Vậy đó cho nên chúng tôi thường dặn lòng, xin dừng dính dáng gì đến
chuyện lứa đôi làm chi cho nó khổ, cho dù vào cái thời mới lớn, ai ai
cũng ao ước “chuyện chúng mình”. Thôi thì đời lính khổ quá, sống nay
chết mai, chúng tôi không muốn như câu thơ “anh trở về dang dở đời em…”
Cho đến nổi, đôi khi chúng tôi cũng nhận được tín hiệu “đèn xanh” nhấp
nháy từ phía “bên kia” mà cũng đành giả lơ ngó đi chổ khác.
Sau khi tôi trình diện một đơn vị Trinh sát của một Trung đoàn Bộ
Binh, tôi làm Sĩ quan “cà nhỏng” một thời gian khá lâu (đây là một từ
khôi hài, ý nói chức vụ ngồi chơi xơi nước). Cho nên mỗi khi đơn vị nhận
được lịnh cấp trên, đề cử các sĩ quan đi học các Khóa Huấn luyện Bổ
túc, thì tôi được ưu tiên lựa chọn.
Vào đầu năm 1974, tôi được cử đi học Khóa Lãnh đạo Chỉ huy, kéo dài
một tháng tại Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn 9 ở Cái Vồn- Vĩnh Long. Khóa
học tập trung khoảng 50 Sĩ quan, được đưa về từ các Trung đoàn. Khóa học
này chỉ học chơi chơi, không có gì quan trọng.
Hôm đầu tiên đến giờ nghỉ trưa, chúng tôi kéo ra ngoài Trung tâm kiếm
chổ ăn cơm cho thoải mái. Tôi chưa biết ăn cơm ở đâu, đi lang thang một
hồi, tôi ghé vào một quán cà phê nằm trong một con hẻm nhỏ. Quán không
có tên, chỉ là một ngôi nhà cũ kỹ, phía trước có kê mấy bộ bàn ghế thô
sơ để bán cà phê nước ngọt. Lùi về phía sau một chút, sát cửa vào nhà
trong có kê một cái bàn nhỏ, có cô bé ngồi chào khách và thu tiền.
Tôi ngồi uống cà phê rồi ngó bâng quơ, bỗng tôi chợt thấy có mấy tên
cùng khóa học đang quây quần ngồi ăn cơm với nhau ở phòng khách phía
trong nhà.
Tôi bèn bưng ly cà phê tới bàn cô bé cashier hỏi chuyện. Cô bé nhìn
bảng tên trên ngực áo tôi, rồi rất tự nhiên và dạn dĩ, cô ấy bảo tôi:”
Quán em có nấu cơm tháng cho mấy anh về đây học, nếu anh Châu cũng muốn
ăn cơm ở đây thì đóng tiền cho Má em đi chợ nấu cơm cho anh ăn luôn thể”
Tôi nghe thấy vui vui nên bằng lòng.
Ngồi chuyện vãn với cô bé một hồi, tôi được biết, quán này có 3 chị
em cùng bán hàng, nên đám khách bèn đặt cho một cái tên là Quán Ba Cô,
cho nó tiện. Ba chị em tuổi từ 17 đến 20, cô nào cũng xinh theo kiểu
“hương đồng cỏ nội”, xinh nhất là cô út tên Xuân Hương đang học lớp 11.
Sau khi cô đi học về thì ra ngồi quán với các chị, vừa học bài vừa thu
tiền.
Thế là trưa chiều hai buổi, tôi có mặt tại quán. Lúc đó tôi thấy đám
Sĩ quan về học như tôi, kéo đến quán đông nghịt, bu lấy ba cô, họ tán
tỉnh rập rờn, trông bắt ớn. Bản thân tôi cũng không tốt lành gì, nhưng
mà…. thôi đành lấy mắt ngó vậy.
Trong đám Sĩ quan kéo đến quán, chỉ toàn là lính Bộ binh, độc nhất
chỉ có mình tôi là lính Trinh sát. Không biết có phải vì cái vẻ bên
ngoài đặc biệt của tôi hay không? mà cả ba cô đều dành cho tôi cảm tình
vượt trội hơn những người khác.
Mỗi khi tôi đến quán, các cô đều lộ ra vẻ vui mừng, không để tôi ngồi
bên ngoài mà lôi tuột vào bên trong, để cùng tôi cười đùa rôm rả. Mỗi
khi tôi nói chuyện khôi hài, các cô túm tụm vào nhau cười ngặt nghẽo. Bà
Má già của các cô, trông tướng mạo quê mùa nhưng rất hiền lành chơn
chất. Thấy tôi nói chuyện vui, bà thích lắm nên cũng bắt ghế ngồi nghe
chuyện. Rồi bà hối các cô dọn cơm cho tôi ăn, pha nước cho tôi uống. Để
tôi nhớ lại xem, tôi có buông lời tán tỉnh cô nào không ta? hình như là
không, chắc vậy… tôi đã nói rồi mà.
Cuộc vui kéo dài cho đến một ngày kia, lúc đó vào dịp Tết. Trung tâm
cho đám chúng tôi nghỉ tại chổ. Mỗi khi Tết đến, đám lính xa nhà như
chúng tôi trong lòng buồn nôn ruột, nhớ nhà cồn cào nghe mà thắt ruột
nát gan, buồn vô phương ! Những tên nhà gần thì dọt về gần hết. Những
đứa ở xa tận Sài gòn như tôi thì kẹt cứng, vì con đường từ Vĩnh long về
Sài gòn có rất nhiều Trạm Kiểm soát Quân sự, mang đồ lính thì không sao
qua lọt.
Tôi tà tà đi ra quán với cái mặt buồn hiu, thấy vậy Bà Má và các cô
xúm lại hỏi han. Tôi kể lể rồi nói nhờ các cô chạy mượn cho tôi bộ đồ
dân sự để tôi mặc chuồn về nhà ăn Tết. Bà Má kêu lên:” Sao mà tội nghiệp
thằng nhỏ này quá vậy trời!”, bà hối mấy cô chạy vào xóm mượn cho tôi
bộ đồ.
Các cô đi một hồi rồi trở về nhà mặt mày bí xị, không ai dám cho tôi
mượn hết. Không biết sao, các cô chụm đầu lại rù rì một hồi. Rồi một cô
bảo tôi:” Anh Châu có dám mặc đồ của tụi em không vậy?” Tôi liều mạng ừ
đại. Thế là, cô lớn cao ráo nhất cho tôi mượn cái quần, cô giữa cho tôi
mượn cái áo, cô út lăng xăng kiếm cho tôi đôi dép.
Sau khi tôi thay đồ xong, các cô giương mắt nhìn tôi một hồi, cô này
xù xì vào tai cô kia, rồi cả ba cô cười phá lên. Tôi không hiểu chuyện
gì, cô giữa bảo tôi:” Thấy anh Châu mặc đồ tụi em…. trông thật là đẹp
gái….” Tôi mắc cở bỏ đi một nước. Khi về tới nhà, má tôi thấy tôi bước
vô với bộ dạng kỳ dị, bà muốn té ngửa. Thiệt hết biết!
Sau một tháng học tại Trung tâm, rồi cũng đến ngày chia tay. Trong
buổi cơm cuối cùng tại Quán Ba Cô, Bà má già bắt cái ghế đẩu ngồi chăm
chú ngó chúng tôi ăn cơm. Bỗng dưng tôi thấy bà chảy nước mắt ràn rụa,
bà kéo cái khăn sọc rằn lên lau nước mắt, tôi thấy thương bà làm sao.
Tôi nghĩ có lẽ bà má có quá nhiều tình cảm nên đã xúc động khi giã từ
đám lính chúng tôi chăng?
Tôi trở về đơn vị được một tháng, bỗng một hôm tôi nhận được lá thư
của cô út Xuân Hương của quán Ba Cô. Tôi hồi hộp mở thơ ra xem, sau khi
đọc xong tôi kinh hãi đến rụng rời, té ra là thế!. Giống như một lá thơ
tuyệt mạng, không phải dành cho ai khác mà là dành cho tôi.
Cho mãi đến tận bây giờ, sau hơn 40 năm dài đằng đẵng, tôi vẫn còn
nhớ rành rành lời cô viết:” Anh Châu thân mến, anh còn nhớ bửa ăn cuối
cùng các anh đã ăn ở nhà em không? Chắc anh còn nhớ má em đã chảy nước
mắt, anh có biết sao má em khóc không? Má em khóc vì quá thương anh Châu
đó. Má em nói, có biết bao sĩ quan về đây học, sau một thời gian các
anh trở lại đơn vị, má kêu tụi em chạy đi hỏi thăm tin tức mấy anh, thì
được biết toàn bộ các anh lớp chết lớp bị thương hết ráo, ít có ai lành
lặn mà trở về nhà. Má em còn nói tiếp, mấy anh đó chỉ là lính tiểu đoàn,
lính bộ binh, chứ chưa có ai là lính Trinh sát như anh Châu, và má em
cũng biết lính Trinh sát còn hung hiểm hơn lính bộ binh gấp bội phần. Má
em thương anh quá, má nói không biết có còn cơ hội gặp lại anh nữa
không? Cho nên má em khóc là vì lẽ đó. Má em dặn, khi nào đơn vị của anh
Châu đóng quân chổ nào lâu lâu, thì anh biên thư gửi về quán báo cho em
biết, để em dẫn má em đi thăm anh….”
Tôi đọc xong lá thơ mà trong người bần thần đến mấy ngày, một nỗi xúc
động tràn ngập trong lòng tôi. Tôi đã nhận được từ bà má già quê Cái
Vồn, một tấm lòng nhân hậu lớn lao không sao tưởng tượng nổi.
Từ đó tôi trôi đi biền biệt, hết mặt trận này đến mặt trận khác, mà
chưa có lần nào trở lại Cái Vồn. Nhưng tôi biết chắc một điều, bà má già
và cái quán Ba Cô ngộ nghĩnh đó sẽ mãi mãi nằm trong một trang ký ức
đẹp đẽ nhất của đời tôi.
Rồi ngày tháng dần trôi. Sau khi các huynh trưởng của tôi rơi rụng lần lần, tôi cũng ngoi dần lên chức Trung đội trưởng Trinh sát, sau khi làm phó hay cà nhõng một thời gian khá dài. Có lẽ con đường hoạn lộ của tôi trong tử vi không được sáng sủa cho lắm.
Tới một ngày kia, tôi không nhớ lúc nào. Bộ Chỉ Huy Mặt trận Mộc Hóa
thuộc Tỉnh Kiến Tường, tung Trung đội Trinh Sát do tôi chỉ huy, luồn
rừng tràm đi thăm dò lực lượng địch quân. Đây là chiêu thức “trói dê bắt
cọp” hay là “chốt thí qua sông” cũng được, để nhằm đến một mục tiêu
chiến thuật nào đó, mà một sĩ quan cò ke lục chốt như tôi không cần
biết. Tội nghiệp, trong chiến tranh mạng người lính như chúng tôi chỉ là
cỏ rác.
Nhiệm vụ Trung đội tôi rất hiểm nghèo, cho nên Bộ Chỉ Huy ưu tiên hỏa lực pháo binh cho tôi. Khi tôi di chuyển đến đâu thì báo cáo điểm đứng về cho Trung Tâm Hành Quân, nơi đó các khẩu đội luôn hướng nòng về phía chúng tôi, để nếu xảy ra chạm địch, chỉ trong vòng vài phút, pháo binh phải can thiệp ngay lập tức. Nếu không, Trung đội tôi khoảng trên 20 người lính sẽ bị tàn sát trong nháy mắt.
Khi chiều tối xụp xuống, chúng tôi đụng trận. Phía bên kia xông lên
chạy băng qua một cánh đồng khô cạn, họ vừa bắn xối xả vừa gào thét:”
hàng sống, chống chết” Lúc đó mà tôi tin lời họ là không còn mạng để bây
giờ kể lại câu chuyện này.
Chúng tôi bị dồn vào đường cùng, phía sau lưng là con sông, đạn lại
nổ rền vang tứ phía. Nếu muốn bỏ chạy cũng không biết chạy đi hướng nào.
Tôi vừa bắn vừa trầm giọng gầm lên:” Anh em ơi! trước sau gì cũng chết.
Không sợ! Chúng ta chơi cho tới cùng.” Lính tôi phấn khởi ồ lên hưởng
ứng ” Sông Mã gầm lên khúc độc hành” khi người lính không còn sợ chết
nữa, họ sẽ chiến đấu vô cùng dũng mãnh.
Cũng may, ông Trời còn ngó xuống thương tình, không biết sao tại vị
trí phòng thủ của chúng tôi, có một bờ đất dầy khoảng 2 thước, và cao
ngang tầm ngực, đã che chắn cho chúng tôi. Có lẽ trước kia đây là bờ
thành của một cái đồn nay đã bỏ hoang.
Tựa vào bờ đất, chúng tôi bắn trả quyết liệt, bởi vì biết chắc một
điều, hoặc là bắn lại họ, hoặc là bị họ bắn chết hết. Tôi vừa “tả xung
hữu đột”, vừa gọi máy truyền tin về Trung tâm Hành quân. Nhờ các tọa độ
tác xạ tiên liệu tôi đã báo trước. Cho nên chỉ sau vài phút, đạn đại bác
chạm nổ rền trời. Trong khi đại liên phòng không 12 ly8 của phía bên
kia, từ một hướng khác, nhả đạn liên tục về phía chúng tôi, nghe rất
kinh hồn táng đởm, đạn nổ trắng trời như đèn nê on.
Lạy Trời ! Sau một hồi tấn công, nhắm không nuốt nổi bọn tôi. Phía
bên kia ngừng lại và rút quân. Tôi thở hắt ra rồi ngồi bệt xuống đất,
mệt muốn té xỉu, trong người tôi không còn một chút hơi sức nào, hồn vía
tưởng chừng thảng thốt bay lên cao. Tôi quá sức kinh sợ.
Người lính đệ tử đưa cho tôi một bao gạo sấy còn nguyên chưa nấu gì
cả, anh ta bảo tôi nhai cho đở đói. Tôi vốc một nắm cho vào miệng, nhai
rào rạo như nhai sỏi đá. Mấy người lính của tôi, kẻ chết người bị thương
nằm la liệt. Tôi nhìn họ, lòng buồn muốn khóc.
Bỗng tôi một tiếng rên yếu ớt từ đâu đó vọng đến chỗ tôi ngồi. Tôi
lấy làm lạ, hỏi mấy người lính chung quanh có nghe thấy không? Họ nói có
nghe rõ lắm, như vậy là có người lính phía bên kia đã bị thương và đồng
bọn đã bỏ anh ta lại, và bây giờ đang nằm chờ chết trước mặt chúng tôi
không xa lắm.
Tôi nghĩ, lúc hai bên bắn nhau chí tử, thằng nào xui tận mạng bị
trúng đạn ngã ra chết, thì thôi! ráng chịu, chứ chẳng có oán thù gì nhau
(đó là do tôi nghĩ vậy, còn phía bên kia nghĩ sao, tôi không biết). Nay
người lính bên kia bị thương đau đớn, nằm ngoài kia kêu rên thảm thiết,
mình mà không cứu thì cảm thấy “kỳ kỳ” ở trong lòng.
Tôi bảo hai người lính của tôi bò ra, kéo người lính bên kia vào cứu
chữa. Họ bò đi một lát thì tôi nghe có tiếng lựu đạn nổ. Tôi điếng người
không biết chuyện gì đã xảy ra. Hai người lính quay vào và nói với
tôi:”… tụi em bò tới gần thằng đó, nó bèn rút lựu đạn quăng về phía tụi
em, cũng may nó quăng trật, nếu không thì tụi em chết banh xác rồi…”
Thấy vậy mấy người lính bèn bàn với tôi:”… tụi mình có lòng cứu nó, mà
nó đối xử với mình như vậy, thôi cứ bỏ mặc cho nó chết đi Thiếu úy…”
Ừ! thì thôi vậy, bỏ mặc cho nó chết. Nhưng đâu phải bỏ dễ dàng như
thế. Tiếng rên la lần này lại như ma tru quỉ hờn, nghe còn thê lương hơn
trước nữa. Tôi chịu không nổi, nếu cứ để mặc cho hắn chết, chuyện dễ
thôi, nhưng tôi biết nó “ám” trong lòng tôi đến vô cùng.
Lần này, chính tôi cùng hai đệ tử thân tín bò ra cứu hắn. Khi bò ra
tới bên ngoài, tôi la lên:” Nè, nè ! cái ông Việt Cộng kia ơi, tụi tôi
bò ra cứu ông đây, nếu ông còn quăng lựu đạn một lần nữa, thì tụi tôi sẽ
bỏ mặc cho ông nằm chết, chứ đâu còn ai dám cứu ông nữa.”
Người lính bên kia nghe xiêu lòng, hắn đã nằm im cho thầy trò chúng
tôi hì hục kéo hắn vào bên trong tuyến phòng thủ. Hắn bị thương khắp
người, nặng nhất là ở cẳng chân nên không chạy theo đồng đội của hắn
được, nên đành nằm lại chờ chết. Chúng tôi xúm lại băng bó vết thương
cầm máu cho anh ta. Tôi bảo đệ tử chui xuống hố cá nhân nấu một ca nước
sôi pha sữa cho anh ta uống. Uống xong ca sữa anh ta gục xuống ngủ thiếp
đi, trông cũng tội nghiệp.
Sáng hôm sau, cấp trên cho xe Thiết giáp vào đón những người bị
thương và tử trận về căn cứ, đồng thời chở cả anh ta theo nữa. Trước khi
đi anh ta nhìn tôi chằm chằm nhưng im lặng không nói một lời nào. Có lẽ
anh ta cảm thấy rất lạ lùng, không sao hiểu nổi.
Thời gian sau, Quân đội Miền Nam bại trận, đám Sĩ quan chúng tôi nhục
nhã ê chề kéo nhau vào Trại Tù có tên là Trại Cải Tạo. Có một hôm, sau
một ngày làm việc cực nhọc, chúng tôi kéo nhau về Trại. Sau khi tắm rửa
cơm nước xong, chúng tôi ngồi quây quần bên gô nước chùm bao để nói
chuyện đời. Tôi đã kể lại câu chuyện trên cho đám bạn nghe. Nghe xong có
người hỏi:”Nếu bây giờ cho ông sống trở lại những ngày tháng cũ, ông có
làm như vậy nữa không ?”. Tôi đã trả lời ngay lập tức:”Tôi không thể
nào làm khác đi được, tôi vẫn hành xử y như cũ, bởi vì tôi là người Miền
Nam…”
Ngô Đình Châu
Nguồn Việt Báo
No comments:
Post a Comment