ hồ có lúc làm đảo lộn tất cả những tình cảm tốt đẹp nhất trong lòng người giữa cơn lốc vật chất quay cuồng dữ dội. Nhưng kỳ diệu thay, mối dây giao hảo giữa chúng ta vẫn không hề bị gián đoạn vì thời cuộc nghiêng ngửa, cũng không hề bị hoen ố vì ảnh hưởng của cuộc nhân-sinh. Giữa Anh và tôi vẫn còn trọn vẹn tình thầy trò thiêng liêng, tình anh em thắm thiết, tình bằng hữu đậm đà. Tôi biết Anh, từ khi Anh hãy còn là một cậu bé 15 tuổi, sớm mồ côi cha, nhưng nhờ ý chí cương quyết, nghị lực vững vàng, anh đã can đảm vượt qua hết mọi trở ngại lớn lao, để tiếp tục việc học đến ngày thành công. Anh đã thi đậu vào lớp Đệ-Thất trường Trung học Phan-Châu-Trinh Đà-Nẳng, năm 1952. Tôi còn nhớ rõ hình ảnh một cậu học sinh  nhỏ bé, ngơ ngác giữa đám bạn bè tinh nghịch. Nhưng Anh đã làm chúng bạn cảm phục ngay vì học lực và tính tình của Anh. Việc học nửa chừng bị gián đoạn vì Anh phải tham dự cuộc Hành quân Atlante vào khoảng 1-1954. Chiến tranh chấm dứt, Anh phải học băng vào lớp Đệ Ngũ, thế mà tháng nào Anh cũng đứng đầu lớp, năm nào Anh cũng nhận phần thưởng danh dự, suốt trong mấy năm Trung học Đệ I và Đệ II cấp, cuối cùng Anh thi đậu Tú Tài Toàn Phần. Hồi đó, các giáo sư ai cũng đều ngợi khen Anh. Nếu Anh được cái may mắn sinh trưởng trong một gia đình giàu có thì chắc sự học còn tiến xa hơn nữa. Trong khoảng từ năm 1958 đến năm 1962, Anh phải đi dạy các trường Trung-Học Công Tư ở Quảng Nam để giúp đỡ gia đình, rồi sau đó phải nhập ngũ. Trong thời gian này, thỉnh thoảng tôi mới gặp Anh, nhưng tôi có nghe đồng bào quận Đại Lộc rất ca tụng Anh trong vụ cứu trợ nạn lụt mùa Đông 1970. Con người Anh thật là tiêu biểu cho dân Quảng Nam: trực tính, ưa tranh luận (Quảng Nam hay cãi…) thích chỉ huy, rất hăng say trong mọi công tác và sẵn sàng phẫn nộ trước cảnh bất công. Xứ Ngũ Phụng Tề Phi với núi sông hùng vĩ, kỳ tú là một vùng đất tượng trưng cho tinh thần quật khởi của một người dân xứ Quảng. Sở dĩ tôi phải nhận xét về con người Anh dông dài – chẳng biết có phạm đến lòng khiêm tốn của Anh không? – thật không phải là để ca tụng Anh đâu, mà chính là để tìm hiểu những cảm nghĩ và hành động của Anh trong những ngày Anh hành quân tại mặt trận Hạ Lào. Bản chất của Anh đã được phô bày khá đầy đủ trong tác phẩm này. Ở đây, tôi không muốn làm công việc phê bình, cũng không dám lạm bàn đến chiến lược, chiến thuật vì điều đó vượt khả năng và sự hiểu biết của tôi. Tôi chỉ muốn trình bày sau đây một vài khía cạnh mang ít nhiều tính chất chính trị và xã hội trong tác phẩm này:

– Anh đừng e ngại Cái Tôi đáng ghét. Cái Tôi trong tập hồi ký này chỉ là Cái Tôi điển hình cho tất cả những chiến sĩ dũng cảm tại Hạ Lào. Cái Tôi của Lân, của Thiện, của những chiến sĩ pháo binh, của Tiểu Đoàn Dù, của Biệt Động Quân… đã chạm mặt Tử-Thần tại mặt trận Hạ Lào nhưng không hề run sợ.

– Trước sự đe dọa của Tử Thần, tình đồng đội thật là thắm thiết hơn bao giờ hết. Bao nhiêu hiềm khích nhỏ nhen trong cuộc sống bình thản thường nhật đã bị tiêu tan trong chiến trận. Trước mặt, chỉ còn có địch quân cần phải tiêu diệt để bảo vệ sự sống của chính mình và của đồng đội.

– Lòng nhân đạo đã được thể hiện, khi chiến trận chấm dứt, trông thấy xác chết ngổn ngang, các thương binh, dù là địch quân, rên xiết trong nỗi đau đớn, khổ sở đều cần được chăm sóc, được an ủi như nhau. Vì nghĩa vụ, con người phải chém giết nhau, thì cũng vì nghĩa vụ, con người phải cứu giúp nhau để xoa dịu những nỗi khổ trong kiếp sống bi thảm này. Anh đã áp dụng đúng đắn lời dạy của triết gia Bersot, mà ngày xưa tôi đã bắt anh dịch ra Việt-văn. Thật ra, những người lính Cộng-Sản Bắc-Việt chỉ là những con tốt thí cho một chủ nghĩa, một mưu đồ. Họ phải chịu chết, chịu khổ sở từ 25 năm nay để phục vụ cho quyền lợi của tầng lớp cán bộ lãnh đạo ở Bắc-Việt, mà họ cứ vẫn tưởng là phục-vụ cho dân-tộc Việt-Nam.

clip_image004

– Đối với quảng đại quần chúng, ai cũng nghe nói đến chiến trận Hạ Lào vô cùng ác liệt, hơn cả những trận Pleime, Benhet, Dakto… hơn cả trận Điện-Biên-Phủ năm xưa. Nhưng không mấy ai ở ngoài cuộc có thể hình dung nổi trận chiến ác liệt như thế nào, nỗi gian-khổ của binh sĩ ta lớn lao đến chừng nào. Tác phẩm này đã vẽ ra một phần không nhỏ cả khung cảnh dữ dội, kinh hoàng của chiến tranh, nhờ đó quần chúng mới hiểu thấu hết tinh thần chiến đấu can trường, sức chịu đựng gian khổ của binh sĩ ta tại Hạ Lào, để biết cảm phục và thương yêu binh sĩ nhiều hơn.

– Tôi không đặt vấn đề thắng hay bại của cuộc hành quân Lam Sơn 719, nhưng quả thật nhờ có cuộc hành quân này mà sự tiếp liệu khổng lồ của Bắc-Việt vào Kampuchia và Nam Việt-Nam đã bị ngưng trệ trong một thời gian, các kho tàng trử vũ khí, thực phẩm, thuốc men, vật liệu của địch quân đã bị hủy diệt một phần lớn, điều này không một ai có thể chối cãi được, và sự hy sinh của binh sĩ ta thật không phải là vô ích. Về mặt chính trị, nhờ có cuộc hành quân này mà cả thế giới đều thấy rõ Bắc Việt đã xâm lăng không chính thức Miền Nam Việt-Nam, bằng đường mòn Hồ-Chí-Minh, một điều mà Bắc-Việt luôn luôn cải chính, đó là một thắng lợi về chính trị thật rõ ràng.

– Tác phẩm này còn được xem như một lằn roi quất mạnh vào mặt những hạng chính khách salon, bơ sữa, những hạng người thối nát trong guồng máy Quốc-gia, những hạng tham nhũng, đầu cơ trục lợi, những dân biểu buôn lậu phản nước, hại dân, những tên tài phiệt đã nhờ chiến tranh mà làm giàu trên xương máu của binh sĩ và đám cùng dân khố rách áo ôm. Các anh em binh sĩ có hô hào phải hy sinh, phải làm cách mạng, phải yêu nước bao giờ đâu? Binh sĩ chỉ biết chiến đấu trong im lặng và chết trong im lặng, không một lời than thở, tiếc nuối. Các binh sĩ chiến đấu tại Hạ Lào là những thiên thần sẽ giẫm nát lũ sâu bọ lên làm người đầy rẫy nơi đây.

– Tác phẩm còn được xem như một liều thuốc hồi sinh đối với bọn thanh niên sống cuộc đời vô lý tưởng, luôn luôn sợ gian khổ, sợ chiến đấu, cố tìm quên lãng và xóa bỏ thực tại bằng một nếp sống sa đọa, trụy lạc. Cố nhiên là nếu họ chịu uống liều thuốc đắng mà bổ ích này.

Anh đã làm tròn nhiệm vụ đối với Tổ-Quốc. Đó là niềm hãnh diện nhất trong đời.

Thân ái chào Anh,

TRẦN-NGỌC-QUẾ.

clip_image006

 

—oOo—

XÁC ĐỊNH MỘT TỌA ĐỘ

 “CÁI TÔI” bao giờ cũng là “CÁI ĐÁNG GHÉT”. Từ xưa đến nay, vì nghĩ đến “CÁI TÔI”, nói đến “CÁI TÔI” mà có nhiều người mang họa – nếu không, cũng là đầu đề cho bạn bè đem ra chế giễu.

Lại nữa, “CÁI TÔI” lúc nào cũng chủ quan. Đã chủ quan thì khó trung thực. BÙI GIÁNG hơn một lần nhận xét “…mắt ta thấy, chưa chắc đã là không lầm, tai ta nghe chưa chắc đã là không lộn…!”. Nhưng khổ nỗi, ở một vài trường hợp “CÁI TÔI” vì điều kiện và ngoại cảnh nào đó an bài cho nó có “MỘT TỌA ĐỘ” – Từ “TỌA ĐỘ” này, nó có một thị trường thích nghi, tuy không nói lên những nhận xét trung thực bởi “chủ quan tính” gắn liền với nó – nhưng ít ra, nó có thể nói lên những gì nó thấy tận mắt, nghe tận tai, ngửi tận mũi.

Vả lại, “CÁI TÔI” trong Hồi ký này còn là điểm tựa, bằng vào đó để có thể trung thực trình bày các điều đã thấy, nghe và ngửi – hẳn độc giả sẽ không hẹp hòi gì mà không tha thứ.

Với ý thức khơi nguồn bởi lòng độ lượng của độc giả “CÁI TÔI” trong Hồi ký tự nhận có bổn phận chân thành thể hiện cảm quan đã thâu thập trong suốt 23 ngày đối diện với Tử-thần ở Hạ Lào. Ngoài ra, CĂN CỨ HỎA LỰC 30, tiền đồn cuối cùng ở phía Bắc Quốc lộ 6, nằm sâu trong nội địa Lào Quốc -kể từ sau ngày 25-2-1971- không phải chỉ có vài người trách nhiệm tử thủ, thì đương nhiên những gì “CÁI TÔI” đã ghi chép tại đây, chắc chắn không thể lọt ra ngoài những cặp mắt phán xét nghiêm khắc của hàng trăm chứng nhân – nếu không là sự thật 100%.

Hơn thế nữa, tôi nghĩ – bây giờ tôi bắt đầu xin dùng chữ “TÔI” – đã là Hồi ký chiến tranh, kẻ cầm bút nếu không trung thực với chính mình, lại cố ý ru cho mọi người chung quanh vào “MÊ HỒN TRẬN NGỤY TẠO”, thiết tưởng đáng hổ thẹn biết bao!

Vì lẽ đó, hôm nay “CÁI TÔI” của tôi chỉ có mỗi một ước vọng, và tất cả cố gắng dồn vào ước vọng này : thật rõ những gì đã xảy ra mà chính mình chứng kiến, chính mình am hiểu từ lúc nhận lệnh tham chiến đến ngày Đại lễ “KHAO QUÂN MỪNG CHIẾN THẮNG LAM SƠN 719” cử hành trọng thể tại cố đô Huế dưới sự chủ tọa của Tổng Thống VNCH NGUYỄN-VĂN-THIỆU.

Phần nhận xét liên hệ đến chiến thuật, chiến lược, tôi xin được miễn phổ cập.

Khe-Sanh, ngày 16 tháng 3 năm 1971.

TRƯƠNG-DUY-HY

(còn tiếp)

Đồi 30 Hạ Lào - Phần 2

Trương Duy Hy

Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Tổng Thống VNCH 1972

NHẬN LỆNH LÊN ĐƯỜNG

Đang chỉ huy một pháo đội ( – ), Pháo đội C thuộc Tiểu Đoàn 44 Pháo Binh, đồn trú tại Đồi 37, ngay sau Quận đường Đại Lộc. Pháo đội tôi có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho Liên Đoàn Biệt Động Quân do Đại Tá Hiệp, Liên Đoàn Trưởng chỉ huy, quần thảo với Cộng quân suốt dọc sông Thu Bồn, bên phần đất Duy Xuyên. Tôi được lệnh chuyển nhiệm vụ sang yểm trợ trực tiếp cho Trung Đoàn 51 Bộ Binh do Đại tá Thục làm Trung Đoàn Trưởng vào khoảng thượng tuần tháng 1-1971. Rạng ngày 25-1-1971, Bộ Chỉ huy Tiểu Đoàn gởi công điện gọi tôi về dự buổi họp quan trọng.

10g30, bước vào phòng họp, tôi thấy hầu hết các Sĩ quan tham mưu, các vị Pháo Đội Trưởng chỉ huy, Pháo Đội Trưởng Tác Xạ A, B đã tề tựu đông đủ chung quanh chiếc bàn hình “Oval” phủ khăn đỏ.

Bắt đầu buổi họp, Thiếu tá Nguyễn-Văn-Tự Tiểu đoàn trưởng với vẻ mặt tươi tỉnh hơn mọi ngày, trịnh trọng tuyên bố : Tiểu Đoàn sắp tham dự một cuộc hành quân đại quy mô, điều động toàn bộ Tiểu Đoàn 44 Pháo Binh tham chiến. Mục tiêu cuộc hành quân là phá hủy hậu cần địch tại Hạ Lào…

Sau cuộc họp, trở về đồi 37, tôi cùng Trung Úy Lê-Văn-Lân Sĩ quan tác xạ pháo đội đặt kế hoạch di chuyển. Tôi không quên đặc ân cho một số quân nhân tốt trong Pháo đội được đi phép ít hôm về ăn Tết với gia đình. Số còn lại, tiếp tục vui Xuân trọn vẹn từ mồng 1 đến cuối ngày 2 Tân Hợi.

Chúng tôi đã ngã 1 bò và 2 heo nhân dịp Tất niên và mừng Xuân mới. Riêng đồng bào, các vị thân-hào nhân-sĩ, các viên chức xã Lộc Hưng, các sĩ quan Hoa-Kỳ mang quà cáp đến chúc “thọ” chúng tôi. Quý vị Hiệu Trưởng, Nam Nữ Giáo Sư, Nam Nữ Sinh trường Trung Học Đệ Nhất, Đệ Nhị cấp Đại Lộc đến tận pháo đội trao cho mỗi pháo thủ một chiếc khăn tay có thêu tên trường, tên lớp, thân tặng, để kỷ niệm những ngày pháo đội công tác tại địa phương này.Sáng mồng 3 Tết, nhằm ngày 29-1-1971, cả Pháo đội thức dậy thật sớm, dọn dẹp những gì còn sót, chất đầy trên 4 xe cargo 2,5 tấn, 4 xe 5 tấn, 2 xe dodge, 3 xe Jeep và 3 móc hậu 1 tấn, đầy nhóc đạn 155 ly.

11g30 chúng tôi di chuyển xuống hướng Phong Thử, rẻ về đồi 55 Đất Sơn đón Trung Đội 1 rồi cùng về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn.

Tại Tiểu đoàn, tất cả 6 đại bác 155 ly của Pháo Đội được xếp hàng sắp ngay trong sân cờ đối diện với văn phòng.

Hôm sau, đúng 17g00 chúng tôi tháp tùng Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đi đoạn hậu, nối tiếp Pháo Đội A di chuyển ra Đông Hà. Đoàn xe chúng tôi vượt qua đèo Hải Vân khoảng 21g00 đêm. Theo chúng tôi, có 1 Chi Đoàn xe bọc sắt giữ nhiệm vụ hộ tống.

Trên lộ trình, tất cả quân xa đều xử dụng đèn pha, vẽ thành những vệt sáng quét ngang dọc sườn núi, chọc thủng màn đêm, tạt ánh sáng xuống các vực thẳm sâu hun hút. Vài trục trặc nhỏ xảy ra do mấy chiếc cargo cũ kỹ khập khà khập khựng rên siết trườn mình trên đường nhựa, làm giảm tốc độ cho cả đoàn xe.

Sau khi đổ đèo cách tỉnh Hải Vân vài cây số, một cargo 5 tấn của Pháo Đội A làm lật khẩu đại bác 155 ly ngay giữa đường, vì qua khúc quẹo quá ngặt. Tấm lá chắn xẻ mặt đường một đoạn ngắn làm bong cả nhựa đá. Bắt buộc tôi phải dừng lại xin toán hộ tống đợi chúng tôi bẫy súng lên để cùng đi – song không được vị Toán Trưởng chấp thuận – tôi đành gọi vô tuyến báo cho Ban 3 Tiểu Đoàn, lúc bấy giờ cách tôi trên 4 cây số. Lật đật, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng quay xe lại giải quyết vấn đề hộ tống. Đồng thời, Thiếu Úy Bá Sĩ quan Quân Xa Tiểu Đoàn cùng với Ban Đệ II cấp cho wrecker tiến lên câu súng trả về vị thế cũ.

Khoảng quá khuya, trời bắt đầu mưa lâm râm. Dưới ánh đèn pha, mặt đường trở nên láng bóng như có ai thoa mỡ. Các tài xế dốc hết tâm trí vào tay lái, cố trấn tỉnh cơn mê ngủ đang rình rập tấn công vào đôi mắt… Càng đi, chúng ta càng vào sâu trong khí hậu lành lạnh, khác hẳn với khí hậu tại Đà Nẳng. Đến 6g00 sáng 31-1-71, đoàn xe dừng lại cách thị trấn Đông Hà 2 cây số.

Tại đây, chúng tôi được tạm trú trên một quảng đồi rộng ở hướng Tây Tiểu Đoàn 48 Pháo Binh.

Trưa ngày 1-2-1971, toàn Tiểu Đoàn di chuyển từ Đông Hà đến Cam Lộ. Khi cách Cam Lộ 4 cây số, lại được lệnh tạm dừng quân ở bên trái đường, trên ngọn đồi thấp. Cùng đồn trú với chúng tôi có một đơn vị thiết giáp thuộc Thiết Đoàn 17. Trong suốt thời gian từ 1-2 đến 6-2-1971, sáng và chiều, Thiếu Tá Tự, Đại Úy Thông luân phiên đi họp để nhận lệnh mới. Nhờ những buổi họp này, chúng tôi được biết: Công binh làm đường, sửa cầu cống trên Quốc lộ 9 nối liền Đông Hà – Khe Sanh chưa xong, nên phải đồn quân mà đợi.

Lợi dụng thời gian nghỉ “xả hơi”, Pháo Đội kiểm kê vật dụng, nhận thêm băng cá nhân phát đầy đủ cho mỗi binh sĩ một cái. Đồng thời tôi cho lệnh Trung Sĩ I Bình mua sắm thêm chén kiểu, đũa, ly phát bổ sung cho tất cả binh sĩ mỗi người một bộ, thay thế những chén bể hoặc do anh em làm mất mát trong lúc di chuyển.

Hạ Sĩ quan Hỏa Thực vẫn hàng ngày đi chợ Đông Hà mua thức ăn cho Pháo Đội. Thỉnh thoảng chúng tôi trẩy về Quảng Trị ngồi cạnh cốc cà phê nóng hổi suy tư một chuyến đi với hy vọng chiến thắng rực rở.

Ngày 4-2-1971, tôi và Trung Úy Lân vào Huế mua thêm những vật dụng cần thiết mang theo.

Chiều 5-2-1971, Đại Úy Công và Đại Úy Thương tìm đến Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn gặp tôi. Đại Úy Công làm việc tại Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn Dù, còn Thương làm Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù. Mục đích cuộc gặp gỡ này không ngoài việc liên lạc với chúng tôi về nhiệm vụ tăng phái Tiểu Đoàn 44 Pháo Binh cho Sư Đoàn Dù, và Pháo Đội C tôi được tăng phái chính thức cho Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù. Đại Úy Thương có tầm vóc mảnh mai, thấp, ăn nói hoạt bát, hiền hậu, rất xứng đáng với cái tên của Đại Úy đã mang. Thương trẻ hơn tôi về tuổi tác và cũng trẻ hơn tôi về khóa học tại trường Võ Khoa Thủ Đức.

Thương trình bày tất cả những gì Pháo Đội tôi phải làm trong những ngày sắp tới, đồng thời Thương giải thích mọi thắc mắc về phương diện tiếp liệu, hành chánh mà Pháo Đội tăng phái thường vấp phải. Thương nói rành rẻ với giọng nhỏ nhẹ dễ mến.

Sau khi Thương ra về, tối đến, một cuộc họp cuối cùng tại BCH/TĐ với mục đích để Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng chỉ thị những điều cần thiết hầu các Pháo Đội căn cứ vào đó thi hành trong suốt cuộc hành quân. Cũng do cuộc họp này, tôi được biết Pháo Đội chúng tôi tăng phái cho Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù do Trung Tá Bùi-Văn-Châu làm Tiểu Đoàn Trưởng.

Sáng ngày 6-2-1971. Từ 1g00 sáng mọi người đều thức dậy, móc súng sắp thành hàng dài, nối đuôi Pháo Đội A…

6g30 đoàn xe bắt đầu lăn bánh.

Chúng tôi di chuyển rất chậm. Trời lại lất phất mưa, đường trơn như láng mỡ. Tài xế vất vả và khó nhọc lắm mới đưa được mấy khẩu đại bác 155 ly qua các dốc, các co nguy hiểm. Ngồi trên xe Jeep, tôi cứ phập phồng lo sợ lật xe, lật súng, rơi nhân viên xuống hố ! Có nhiều đoạn phải xử dụng cần phụ, cài số 1, đi như đưa đám tang, vậy mà xe vẫn chạy theo “ý” xe, chứ không chạy theo chiều lái của tài xế.

16g30 chúng tôi đến Khe Sanh. Kẹt xe, Pháo Đội của chúng tôi phải đợi mất 1 giờ chờ Quân Cảnh Dù dẹp đường. Sau đó, chúng tôi rẽ vào vị trí trú đóng của Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, còn Pháo Đội A, Pháo Đội B cùng BHC/TĐ tiếp tục di chuyển đến Lao Bảo cách Khe Sanh 15 cây số.

Bắt đầu từ đây, Pháo Đội C tôi hoàn toàn tùy thuộc vào sự điều động và xử dụng của Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù.

21g00 Trung Tá Châu mời tôi sang họp tại BCH/TĐ3 Dù. Cuộc họp do Đại Úy Thương thuyết trình.

Trên bản đồ hành quân đã được thiết kế bằng đủ màu sắc, ghi chú đầy đủ các vị trí quân bạn sẽ chiếm đóng, các trục tiến quân sẽ thực hiện kể từ ngày N+8, N+9, N+10…

Tôi rất hoan hỉ và vô cùng phấn khởi khi Đại Úy Thương trình bày về tầm quan trọng của các CĂN CỨ HỎA LỰC. Những nơi này chắc chắn sẽ được dành mọi phương tiện, mọi ưu tiên của không yểm cùng pháo yểm bảo vệ khi gặp nguy hiểm. Thương nhấn mạnh: “Đại Úy đi với chúng tôi – là lực lượng Dù, lực lượng thiện chiến, có quy cũ lắm. Đại Úy yên trí lớn! Tất cả đều có chúng tôi lo cho Đại Úy…”. Thương thao thao bất tuyệt dẫn chứng những sự kiện thật đã xảy ra tại mặt trận Kompong-Cham về phương diện tiếp vận và không yểm quy mô, tối đa, bất chấp mọi thời tiết dành cho đoàn quân viễn chinh của ta.

Cuối cùng, Thương kết luận: “Chúng tôi sẽ giúp đỡ Đại Úy và Pháo Đội của Đại Úy tất cả những gì giúp đỡ được…”.

Niềm tin và lòng phấn khởi ấy được tôi mang về công bố cho các sĩ quan thuộc quyền biết. Trên nét mặt, mọi người đều vui vẻ tin tưởng.

Tôi đưa lệnh hành quân cho Thiếu Úy Huỳnh Công Thiện kẹp vào bản đồ. Giao cho Trung Úy Lân thu xếp mọi vật dụng cần thiết để có thể tách đôi Pháo Đội khi tình hình chiến thuật đòi hỏi. Thiếu Úy Toại kiểm kê đạn dược, Thiếu Úy Ngân cụ bị đầy đủ vật liệu cho Đài Tác Xạ và Trung sĩ nhất (TSI) Bình Thường Vụ Pháo Đội lo liệu vấn đề ẩm thực.

Tại hậu cứ Khe Sanh, TSI Đa lo đạn dược, Trung sĩ (TS) Thế lo tiếp tế, hành chánh và thực phẩm tiếp tế. TS Ngô lo quân xa cùng một số các tài xế. TS Kế, Hạ sĩ (HS) Thiện, Lượt, Sở, Xuân, Cẩn, Ngọ, Bảy, Hứa, Mười, Đạt, Cho, Thục ở lại Khe Sanh giữ nhiệm vụ tu bổ quân xa, tạp dịch trong mọi công tác cần thiết để yểm trợ cho Pháo Đội.

Trong lúc chờ lệnh mới, tôi có dịp đi quan sát quanh vùng trong khoảng không quá vài cây số. TS Thế cho biết trước đây, chính những chỗ này đồng bào sinh sống khá đông, nguồn lợi chính của họ là cà phê, trà. Hồi còn Cậu Cẩn, Khe Sanh là yết hầu của những tay buôn lậu thuốc phiện và vàng từ Lào sang, nên lúc bấy giờ con đường nối dài từ Đông Hà đến Khe Sanh tấp nập người lên xuống. Một vài ngôi vườn hoang có tường, rào vững chắc, bên trong nhà được xây bằng gạch hoặc aglo bị sụp đổ vì bom đạn cày xới, rải rác trong vườn còn một vài xác xe hơi lủng nát của các tay tài phiệt Pháp, chứng tỏ Khe Sanh quả đã có một thời vàng son! Bây giờ, trước mắt tôi khắp đó đây dẫy đầy hố bom. Có nhiều hố nối tiếp, sát nhau, chứng tích của những trận oanh tạc khủng khiếp của Pháo đài bay B52.

Khoảng 16g00 chiều ngày 7-2-71, buổi họp kế tiếp được tổ chức tại BCH/TĐ3 Dù với sự tham dự của tất cả Pháo Đội Trưởng Dù và tôi.

Trong phần trình bày kế hoạch yểm trợ, Thương xác định Pháo Đội C/3 Dù do Trung Úy Trí làm Pháo Đội Trưởng. Nhiệm vụ chúng tôi yểm trợ trực tiếp cho Tiểu Đoàn 2 Dù của Trung Tá Thạch (Tiểu Đoàn này bảo vệ vị trí chúng tôi) và tăng cường hỏa lực cho Pháo Đội C/3 Dù.

Ở điểm này, Trung Tá Châu rất tế nhị. Ông ta tỏ vẻ khó xử trí, vì ngày mai đây, sau khi chiếm đóng tại cùng một vị trí, tôi có cấp bậc cao và thâm niên, trong lúc Trí đang là Trung Úy. Dĩ nhiên về phương diện chỉ huy ở đấy phải là tôi. Nhưng Pháo Đội tôi là một Pháo Đội tăng phái, nếu tôi chỉ huy thì e rằng không quen sự phối hợp hỏa lực, còn nếu để Trí chỉ huy thì kẹt tôi.

Tôi hiểu ý và thâm tâm tôi, tôi thiển nghĩ, cứu cánh của cuộc hành quân phải là sát hại tối đa địch, phá hủy tối đa các kho tàng trử quân trang dụng, bảo vệ hổ tương hiệu quả… còn vấn đề chỉ huy, tưởng cũng không nên đặt nặng làm gì trong lúc này. Nghĩ sao tôi trình bày vậy. Trung Tá Châu hài lòng lối xử sự của tôi. Ấy thế là tôi và Trí bắt tay nhau trong niềm cảm thông chân thành khơi lên bởi tình đồng đội khả ái.

Trong buổi họp, tôi gặp Đại Úy Nguyễn Văn Đương, Pháo Đội Trưởng Pháo Đội B/3 Dù. Dạo này Đương béo phệ, chững chạc như một nhà thầu khoán khác hẳn với thân hình gầy gầy của những năm trước. Đương đi Thủ Đức khóa trước tôi và quen nhau tại Plateau Gi khi Đương còn là một Sĩ quan Délo tại đấy năm 1964.

Lúc bấy giờ tôi được biết, vì Đương cương trực nên vất vả với nghiệp Délo năm canh! Đương chơi cờ tướng khá cao, nhưng tôi chưa được hân hạnh đấu cờ với Đương.

Sau 7, 8 năm xa cách, giờ gặp lại Đương, cả hai chúng tôi bở ngỡ nhìn nhau. Tuy không hề thư từ cho nhau, nhưng chúng tôi không quên nhau, vì mỗi đứa có một nét đặc biệt dễ nhận ra, nhất là những kỷ niệm sau 14 ngày hành quân, đoàn tụ về tại một địa điểm cách xa Konbrai 8 cây số ở hướng Tây Nam, cả hai chúng tôi vất vả xác định điểm đứng giữa rừng le để tìm đường ra lộ lớn về Konbrai!

Đương rất dạn, đã có lần anh gọi pháo binh 155 ly từ Konbrai tác xạ cận phòng cho Đại Đội của anh và Đại Đội tôi quy tụ trên đồi le, với khoảng cách không quá 100 thước và hướng bắn qua đầu. Sau đấy, bọn tôi đi lạc về hướng Nam Konbrai hằng 4, 5 cây số.

Vào phòng họp, Đương ngồi cạnh tôi hàn huyên đủ chuyện.

Anh bóp đầu gối trái tôi và hỏi:

– Sao? Dạo này anh còn bị Rhumatisme hành nữa không?

– Tôi chạy chữa tốn không biết bao nhiêu tiền nhưng bệnh vẫn không hết. Có điều bây giờ đã cởi bỏ được nghiệp Délo, không còn lội bộ nữa nên cũng đở hơn trước nhiều.

…Rời phòng họp, tôi siết chặt tay Đương, tiếc rẻ không được đóng chung một vị trí. Chúng tôi hứa sẽ yểm trợ hổ tương tối đa khi cần.

(còn tiếp)

No comments: