Mũ Xanh
PHẠM TIẾN
(đại đội 23 / K 1/71)
Đã từ lâu tôi có một ước nguyện là trở lại thăm chiến trường xưa của
vùng hỏa tuyến, nơi mà tôi đã tham dự những trận chiến ác liệt nhất
của mùa hè 1972, nhớ lại từng bước chân đi, những tình cảm trong
hoàn cảnh mà cái sống và cái chết gần nhau trong gang tấc, sau đó được
thắp nén nhang cho các đồng đội đã nằm xuống nơi đây vì lý tưởng,
cầm súng chiến đấu để bảo vệ miền Nam tự do trước đây.
Chiếc máy bay Air Bus
A340 rời khỏi phi đạo của phi trường Seattle vào lúc 2 giờ sáng.
trễ mất 1 tiếng đồng hồ. Đáng lý ra chuyến này khởi hành lúc 1 giờ
sáng ngày thứ Tư 28 tháng 2 năm 2007.
Ngồi trên máy bay tâm
trạng của tôi không sao diễn tả được, niềm vui pha lẫn những xót xa
cho cuộc hành trình về thăm lại chiến trường xưa nơi vùng hỏa tuyến.
Vui vì sẽ được đến những nơi mà mình ước muốn, chắc chắn sẽ không
dằn được sự xúc động với hình bóng những người bạn đồng đội xông pha
lằn tên mũi đạn dù thời gian đã hơn 35 năm trôi qua nhưng trong ký
ức vẫn như thuở nào.
Sau 13 giờ trên không
trung, máy bay đáp xuống phi trường Đài Loan. Hành khách về Việt Nam
phải đợi tại phòng khách gần 2 giờ để sau đó lên chiếc máy bay
Airbus 321 của hảng hàng không quốc doanh Việt Nam và rời phi đạo
vào lúc 8 giờ sáng (giờ Đài Loan).
Ngồi trên máy bay quốc
doanh Việt Nam, lòng tôi phập phòng, chẳng chút an tâm, nhưng không
còn cách lựa chọn nào khác nên đàng phó thác cho trời đất. Đang vẩn
vơ suy nghĩ mông lung, chợt có lệnh cho biết phi cơ chuẩn bị đáp
xuống phi trường nội bài Hà Nội. Khi chiếc phi cơ dừng lại, hành
khách thở phào, những ưu tư trên đường bay không còn ám ảnh trong
tâm trí.
Tôi
thuê xe taxi với giá 10 đô la từ phi trường vể khách sạn ở phố cổ.
Tôi ở lại đây 2 ngày, và sau đó mua vé đi “tour” thăm vùng đất, nơi
mà cách đây 36 năm, vào lứa tuổi đôi mươi, trước sự xâm lăng của
Cộng sản, xếp bút nghiên, khoát chinh y, tôi cùng các đồng đội cầm
súng để bảo vệ miền Nam thân yêu. Lần đầu tiên không có kinh nghiệm,
tôi cứ nghĩ rằng đi “tour” với một chiếc xe đại khái như xe bus ở
đây, nhưng người hướng dẫn đã đưa tôi tới một chiếc xe đò từ Hà Nội
vô Đông Hà. Trên xe cũng có mấy người khách ngoại quốc, tôi thầm
nghĩ là Tây ba lô. Xe đò chật chội, ngột ngạt, nên chuyến đi thật
mệt mỏi. Tài xế giăng võng ngủ cả trên xe. Rời Hà Nội lúc 7 giờ tối
và đến Đông Hà 6 giớ sáng ngày hôm sau. Đi vào ban đêm, tôi không
ngắm được hết cảnh vật suốt lộ trình, cơn mệt ru tôi ngũ đến khi
người phụ tài đánh thức tại bến.
Người hướng dẫn du lịch
đợi trước cửa xe, anh ta đưa tôi vào một nhà hàng để dùng điểm tâm
và thưởng thức cà phê
- Tôi tên Cường, phụ trách tuyến du lịch ở Đông Hà., khoảng 8 giờ mới có xe đến rước.
- Tôi tên Cường, phụ trách tuyến du lịch ở Đông Hà., khoảng 8 giờ mới có xe đến rước.
Thị xã Đông Hà so với
thời gian 36 năm về trước có nhiều thay đổi. Nhớ lại khi ra trường
tôi được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên, bổ sung ra hành
quân tạm trú ở tiền trạm trong căn cứ Đông Hà, ngày hôm sau theo xe
tiếp tế đến Cùa. Từ sân bay Mai Lộc, trực thăng chở tới các bộ chỉ
huy tiểu đoàn bảo vệ căn cứ hỏa lực như Holcom, Sarge hoặc đỉnh Bá
Hô. Trong cuộc chiến bảo vệ tự do, thị xã Đông Hà gần vùng phi quân
sự về hướng Bắc, và là điểm tiếp liệu vận chuyển đến Cam Lộ, Mai Lộc
hoặc xa hơn nữa là Khe Sanh. Thị xã có 2 khu phố buôn bán sầm uất,
được gọi là thành phố của lính vì có sự hiện diện các đơn tổng trừ
bị như Dù, TQLC hoặc địa phương như Sư đoàn 1, Sư đoàn 3, Thiết giáp…Sau
ngày cưởng chiếm miền Nam 1975 đến nay, đã 32 năm qua, hai khu phố
trở thành những khách sạn, nhà hàng, buôn bán phục vụ du khách, chủ
nhân toàn là cán bộ, quan chức của nhà nước xã hội chủ nghĩa, chỉ
rất ít người dân cố cựu còn ở thị xã thôi.
Sau một giờ ngồi chờ ở nhà
hàng, tôi bước lên một chiếc xe du lịch loại 25 chổ ngồi trông rất
khang trang. Trên xe hầu như hoàn toàn người ngoại quốc, đa số là
những cựu chiến binh Mỹ đã từng chiến đấu ở Ðông Hà và Khe Sanh
trước 1973. Ðây là tour đi thăm viếng Gio Linh vùng DMZ (vùng Phi
quân sự trước năm 1973), và cầu Hiền Lương, rồi trở về quốc lộ 9,
Khe Sanh, chỉ có tôi là người du khách Việt Nam độc nhất trong cuộc
hành trình này.
Khi xe vừa
lăn bánh trên cầu Ðông Hà, lòng tôi dâng lên một niềm xúc động mãnh
liệt, tại đầu cầu này vào đầu tháng Tư của 35 năm trước, một trung
đội của Tiểu Ðoàn 3 TQLC đã dùng hoả tiển M.72 bắn chận không cho
chiến xa T.54 vượt qua cầu. và Tiểu Ðoàn 3 đã giữ vững thị xã trong
tầm đại pháo 130 mà Cộng sản bố trí ở bờ Bắc sông Bến
Hải.
Cầu Bến
Hải trước năm 1954
|
cầu mới được tu sửa lại |
- Chúng tôi sống vào các
cây cà phê, nhưng làm sao đủ nên phải buôn bán thêm cho những khách
du lịch đi thăm viếng, Cuộc sống chúng tôi rất khổ cực, thiếu thốn
Một người khác hỏi tôi
- Ồ! Ông là người Việt
Nam, sao ông cũng đi tham quan à!
Tôi trả lời
- Tôi đi tìm lại hình ảnh
bạn bè ngày xưa của tôi
Tôi tự nhủ chắc hiếm
người Việt Nam từ hải ngoại về đi tour trên lộ trình này.
Những người bán hàng nói
tiếng Mỹ rất giỏi, một lẽ đơn giản là khách đi tour là khách ngoại
quốc và cựu chiến binh quân đội Đồng Minh trong cuộc chiến chống
cộng sản.
Khi xe tới Khe Sanh, khách du
lịch được đưa vào thăm căn cứ do họ tạo dựng. Thật ra khi tốt nghiệp
mãn khóa tôi không có tham dự ở chiến trường này nên tôi chẳng có
khái niệm hoặc hình ảnh nào về vùng đất ở đây. Họ đã xây một bảo
tàng viện về chiến trường Khe Sanh, cho tu bổ lại những lô cốt, vài
khẩu pháo 105 và 155, một chiếc trực thăng UH1 và một chiếc Chinook
H.46. Sau gần hai giờ quanh quẩn, xe chở tới nhà hàng cách thung
lũng Khe Sanh nửa giờ lái xe để dùng bữa ăn trưa mà du khách phải
trả tiền. Sau đó xe quay trở ngược về Huế.
Xe rời quốc lộ 9 xuôi về Nam
trên quốc lộ 1 , Niềm xúc động dâng lên trong lòng tôi, những hình
ảnh trước kia từ từ hiện ra trước mặt tôi.
- Căn cứ Ái Tử, thấp thoáng
dãy đồi phía xa là căn cứ Phượng Hoàng (Pedro), nơi mà Tiểu Ðoàn 6
Thần Ưng TQLC đã đánh một trận oanh liệt, cũng là nơi Thiếu tá Ðoàn
đức Nghi tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 1 cùng một số Mũ xanh của hai tiểu
đoàn 1 và 6 đã hy sinh.
- Dòng sông Thạch Hản nơi trao
trả tù binh năm 1973, tôi có tham dự cùng với Ðại Bàng Phu Nhân
(189) Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8 TQLC.
- Ðại lộ kinh hoàng, nơi mà
cộng quân đã nã pháo và bắn vào những người dân vô tội chạy tản cư.
Thêm một tội ác ghê tởm của Cộng sản sau vụ giết người tập thể vào
Tết Mậu Thân 1968.
- Cầu Mỹ Chánh năm 1972, thời
gian đó tôi ở Tiểu đoàn 2 mà Tiểu đoàn trưởng là Ðại Bàng Nguyễn
xuân Phúc Robert lửa. và tiểu đoàn 2 đã phá sập cầu khi đơn vị cuối
cùng về bờ Nam. Kể từ lúc đó đây là tuyến phòng thủ cuối cùng.
Trời sập tối, tôi thấy lờ mờ
nhà cửa xây dọc hai bên đường. Dòng sông Mỹ Chánh vẫn trôi lờ lửng
như năm nào, nhưng có ai biết chính dòng sông này 35 năm vể trước,
Ðại Bàng Cao Bằng Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 369 TQLC đã khẳng khái nói
với người cố vấn Hoa Kỳ là chúng tôi không lui đi đâu nữa, và ông
thề rằng không có một Cộng quân nào vượt qua được dòng sông này. Lời
thề đó đã được minh chứng khi hai sư đoản Tổng trừ bị Nhảy Dù và
TQLC qua sông tiến về Quảng Trị và cuối cùng Sư đoàn TQLC đã cắm
ngọn cờ vàng ba sọc đỏ trên cổ thành Ðinh Công Tráng ngày 15 tháng 9
năm 1972.
Trong khi đang hồi tưởng lại
những chiến tích xưa, xe đã tới Huế mà tôi không biết. Xe qua cầu
Trường Tiền đến khách sạn 3 sao do bộ đội kinh doanh. Khách sạn
trông có vẻ tươm tất, sau khi nhận phòng, tôi có nhờ cô tiếp tân
mướn dùm chiếc xe du lịch, tôi dự tính ngày mai sẽ thật sự đi thăm
những nơi mà trước đây 35 năm, tôi đã chiến đấu bên các đồng đội, để
bảo vệ mảnh đất miền Trung khô cằn nghèo khó này
Tôi thăm thành phố Huế về đêm,
dòng sông khang trang, khách sạn và nhà hàng rất nhiều, mục đích cho
khách du lịch. Có những con đò dành cho du khách trên dòng sông
Hương để thưởng thức Ca Trù Huế, Hò Mái Nhì.. trong khung cảnh trăng
thanh gió mát. Những con đò ngày xưa không còn nữa, chánh quyền làm
đẹp bộ mặt của thành phố, nhưng thay vào đó những tệ nạn đầy trên
đường phố, từ cầu Gia Hội tới chợ Ðông Ba, cầu Trường Tiền. Ba mươi
hai năm không còn chiến tranh, người Cộng Sản vẫn chưa tạo được cuộc
sống cơm no, áo ấm cho người dân, những tệ trạng càng tăng làm tôi
có cảm tưởng thành phố Huế hiện nay cuộc sống xô bồ, không còn cái
vẻ Cổ Kính thơ mộng, đáng yêu như trước năm 1975.
(Phần 1) trong chuyến về thăm
lại chiến trường xưa.
PHẦN 2
Mũ Xanh Phạm Tiến
Vì
quá mệt mỏi sau khi đi tour vùng DMZ trở về, và thăm một vòng thành
phố Huế, tôi trở về khách sạn lúc 11 giờ đêm. Tôi ngủ vùi đến khi có
điện thoại
- A lô! Ông Tiến phải không?
Chào Ông. Có xe đang chờ Ông.
.Tôi nhìn ngay vào đồng hồ,
chiều hôm qua tôi đã hẹn xe đến đón vào lúc 8 giờ sáng. Vậy là trễ
gần ba mươi phút. Tôi gọi cô tiếp tân nhờ chuyển lời xin lỗi, nhanh
chóng thu dọn để xuống gặp người chủ xe. và cũng là người sẽ đưa
tôi đi thăm chiến trường xưa.
Người chủ xe khoảng 45 tuổi
cởi mở, khi nghe tôi ngỏ lời xin lổi, anh mĩm cười bảo.
- Không sao anh ạ! Cứ từ từ
cũng được.
Hơi lo xa,
tôi đề nghị
- Nhờ anh
đưa tôi tới quán bún bò Huế thật ngon
Anh chở tôi đến quán bún bò huế ở
cầu Gia Hội. Trước năm 1975 ở nơi này có quán nấu rất ngon, không có
bảng hiệu nên anh em chúng ta chỉ gọi là quán bún bò cầu Gia Hội
thôi. Có lẽ là quán này chăng? Bây giờ là khoảng 9 giờ sáng, quán
chỉ có mấy cái bàn, khách ngồi gần hết, có mấy nữ du khách (Tây ba
lô) đang húp nước sùm sụp. Anh tài xế giải thích
- Ở Huế,
muốn ăn bún bò buổi sáng thì nơi đây, còn về đêm tới một chổ khác
rất là ngon.
Bản tính lo
xa và cũng vì không am tường sinh hoạt tại các địa phương mà tôi sẽ
đến, tôi nhờ anh chủ xe mua dùm mấy chai nước, mấy bịch mè xửng cùng
mấy ổ bánh mì, nếu có gì bất trắc cũng không bị cái bao tử càm ràm.
Xe chạy dọc
theo sông Hương rồi quẹo phải ra Quảng Trị và dừng xe khi tới khu An
Hòa.
Sau Hiệp Định Ba Lê 1973, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến phát động phong trào thể dục thể thao, Tiểu đoàn 8 Ó Biển của Đại Bàng Phu Nhân, là người hâm mộ môn túc cầu nên Phu Nhân đã thành lập đội bóng tròn để đi đá banh giao hữu với các tiểu đoàn khác trong sư đoàn. Là người đất Thần Kinh Phu Nhân cũng đưa đi tranh tài với các đội bóng của thành phố Huế.
Sau Hiệp Định Ba Lê 1973, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến phát động phong trào thể dục thể thao, Tiểu đoàn 8 Ó Biển của Đại Bàng Phu Nhân, là người hâm mộ môn túc cầu nên Phu Nhân đã thành lập đội bóng tròn để đi đá banh giao hữu với các tiểu đoàn khác trong sư đoàn. Là người đất Thần Kinh Phu Nhân cũng đưa đi tranh tài với các đội bóng của thành phố Huế.
Cách đây hơn 32
năm về trước, đội bóng Ó Biển thi tài với đội Thanh Niên An Hòa.
Nhìn lại sân banh, những hình ảnh hiện lên trong ký ức tôi từ từ như
một cuộn phim quay chậm,
tưởng như
mới ngày hôm qua, sân bóng tròn vẫn còn đó, nhưng mỗi bên góc sân là
một đống rác rất to, hai khung gỗ xiêu vẹo.
- Nguyện ơi! Tương ơi! Mè ơi! Ba Gà ơi! Tài y tá ơi! Đại bàng Phu Nhân ơi! chắc vẫn còn nhớ sân đá banh này.
- Nguyện ơi! Tương ơi! Mè ơi! Ba Gà ơi! Tài y tá ơi! Đại bàng Phu Nhân ơi! chắc vẫn còn nhớ sân đá banh này.
Xe rời An
Hòa và tiếp tục đi về hướng Bắc. Xe qua cầu An Lổ, ngã ba đi Sịa,
Phong Điền, cứ mỗi địa danh là lòng tôi bồi hồi, xúc động. Tôi dừng
lại ở Mỹ Chánh.
Nhà cửa cất dọc theo hai bên quốc lộ 1, một vài bảng quảng cáo của công ty liên doanh xen lẫn nhiều bảng với khẩu hiệu như “Toàn dân hãy triệt để thi hành luật pháp nhà nước” nhưng người dân bảo rằng “ Toàn Đảng phải thi hành luật pháp nhà nước” mới là đúng. Tôi bước xuống xe với lòng trĩu nặng những cảm xúc của năm 1972, vùng trách nhiệm của tiểu đoàn 2 TQLC. Thời gian này tôi ở đại đội 5 mà trung úy Huỳnh văn Trọn làm đại đội trưởng, lúc đơn vị đến thì chỉ còn những căn nhà bỏ trống, người dân đã di tản vô Huế khi Quảng Trị thất thủ. Đường vào chợ Mỹ Chánh là hai dãy nhà lợp lá, xen lẫn những mái nhà lợp tole mỏng, nơi này một trung đội của đại đội 4, tiểu đoàn 2 TQLC bị một chiếc phản lực cơ đánh bom lầm, Trung tá Nguyễn xuân Phúc phản ứng nhanh chóng, kịp thời hướng dẫn người phi công oanh kích vào mục tiêu bên kia bờ Bắc sông Mỹ Chánh.
Nhà cửa cất dọc theo hai bên quốc lộ 1, một vài bảng quảng cáo của công ty liên doanh xen lẫn nhiều bảng với khẩu hiệu như “Toàn dân hãy triệt để thi hành luật pháp nhà nước” nhưng người dân bảo rằng “ Toàn Đảng phải thi hành luật pháp nhà nước” mới là đúng. Tôi bước xuống xe với lòng trĩu nặng những cảm xúc của năm 1972, vùng trách nhiệm của tiểu đoàn 2 TQLC. Thời gian này tôi ở đại đội 5 mà trung úy Huỳnh văn Trọn làm đại đội trưởng, lúc đơn vị đến thì chỉ còn những căn nhà bỏ trống, người dân đã di tản vô Huế khi Quảng Trị thất thủ. Đường vào chợ Mỹ Chánh là hai dãy nhà lợp lá, xen lẫn những mái nhà lợp tole mỏng, nơi này một trung đội của đại đội 4, tiểu đoàn 2 TQLC bị một chiếc phản lực cơ đánh bom lầm, Trung tá Nguyễn xuân Phúc phản ứng nhanh chóng, kịp thời hướng dẫn người phi công oanh kích vào mục tiêu bên kia bờ Bắc sông Mỹ Chánh.
Ba mươi năm trôi qua với những
thay đổi, nhưng dòng sông Mỹ Chánh vẫn lặng lẽ chảy êm đềm. Ngay đây
có một cái miếu thờ nhỏ, tôi thắp nén nhang cho các bạn đồng đội,
các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cùng những người dân vô tội
chạy nạn bị cộng quân sát hại trên vùng đất này. Bờ Nam sông Mỹ
Chánh lúc đó là vùng đất tự do, nên bất cứ giá nào người dân cũng
phải vượt thoát qua dòng sông này
Một con sông tên gọi hiền hòa, thơ mộng, nhưng năm 1972 sông Mỹ Chánh đã đi vào lịch sử đôi khi có vẻ huyền thoại với một Lữ Đoàn 369 TQLC đã giữ vửng phòng tuyến mà trước mặt là hai sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt cùng chiến xa với quyết tâm tiến vào Huế.
Sau khi tưởng niệm các vong linh, tôi dạo một vòng chợ Mỹ Chánh, nhà cửa có xây thêm và sửa sang lại, tôi cố tìm lại tuyến đóng quân của trung đội , nhưng thật sự tôi không nhận ra, chỉ mường tượng đại đội 5 trách nhiệm hướng Đông quốc lộ 1, còn toàn bộ tiểu đoàn phòng thủ bên hướng Tây. Hầu như ngày nào địch quân cũng pháo kích và cho bộ binh vượt sông để tràn qua, nhưng chúng đều thất bại trước những tay súng của tiểu đoàn Trâu Điên.
Tôi bước lên cầu Mỹ Chánh được xây lại dõi mắt nhìn bao quát, dòng sông lờ lững trôi như máu lưu thông trong huyết quản, bỗng tim chợt co thắt khi phải giả từ vùng đất mà hơn một phần ba thế kỷ, các đồng đội, chiến hữu QLVNCH và dân chúng hy sinh vì hai chử Tự Do. Tôi thắp thêm nén hương thơm để tưởng niệm, rồi tiếp tục qua đoạn Đại lộ kinh hoàng đến Hải Lăng
Một con sông tên gọi hiền hòa, thơ mộng, nhưng năm 1972 sông Mỹ Chánh đã đi vào lịch sử đôi khi có vẻ huyền thoại với một Lữ Đoàn 369 TQLC đã giữ vửng phòng tuyến mà trước mặt là hai sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt cùng chiến xa với quyết tâm tiến vào Huế.
Sau khi tưởng niệm các vong linh, tôi dạo một vòng chợ Mỹ Chánh, nhà cửa có xây thêm và sửa sang lại, tôi cố tìm lại tuyến đóng quân của trung đội , nhưng thật sự tôi không nhận ra, chỉ mường tượng đại đội 5 trách nhiệm hướng Đông quốc lộ 1, còn toàn bộ tiểu đoàn phòng thủ bên hướng Tây. Hầu như ngày nào địch quân cũng pháo kích và cho bộ binh vượt sông để tràn qua, nhưng chúng đều thất bại trước những tay súng của tiểu đoàn Trâu Điên.
Tôi bước lên cầu Mỹ Chánh được xây lại dõi mắt nhìn bao quát, dòng sông lờ lững trôi như máu lưu thông trong huyết quản, bỗng tim chợt co thắt khi phải giả từ vùng đất mà hơn một phần ba thế kỷ, các đồng đội, chiến hữu QLVNCH và dân chúng hy sinh vì hai chử Tự Do. Tôi thắp thêm nén hương thơm để tưởng niệm, rồi tiếp tục qua đoạn Đại lộ kinh hoàng đến Hải Lăng
Xe vào hương lộ 602 với những
hàng cây hai bên đường, nhìn cây có thể đoán được thời gian trồng
dưới 15 năm. Gần tới biển Mỹ Thủy gặp hương lộ 555, còn gọi là “con
đường buồn thiu”, con đường mà hầu hết quân nhân TQLC đền có đi qua.
Nhìn dọc theo đường là ruộng lúa xanh, mùa gặt vào khoảng tháng 6,
và chỉ là những gốc rạ khô khi hai Lữ đoàn TQLC tiến ra Quảng Trị,
Tôi được thuyên chuyển về tiểu đoàn 8 lúc đơn vị vượt tuyến xuất
phát Mỹ Chánh, có lần cả đại đội dàn hàng ngang đánh chiếm mục tiêu
cùng với chi đội thiết vận xa của Thiết đoàn 18. Bây giờ tôi lại đi
trên con đường này, nó đã được tu bổ, nhưng người dân sống vẫn còn
rất nghèo
Từ quốc lộ 1 đi vào Mỹ Thủy mất khoảng 30 phút, xe tôi tới sát bờ
biển. Phải thật sự mà nói, cảnh vật không khác gì 35 năm trước,
những ngôi nhà dọc theo bãi cát vẫn như xưa, bên chái nhà người dân
đặt vài cái bàn, mấy cái ghế và năm bảy chai nước. có người cho biết
trước năm 1975 hầu hết là thân cộng sản, điều này chứng minh là đúng
khi chúng tôi vào cái quán, mấy trẻ con chạy đến vòi tiền, tôi cho
các cháu một ít kẹo chocolat rồi mua hai chai nước ngọt. Thật ra
chúng tôi cần giải quyết vấn đề vệ sinh, sẵn dịp tôi hỏi thăm chị
chủ quán
- Chào Chị, chiếc xe hơi này
có thể chạy đến Đê Long Quang được không? Phải bao lâu mới tới đó?
- Các anh muốn đi đê Long
Quang phải đi đường khác, đường này rất khó đi.
Tôi quay nhìn anh chủ xe
- Chút nữa anh chở tôi tới
thăm đê Long Quang
Anh chủ xe trả lời
- Tôi chưa bao giờ đi đê Long Quang và cũng chưa hề
nghe tới địa danh này
Tôi nghĩ
là anh nói đúng, chỉ có những người dân ở đây, hay là những người
lính Thủy quân lục chiến mới biết, bởi vì 35 năm về trước, đã có
bao cuộc chiến diệt chốt địch, các tiểu đội, trung đội TQLC đánh
tapi, đánh xả láng không màng tổn thất để dành lại từng tấc đất đã
bị địch chiếm giữ.
Cũng tại mặt trận này,
anh em thưởng thức loại hoả tiển của khối cộng sản mà bộ đội Bắc
Việt đặt trên giàn và sau đó phóng tới tấp vào vị trí thủy quân lục
chiến. Để trả đủa, anh em nghỉ cách kéo thẳng M.72 sắp thành hàng
dài trên giao thông hào, mục tiêu được nhắm vào các điểm bố trí chốt,
dùng dây điện nối lại với nhau, khi chập hai đâu dây vào cực âm
dương của cục pin, cả một loạt hoả tiển bay vào quân địch.
Tội đang sống với những kỷ niệm xưa ở đê Long Quang, thì anh chủ xe nói
- Chắc không đi được đâu anh
Tôi hỏi
- Sao mà lại không đi được, có xe thì đâu cũng tới được mà.
Tội đang sống với những kỷ niệm xưa ở đê Long Quang, thì anh chủ xe nói
- Chắc không đi được đâu anh
Tôi hỏi
- Sao mà lại không đi được, có xe thì đâu cũng tới được mà.
Người chủ phân trần
- Tôi biết đi ngõ nào đâu
- Tôi biết đi ngõ nào đâu
Tôi nhớ ngày xưa xe GMC
chở lương thực tiếp tế cũng như quân nhân bổ sung theo bờ biển đi
lên. Tôi góp lời đề nghị
- Anh thử chạy ven bờ biển rồi sẽ tới
- Anh thử chạy ven bờ biển rồi sẽ tới
Anh chủ xe biện bạch
- Trường hợp xe bị lún
cát thì mệt và khó mà kéo lên được. Người dân ở chung quanh rất
nghèo, không có một cái gì họ có thể giúp mình được. đâu anh
- Anh nói có lý.
Tôi đi dọc theo bờ biển
tới Gia Đẳng 1 và Gia Đẳng 2. Hầu hết người dân sống bằng nghề đánh
cá. Tôi nhớ tại đây có chiếc phi cơ quan sát L.19 bắn trái khói
hướng dẫn phản lực oanh kích, đã bị trúng hoả tiển rơi xuống vùng
này.
Cuối
năm 1972, khi đại đội tôi ra nghỉ quân ở đây, tôi có chụp tấm hình
kỷ niệm với anh Đức pháo binh, Nguyên, Mung và tôi cùng đứng trước
chiếc máy bay này. Bây giờ là 35 năm sau, khung cảnh vẫn như xưa,
người dân cho biết nó đã bị kéo đi rồi. Lòng tôi bồi hồi khó diễn tả,
kỷ niệm với các bạn đồng ngũ như mới ngày hôm qua, người còn sống
thì rãi rác khắp nơi, người nằm xuống mà nghĩa trang bị chánh
quyền cộng sản cấm đoán thân bằng quyến thuộc thăm viếng,
và họ toan tính san bằng, bán từng lô đất.
Chúng tôi ở đây hơn hai
tiếng đồng hồ, dự định sẽ trở ra quốc lộ 1 hướng về thành phố Quảng Trị,
đặc biệt thăm lại Cổ Thành Đinh công Tráng, một nơi mà cách nay 35
năm, cả thế giới đều biết, Các đơn vị của Liên Đoàn 81 Biệt Cách,
Nhảy Dù, TQLC đã đánh những trận tuyệt vời để cuối cùng các tiểu
đoàn TQLC làm chủ hoàn toàn thành phố, dựng lại ngọn cờ vàng, ba
sọc đỏ trên cổng thành ngày 15 tháng 9 năm 1972.
Sau khi hỏi người dân địa
phương, được biết có một con đường khác đi tắt tới thành phố Quảng
Trị, và chúng tôi đã theo sự chỉ dẫn đó. Khi xe chạy được 15 phút,
tôi mới nhận ra những vùng đất này mà ngày xưa tôi đã đi qua. Đây là
cầu Ba Bến, dọc theo sông Vĩnh Định nhà cửa cũng nhiều. Sang kia bờ
cầu là bắt đầu vào thành phố Quảng Trị. Đã 35 năm qua thành phố
hoang tàn trong chiến tranh nay có những xóm nhà, khó nhận ra vì
trong tâm tư cứ ngỡ mới hôm nào, nhưng thời gian trôi qua
hơn một phần
ba của thế kỷ.
Tôi đến ngay cổ thành lúc 3 giờ chiều. Không hiểu sao đôi mắt tôi cay cay, tôi đứng lặng im trong một phút, cảm giác khó diễn tả bằng lời. Cái hào nước bọc chung quanh cổ thành vẫn còn, và bèo mọc dày đặc. Phía Bắc của cổng thành, họ đã xây cất lại để đón khách du lịch, các em học sinh, sinh viên đi thăm viếng, mục đích để tuyên truyền về một chiến thắng, trong cuộc chiến mà người cộng sản luôn chủ trương là “Tất cả những ai sống trong thị xã đều là kẻ thù, cần phải tiêu diệt hết”.
Tôi đến ngay cổ thành lúc 3 giờ chiều. Không hiểu sao đôi mắt tôi cay cay, tôi đứng lặng im trong một phút, cảm giác khó diễn tả bằng lời. Cái hào nước bọc chung quanh cổ thành vẫn còn, và bèo mọc dày đặc. Phía Bắc của cổng thành, họ đã xây cất lại để đón khách du lịch, các em học sinh, sinh viên đi thăm viếng, mục đích để tuyên truyền về một chiến thắng, trong cuộc chiến mà người cộng sản luôn chủ trương là “Tất cả những ai sống trong thị xã đều là kẻ thù, cần phải tiêu diệt hết”.
Xe được phép đi thẳng vào
và đậu ở đó. Anh chủ xe vội vã mua vé, hình như 30 ngàn tiền Việt
Nam. Khi tôi vào, một anh bộ đội tuổi chừng 40, đội nón tai bèo,
đang ở trong cái chòi nhỏ bán vé cùng kiểm soát sự ra vào, anh chạy
ra bắt tay tôi, anh này hỏi
- Anh đi tham quan (thăm
viếng) nơi đây phải không?
Tôi trả lời
- Tôi trước kia có ở đây,
nay trở lại để thăm nơi chốn củ, và cũng để thắp những nén nhang cho
bạn đồng đội của tôi và những người phía bên anh trước đây 35 năm.
Anh bộ đội cười giả lả
- Chúng em ở đây, ngày
rằm hay Tết cũng thường thắp nhang cho cả bên lính miền Nam luôn bởi
vì cùng một giòng máu, da vàng, cùng một thứ tiếng mà anh, chớ không
riêng gì cho bộ đội đâu.
Nghe tới đây, tôi biết
anh bộ đội đang bắt đầu lên lớp (ngôn ngữ cộng sản có nghĩa là giảng
dạy) về cách mạng. Tội vội cắt ngang
- Tôi thật cám ơn anh.
Để lái qua vấn đề khác,
tôi vội hỏi
- Anh có nhang để bán
không?
- Chúng em có bày bán,
nếu anh cần.
Trước khi khởi hành chuyến đi, tôi đã chuẩn bị đầy đủ,
mua mấy bó nhang, nhưng tôi cũng mua thêm vài bó nữa để gọi là, rồi
đi thẳng vào trong.
Chính quyền cộng sản cho
xây nhà bảo tàng, để giới thiệu cho khách đi tham quan, phần đông là
các học sinh và sinh viên. Tôi nhất định không vào, vì tránh sự bực
tức khi nghe những điều trái tai, không đúng sự thật. Họ chỉ lừa bịp
được các em ra đời sau năm 1975 và đã được Đảng nhồi nhét chủ nghĩa
Mác Lê, tình đồng chí Hoa -Việt như môi hở thì răng lạnh…suy nghĩ
một chiều theo đúng đường hướng của Đảng và Nhà nước.
Họ có lát đường đi
ngang dọc trong cổ thành, ngoài ra để cỏ mọc tự nhiên. Muốn nhìn
bao quát tôi phải lên cổng thành mà họ đã xây
cất lại, từ đây có thể
nhìn chung quanh, tâm tư thổn thức, lệ lăn dài theo khoé mắt, vùng
đất này, nơi mà các đồng đội và bạn bè của tôi đã ngã xuống để người người
nối tiếp tiến lên.
- Các bạn ơi! Tôi về đây với khói hương sưởi ấm
anh linh, xin hồn thiêng sông núi chứng giám, độ trì linh hồn các bạn về
nơi an lành không còn thương đau.
Sau đó tôi cùng anh chủ
xe đốt nhang thầm khấn rồi cắm xung quanh bờ thành, tất cả đều không
còn, chỉ duy nhất một góc của cổ thành mà tôi trèo lên. Cỏ mọc
um tùm, che kín mặt đất, nếu không có sự giúp đở của anh chủ xe thì
thật vất vã vì phải dò dẫm tửng bước, nếu không để ý sẽ bị hụt chân
và té xuống. Một niềm hãnh diện pha lẫn xúc động khi tôi đứng trên
đỉnh cao, tôi cứ ngỡ là mình đang cùng các đồng đội cắm lại ngọn cờ
vàng.
Tôi trở lại thành phố,
nhà cửa mới xây cất rất nhiều, chỉ còn thành cổ là nhân chứng cho cuộc chiến
năm 1972, người cộng sản vẫn che dấu sự thật của cuộc tương tàn
theo lệnh quan thầy Nga Sô và Trung Quốc, mục đích là bành trướng
chủ thuyết Mác Lê,
Đã 5 giờ chiều, chúng tôi ghé vào tiệm ăn trước khi vô Huế. Trên đường về, lòng tôi thanh thản, vui sướng vì ước nguyện tôi đã thực hiện, đó là về thăm lại những nơi mà tôi cùng các bạn đồng đội chiến đấu để bảo vệ miền đất khô cằn nghèo khó này.
Đã 5 giờ chiều, chúng tôi ghé vào tiệm ăn trước khi vô Huế. Trên đường về, lòng tôi thanh thản, vui sướng vì ước nguyện tôi đã thực hiện, đó là về thăm lại những nơi mà tôi cùng các bạn đồng đội chiến đấu để bảo vệ miền đất khô cằn nghèo khó này.
“ Thưa các anh, các
anh đã gục ngã với tình yêu quê hương, vì hai chử tự do cho tha nhân,
chúng tôi những người sống sót trong cuộc chiến, không bao giờ quên
các anh, mong được về thăm lại những nơi mà chúng ta đã cống hiến
tuổi thanh xuân cho tổ quốc. Nhưng trong cuộc sống, mỗi người có
hoàn cảnh khác nhau, không phải ai cũng thực hiện được, tâm nguyện
lúc nào cũng nhớ và nhắc nhở cho thế hệ kế tiếp về các anh, những
người lính không bao giờ chết."
Viết xong lúc 10 giờ 15
Ngày 23 tháng 4 năm 2007
tại thành phố Seattle, tiểu bang Washington
Mũ Xanh
Phạm Tiến TĐ8 TQLC
No comments:
Post a Comment