Sáng Chúa nhật
hôm ấy, chủ
tịch xã Năm Lộ
tụ tập
dân làng để xem ông trừng
trị kẻ
ăn cắp gạo
của hợp
tác xã đêm vứa qua. Một
số ít người
dân tò mò đến xem, trong đó có vợ
con của Năm Lộ.
Dân làng nhìn thấy một
người đàn ông bị
cột hai chân bị
treo ngược lên cành đa xà ngang, đầu
chúc xuống gần
mặt đất,
thân lơ lửng
qua lại, nhìn kỹ
mới biết
là anh Hòa. Năm Lộ đứng
một bên cầm
roi quất vào người
anh tới tấp.
Đau quá, Hòa kêu lên:
- "Tôi chỉ lấy
cắp một
lon gạo, nấu
cháo cho thằng con tôi bệnh
đói mấy ngày!"
- "Mày ăn cắp của
nhân dân là tao đánh. Mày có chùm râu mọc ngược,
thì suốt đời
mày làm chuyện ngược".
Nói xong Năm Lộ lại
đánh. Đau quá, Hòa kêu lên:
- "Tôi lấy một
lon gạo, mấy
ông cán bộ cấp
cao lấy hàng tạ
gạo…!".
- " Mày nói xấu đến
cán bộ hả!"
Năm Lộ thét lên rồi
vụt roi vào người
Hòa liên tục. Lúc đó đứa
con gái nhỏ của
Năm Lộ đang đứng
xem, bỗng vuột
khỏi tay mẹ
chạy đến
bên bố, nhìn bố
nói:
- " Đêm qua, bố cũng lấy
gạo, sao bố
đánh người ta nhiều
thế!"
Năm Lộ khựng
lại, rồi
dừng tay, hắn
nhìn qua, thấy Hòa cũng không còn cử
động nữa,
Năm Lộ sai hai anh dân quân tháo dây ra thả
Hòa nằm trên đất.
Khoảng hơn
nửa giờ
sau Hòa tỉnh dậy,
anh lồm cồm,
bò lết ra ngoài đường.
Những người
quen Hòa đang chờ sẵn
ngoài lộ, họ
cõng Hòa về.
Ở nhà, vài người
lối xóm thương
tình Hòa, họ mang cơm
cháo, thuốc men chăm sóc cho hai cha con. Một
tuần sau Hòa mới
dần hồi
phục, từ
đó anh không dám ra đường sợ
bọn Năm Lộ
lại bắt
đi đánh nữa.
Năm Lộ là một
hung thần
ở xã này. Trong giai đoạn
Cải Cách Ruộng
Đất, bố
của Lộ
tìm cách tiếp cận
với "đội
cải cách" về
làng, ông hăng say hợp tác với
đội, đấu
tố những
người có ruộng,
có của hơn
ông, ngay cả người
buôn thúng bán bưng ông cũng không chừa,
làm một số
người bị
hành hạ, tù tội
hoặc chết
oan. Sau này dù đã có chính sách sửa sai, nhưng
Lộ vẫn
được tuyên dương
là con của một người
có công với Cách Mạng
và được ‘hất”
lên làm chủ tịch
xã ở vùng này.
Trận đòn sống
chết vừa
qua đã làm Hòa nhớ lại.
Thuở
trước thằng
Lộ răng hô, học
cùng trường làng với
anh. Ngày cuối niên khóa, trường
tổ chức
một buổi
văn nghệ toàn lớp,
nó mê và đeo đuổi một
cô gái xinh, học dưới
một lớp,
cô ấy theo ngồi
sát ghế với
Hòa, và tránh né hắn. Lộ
mon men đến gần
cô ấy, nghe cô khen Hòa có chùm râu mọc
ngược bên cằm
là chùm "râu duyên". Từ đấy
nó đâm ra thù Hòa, dù cô ấy đã đi lấy
chồng
ở làng
xa khác.
Trong những ngày dưỡng
thương, Hòa ôn lại hoàn
cảnh nghèo nàn của
mình. Vài tháng vừa
qua, vợ Hòa lâm bệnh.
Cơn bệnh
kéo dài không thuyên giảm, anh phải
nghỉ làm,
ở nhà chạy
thuốc men và chăm sóc vợ.
Tiền nong đã cạn
nhưng bệnh
của vợ
lại tăng hơn,
rồi người
anh yêu thương đã qua đời.
Nhà không còn tiền, anh phải
mượn cụ
Nghĩa để làm đám tang cho vợ.
Xong, anh cố gắng
đi làm nhiều hơn,
để dành tiền
trả cho cụ
Nghĩa thì thằng con lại
bệnh, lại
chạy thuốc
men cho con. Nhà hết gạo,
anh làm liều đi ăn cắp
một lon gạo
thì bị bắt
rồi bị
đòn đau. Bây giờ, chỗ
làm đã đuổi việc,
anh đi xin việc mới
với cái lý lịch
"ăn cắp gạo"
hợp tác xã nên không nơi
nào nhận anh.
Làm sao có tiền nuôi con, trả
nợ cho cụ
Nghĩa!
Cụ Nghĩa trước
đây là bộ đội
"Đi B" (chiến trường
miền Nam) hơn
mười năm, đã lên được
hàm sĩ quan, bây giờ về
quê phục viên. Có một
lần, Hòa vừa
đun xong một
ấm nước
vối, chợt
thấy cụ
Nghĩa đi ngang qua nhà, anh chạy ra mời
cụ vào cùng uống
nước. Hôm
ấy, cụ
ngồi chơi
lâu, cụ kể
chuyện thời
cụ đi bộ
đội, mà anh nhớ
nhất là câu nói của
cụ: "Đời
tôi sướng nhất
là thời gian sau "Giải Phóng"
tôi được công tác
ở một
thị trấn
ven đô Sàigòn và vài tỉnh miền
Nam, người
ở đó tính rộng
rãi, chân thật, cuộc
sống dể
dàng, đất đai màu mỡ...".
Cụ nói vì cụ
là con cả trong gia đình, có một
người em trai nhưng
đã chết trận,
nên cụ phải
về quê để
lo mồ mã ông bà, nếu
không thì cụ đã dời
vào Nam sinh sống lâu rồi.".
Ở trong xã này, thằng
Năm Lộ đều
hiếp đáp mọi
người, duy chỉ
có cụ Nghĩa thì nó "dạ,
dạ, thưa,
thưa!". Hôm nay Hòa đến
nhà cụ Nghĩa xin ý kiến
và nhờ cụ
giúp đỡ.
Tại nhà cụ
Nghĩa, Hòa trình bày về hoàn cảnh
sống của
mình đã bế tắc
nếu tiếp
tục
ở trong xã này, nên muốn
chuyển vào Nam sinh sống.
Hiện nay tiền
bạc cạn
kiệt, Hòa xin cụ
mua dùm cái nhà của anh để
anh có cơ hội
trả nợ
cho cụ, còn phần
tiền dư
để cha con anh chi phí trong chuyến
đi và sinh sống thời
gian đầu
ở xứ
lạ. Ban đầu
cụ không chịu,
nhưng Hòa khẩn
cầu cụ
giúp. Cuối cùng, cụ
đồng ý, cụ
bảo nếu
không ở trong Nam được,
trở về,
cụ sẽ
hoàn lại nhà, rồi
trả phần
nợ sau cũng được.
Hòa dẫn thằng
Thảo, đứa
con trai đi vào Nam bằng tàu hỏa.
Khi con tàu qua khỏi sông Bến
Hải, nhìn hai bên đường,
nhà cửa, quang cảnh
khác với miền
Bắc. Dọc
đường, Hòa ghé xuống
một vài thành phố
để xin việc
làm. Lúc bấy giờ
là thời “bao cấp”,
phần lớn
các công việc doanh thương
đều do nhà nước
quản lý, hầu
hết người
dân phải ăn độn…
đời sống
ê chề; Hơn
nữa, lúc đó, người
dân ở phía Nam hình như
không có thiện cảm
với người
miền Bắc,
nên anh không tìm ra việc làm; Tuy thế,
anh cũng nhận thấy
lối cư
xử của
họ hài hòa với
nhau, không quan liêu, hống hách, khốn
nạn như
chính bản thân anh đã từng
gặp nơi
làng quê anh ở.
Ngẫm
nghĩ đến lời
cụ Nghĩa kể
chuyện về
Sài Gòn, người, xe đông đúc, nhà cửa
nhiều tầng
cao, ban đêm đèn đường vẫn
thắp sáng, vẫn
có người làm việc,
vẫn có xe ô tô chạy
giống như
các thành phố Tây phương.
Hòa nghĩ chắc
ở Sài Gòn dễ
kiếm việc
hơn là những
nơi khác, nên anh mua vé xe đò cho hai cha con vào thẳng
Sài Gòn.
Đến Long Khánh, xe dừng
lại để
hành khách xuống xe nghỉ
ngơi, giải
khát, ăn uống. Thằng
con kêu đói, Hòa dẫn nó đến
quán cháo nhỏ
ở góc bến
xe. Anh mua một tô cháo, húp vài miếng
rồi đưa
cho thằng con, nhìn nó ăn, anh lộ
vẻ thèm thuồng.
Chị bán cháo nhìn anh hỏi:
"Cha con anh đi đâu đó?" Anh trả lời:
"Ở miền
Bắc đi vào Sàigòn kiếm
việc làm!". Chị
hỏi: "Đã có ai
ở Sài gòn hứa
thuê mướn anh chưa?"
Trả lời:
"Chưa! đang đi tìm, không có việc
chắc sẽ
chết đói!" Chị
nói: "Hôm qua, có ông Ba Hồng
ở trong xóm, ra đây nhờ
mọi người
tìm dùm một người
đàn ông phụ việc
và ở lại
trong nhà luôn để trông coi việc
nhà cửa, vườn
tược! anh muốn
việc đó không?". Trả
lời: "Muốn!
việc gì cũng xin làm". Chị
nói: "Muốn thì đi hỏi
đi! để người
khác xin, thì mất việc
đó! Nhà ông Ba ở cuối
xóm, đi thẳng con đường
này khoảng hơn
cây số, đến
ngôi nhà ngói cũ kế một
dám đất trống
rộng là tới!".
Nghe xong, anh đứng thừ
người, suy nghĩ một
hồi lâu, rồi
vội dẫn
thằng bé đến
chiếc xe đò nói với
anh lơ xe cho anh xin lại
cái ba lô ở trên mui xe vì anh muốn
xuống đây để
đi kiếm việc
làm. Lấy ba lô xong, anh lơ
xe nhìn hai cha con dáng nghèo khổ, móc trong túi lấy
ra ba tờ bạc
rồi nói: "chưa
tới Sàigòn mà xuống
đây, thôi trả lại
một ít đó!".
Đeo ba lô lên vai, anh đến chào chị
bán cháo. Trước khi đi, chị
nói: "Tui biết anh đang đói, tui tặng
anh một bát cháo, ăn xong lại
đi, nếu không xin được
việc, đi tới,
đi lui, đói xỉu đó". Anh cầm
bát cháo đưa cho thằng
con, nó múc vài muỗng ăn rồi
đưa lại
anh. Xong, anh đi. Dọc đường
anh nghĩ thầm: sao
ở trong Nam, anh nghe những
tiếng như
"Tặng, Biếu,
Trả, Cho..."
mà ở miền
Bắc sao mà hiếm
thế.
Đến nhà ông Ba Hồng
xin việc, Hòa được
ông tiếp chuyện
trên một bộ
phản gỗ
trước hàng hiên. Kẻ
hỏi người
thưa như
một cuộc
chuyện trò thân mật
gần hơn
nửa giờ.
Sau đó ông Ba dẫn cha con Hòa đến
một phòng, chỉ
vào bên trong có một cái giường
đôi vừa cho hai người
nằm. Thằng
Thảo vừa
thấy cái giường,
nó nhảy lên vui mừng,
vì những đêm trước
nó ngồi ngủ
trên xe, trên sân ga, dưới hiên nhà, hay trên sạp
gỗ
ở góc chợ,
nay nghe ông Ba nói cho cha con nó nằm trên đó, nó vui mừng
như được
cho kẹo.
Những ngày đầu,
nghỉ ngơi,
ăn uống cho lại
sức, cha con anh còn dẫn
nhau đi dạo quanh quẩn
trong làng, đồng thời
cũng đến cám
ơn và
báo cho chị
bán cháo biết là
anh được ông Ba nhận
việc và luôn tiện
hỏi han về
ông Ba. Chị cho biết
ông Ba Hồng là người
rộng rãi và được
mọi người
trong làng quý trọng.
Ông Ba hướng dẫn
anh những công việc
ở nhà và cách chăm sóc những
vườn cây ăn trái của
ông, nào là chôm chôm, nhãn lồng, vải,
mít tố nữ…
Ở quê, Hòa làm nghề
nông, vào đây làm công việc chăm sóc vườn
trái cây xem như
đồng nghề.
Tuy những khu vườn
trái cây ở nơi
này rộng lớn,
nhưng với
đất đai phì nhiêu, khí hậu
ôn hòa, phân bón thích hợp và dụng
cụ đầy
đủ nên việc
trồng trọt
chăm bón dễ dàng hơn những
đám ruộng
nhỏ nơi
quê anh gấp nhiều
lần. Sau một
thời gian, nhờ
tính cần mẫn,
hiền lành, hòa nhã với
mọi người
chung quanh và nghe theo những điều
chỉ dẫn
của ông Ba, Hòa đã mau chóng thành thạo
việc làm, nên được ông
Ba giao việc cho anh mỗi
khi ông cần đi xa hay về
thăm gia đình người em gái,
ở Sàigòn. Mỗi
lần về
lại vườn
cây, ông Ba thưởng thêm tiền
cho Hòa và mua quà cáp cho thằng Thảo
con anh.
Niên học mới
sắp tới,
Hòa xin ông Ba được nhập
hộ khẩu vào trong
nhà ông để ghi danh cho thằng
Thảo được
theo học tại
trường học
trong xã này.
Buổi sáng, ông Ba cùng cha con Hòa đến
trụ sở
xã xin gặp ông chủ
tịch để
làm đơn xin cha con Hòa nhập
hộ khẩu
vào gia đình ông. Ông xã trưởng tên Vinh bắc
ghế mời
ông Ba ngồi trước
bàn làm việc của
ông, rồi gọi
một người
thư ký dẫn
cha con Hòa đến phòng lập
hộ khẩu.
Còn ông Ba thì vẫn ngồi
nói chuyện với
ông chủ tịch
Vinh. Việc lập
thủ thủ
tục nhập
hộ khẩu với
anh thư ký thực dễ
dàng và nhanh chóng, không mấy chốc
anh Hòa đã trở thành “công dân” trong thôn xã này. Sự
mau mắn của
ông chủ tịch
xã và sự thân thiện
vô cùng uyển chuyển
của người
thư ký đối
với cha con Hòa khi làm việc
làm anh ngạc
nhiên vô cùng. Sau này anh mới
biết việc
làm mau chóng này là do sự liên hệ
giữa ông Ba Hồng
và ông xã trưởng Vinh đã
có từ trước.
Cha của Vinh trước
đây là người làm kế
toán cho ông Ba Hồng tại
một vựa
trái cây lớn
ở Sàigòn. Ông phải
lòng với một
chị bạn
hàng ở Long Khánh thường
mang trái cây vào Sài Gòn bán cho vựa, ông nhờ
ông Ba mai mối dùm,
sau khi được chấp
thuận, ông Ba giúp tiền
tổ chức
đám cưới. Cưới
vợ xong ông về
quê vợ
ở rể,
rồi sinh ra Vinh. Ông Ba giúp thêm vốn
để vợ
chồng ông mở
một vựa
trái cây nhỏ, việc
buôn bán càng lúc càng khá. Sau này, ông Ba còn đưa tiền
cho ông bà khai khẩn thêm những
khu đất hoang gần rừng,
trồng trọt
thành những vườn
cây ăn trái. Nhờ thế
mà cha mẹ Vinh càng lúc càng khá giả.
Vinh lớn lên học
tiểu học
ở quê, trung học
ở tỉnh.
Lúc đó, hai lớp cuối
trung học, tỉnh
nhà chưa có, Vinh vào Sài gòn học
tiếp, ăn
ở nhà ông Ba và được
ông Ba xem như con cháu trong nhà.
Một hôm Vinh về
quê thăm cha mẹ. Buổi
chiều đạp
xe đi thăm mấy khu vườn
ở gần
bìa rừng thì mấy
"ông trên núi" bắt, mang Vinh đi phục
vụ "Cách Mạng".
Từ khi Vinh mất
tích, cha mẹ Vinh buồn
rầu, bỏ
cả công việc
làm ăn, vườn tược
đi tìm con, tháng ngày qua, trên đường đi, cả
hai ông bà bị
tử nạn
trong một tai nạn
xe cộ. Vinh trở
về sau ngày "Giải
Phóng" , nghe tin cha mẹ đã qua đời.
Hàng ngày ra mộ, nhìn những
chùm cỏ trên mộ
liu xiu theo chiều gió, ngẫm
nghĩ đời người
như
ẩn, như
hiện lúc có lúc không. Đang
chơ vơ
một mình, thì giấy
tờ
ở quận
ủy gửi
về cất
nhắc anh làm chủ
tịch xã . Lúc mới
về Vinh chỉ
có hai bộ quần
áo trong cái ba lô, ông Ba nghe tin Vinh về, kín đáo giúp đỡ,
Vinh dần dần
có “của”. Khi làm việc,
Vinh hài hòa, nâng đỡ thuộc
cấp, cảm
thông với những
khó khăn trong cuộc sống
người dân nên được
mọi người
quý mến.
Ông Ba Hồng gốc
ở miền
Bắc.
Gia đình ông sống
trong một làng quê kế
cận với
thành phố Hải
Phòng. Lúc còn trẻ, ông chứng
kiến cảnh
người chết
vì đói năm Ất Dậu,
cảnh hành hạ
địa chủ,
phú nông, tư sản
trong phong trào Cải cách Ruộng
đất cùng cách hành xử
của cán bộ
với dân… Khi nghe tin có cuộc
Di Cư vào Nam, ông lén lút bán rẻ
những vật
dụng mà ông
có cho những người
quen biết, rồi
kín đáo mang gia đình đến nhà cô em gái gần
cảng Hải
phòng xuống “Tàu Há Mồm”
xuôi Nam.
Khi Đoàn “Quân Giải Phóng” vào Sài Gòn, trong lúc họ
bắt đầu
giăng cờ xí, biểu
ngữ, treo loa từng
góc phố để
ca tụng lãnh tụ,
chủ nghĩa, chiến
thắng… thì ông Ba Hồng
tìm cách phân phối nhà cửa,
tài sản… đến
những người
trong gia đình và người thân tín. Vợ
ông đã qua đời năm trước,
người con trai độc
nhất của
ông đã đi du học
ở nước
ngoài cách đây vài năm. chỉ còn một
mình ông ở trong căn nhà cũ của
gia đình. Nếu có “sự
cố” gì xảy
ra thì ông sẽ
dâng cái nhà này cho phường khóm rồi
xin đi "kinh tế mới"
với ý định
về Long Khánh, nơi
sẵn có nhà cửa,
đất đai, vườn
cây ăn trái… và có Vinh đang làm chủ tịch
xã vùng này.
Ở với
nhau lâu ngày, ông Ba đã xem cha con Hòa như người
nhà. Việc vườn
tược, hoa màu gần
như ông giao cho Hòa quản
trị, chỉ
giúp ý kiến khi có vấn
đề khó khăn. Đặc
biệt là ông Ba rất
thương thằng
Thảo, ông để
ý việc học
hành của nó, ông chỉ
bảo, dạy
thêm cho Thảo. Mỗi
lần Thảo
có điểm học
cao, ông đãi Thảo đi ăn tiệm,
mua quà bánh, sách vở để
học thêm. Những
lúc trúng mùa hoa quả khấm
khá, ông thưởng thêm tiền
công thật nhiều
cho Hòa.
Thời gian sau mùa thu hoạch
là lúc rảnh rỗi,
ông Ba khuyến khích Hòa cùng một
số thanh niên năng động
trong làng lên rừng hái nấm,
đào măng, khoai củ, cắt
cây, hái lá thuốc Nam bán cho các tiệm
thuốc Bắc
và các gian hàng ngoài chợ… kiếm
thêm tiền. Nhờ
công việc phụ
trội này mà Hòa dần
dà dành dụm được
một số
tiền càng lúc càng khẩm.
Trong những năm đầu
chiếm được
miền Nam, đoàn quân nón cối,
dép râu dùng quyền lực
bắt những
sĩ quan quân đội, viên chức
chính quyền miền
Nam tù đày nơi rừng
sâu, nước độc,
tạo cảnh
con xa cha, vợ mất
chồng, gia đình chia ly, tịch
thu nhà cửa và tài sản,
ngăn sông cấm chợ,
đổi tiền,
reo rắc tang thương
cho người miền
Nam, rồi lạm
dụng ngữ
nghĩa đặt
tên là “Thời
Bao Cấp”!.
Thế vẫn
chưa đủ.
Nhà cầm quyền
miền Bắc
lại cử
thêm một cán bộ
cao cấp, không biết
ông này học hành tới
đâu, chỉ nghe nói lúc trước
hắn ta làm nghề
hoạn lợn,
thiến heo. Nhờ
sống trong một
chế độ
“Hồng hơn
Chuyên”, ”Văn Hay Chữ
Tốt không bằng
học Dốt
mà lắm Quyền”,
nên hắn chờ
cơ hội
thực hiện
quyền lực
man dã của mình để
làm nấc thang lên chức.
So với những
người lãnh
đạo miền
Bắc khác, hắn
ta là một trong những
kẻ ít học
nhất, thua
về học
vấn thì tìm cách gỡ,
theo câu “thua Me thì gỡ
Bài Cào”, nhưng trớ
trêu thay bí danh của
hắn ta lại
là “Số Bù: 10”. Nếu
đánh bài cào thì ván nào hắn cũng thua, nên khi được
dịp vào miền
Nam, hắn “Cào” hết
tài sản của
người dân bằng
cách tạo ra một
chiến dịch
Cải Tạo
Công Thương Nghiệp
để tịch
thu tài sản và triệt
tiêu các doanh nghiệp, thương
nghiệp, lùa dân đi kinh tế
mới v.v... Miền
Nam trước đây là một
vựa lúa cho cả
nước và Đông Nam Á, nay họ phải
ăn bo bo, cơm trộn
với khoai sắn,
nhiều người
chết vì bệnh
tật, đói khổ…,
Những đồng
chí cấp cao như
anh Tô, anh Mười Cúc, Sáu Dân… thấy
hắn hành hạ
người dân quá trớn,
nhưng cũng
phải bó tay, nghe hắn
tuyên bố là hắn làm
đúng tinh thần
Bôn-Sê-Vích theo phiên bản của
Mao, Sít, Lê… là quan thầy đồ
tể ở
hai quốc gia phương
Bắc. Sài Gòn, Hòn Ngọc
Viễn Đông, và các thành phố
khác ở miền
Nam trở nên thành phố
chết,
đó là thảm họa
về kinh tế
của anh “Số
Bù” gây ra mà nhiều năm sau vẫn
chưa vực
lên được.
Đất nước lúc bấy
giờ thống
nhất, sau
khi hai bên đã có người thắng,
người thua.
Nhưng
trên thực tế, toàn
dân là kẻ chiến
bại, là nạn
nhân của những tay lãnh
đạo hiếu
chiến, đã mượn
súng, xin đạn nước
ngoài, xúi dân mình bắn vào nhau. Thay vì, cuộc
chiến huynh đệ
tương tàn chấm
dứt, người
dân hai bên cần chung sức,
góp công xây dựng lại
cơ đồ
đất nước,
thì những
kẻ lãnh đạo đã không
dùng trí nhân thay cho cường bạo,
lại reo hò trên chiến
thắng, hành hạ,
trả thù kẻ
bị thua, dồn
họ đến
cảnh khốn
cùng vì thế mà phong trào vượt
biên lại càng bùng phát.
Người
trí thức,
kẻ thương
nhân còn khả
năng vật chất,
họ sẵn
sàng đánh “tù tì” với sinh
mạng của
mình, băng rừng, vượt
biển ra khỏi
nước, dù dọc
đường có vùi thây trong rừng
sâu, bỏ xác dưới
đáy biển. Mặc
kệ, cứ
đi, có điều kiện
là đi, dù sống hay chết.
Ở Long Khánh, vài người
quen đến nhà Hòa ngỏ
ý muốn bán nhà, đất
hay vườn cây ăn trái với
một giá "rẻ
mạt". Ban đầu
họ nói cần
tiền để
làm một việc
gì đó, về sau, họ
công khai nói thẳng là cần
tiền để
đi vượt biên vì thằng
con đến tuổi
nghĩa vụ, hoặc vì lý
do nào khác... Hòa đem chuyện này hỏi
ý kiến ông Ba, ông nói: "Người
ta bán đất, bán vườn
giá rẻ vì
họ cần
tiền để
thực hiện
mục đích của
họ, nếu
anh có khả năng thì nên mua giúp họ,
việc giấy
tờ sang tên thì đã có Vinh nó lo". Ông nói tiếp:
"Năm 1954, vợ chồng
ông cũng lén bán rẻ
đồ đạc
trong nhà mới có đủ
phương tiện
mang cả gia đình đến
bến tàu, vào Nam còn có chút
ít vốn làm ăn!”. Hòa nhớ
lại thuở xưa ở
quê, anh cũng đến nhà cụ
Nghĩa, nài nỉ xin bán nhà cho cụ
để vào Nam, nên mới
có cuộc sống
thoải mái như ngày
hôm nay.
Với số
tiền dành dụm
từ bấy
lâu nay, Hòa chỉ mua hai mảnh
đất của
hai gia đình có con trong tuổi nghĩa vụ.
Vài người khác nghe anh mua đất,
họ đến
nhờ anh mua dùm. Không còn tiền,
anh phải đến
nhà chị Tấm
(chị bán cháo tặng
tô cháo cho cha con anh) trình bày sự việc
mua đất, vườn
cùng với ý kiến
của ông Ba Hồng,
chị cũng đồng
ý với ông Ba “Nên giúp người
cần giúp”. Thế
rồi anh làm trung gian, mua cho chị
một vài khu vườn
lớn đã có sẵn
cây ăn trái,
Thời gian qua mau, thời
“bao cấp” cũng qua theo. Bấy
giờ người
miền Bắc
bắt đầu
tràn vào Nam, từ Bến
Hải đến
tận Cà Mau. Giá nhà, giá đất
càng lúc càng tăng lên vùn vụt, nhất
những nơi
thị tứ.
Bến xe Long Khánh bây giờ
không còn là một là một
bến xe đò nhỏ
nơi tỉnh
lẻ. Quanh bến
xe dọc theo quốc
lộ, những
dãy nhà có tầng, bê tông, san sát gần
nhau, phía sau có vài ba biệt thự
ngói đỏ khuất
trong hàng cây hoa giấy rộ
hoa, lẻ tẻ
vài chiếc ô tô con hay những
xe gắn máy bóng láng.
Chị Tấm
bây giờ là một
bà chủ vựa
trái cây, chị không còn là người
đàn bà góa phụ không con của
một hạ
sĩ quan “Ngụy” đã tử
trận. Lúc đó, một
thân, một mình, chị
về
ở với
mẹ, lập
quán cháo nhỏ ngoài bến
xe bán buôn qua ngày. Nhà chị
ở gần
trường học
của thằng
Thảo trong thành phố,
cha con anh Hòa ở với
ông Ba trong miệt xóm xa. Mỗi
ngày anh hai bận đi, về
chở con đến
lớp học
làm giảm thời
gian, năng suất làm việc.
Hòa gửi nhờ
thằng con
ở nhà chị
Tấm gần
trường. Những
ngày cuối tuần
hay ngày nghỉ lễ
anh đến chở
nó về. Lâu ngày, Thảo
ham chơi với
bạn bè, nên có lúc nó không về
nhà với anh. Nhớ
con, anh đạp xe lên nhà chị
Tấm thăm con, có khi được
mời ăn cơm,
nhấm nháp chút rượu
rồi sa đà ngủ
lại. Phần
Thảo
ở lâu trong nhà chị
Tấm, nó quen hơi,
những người
lối xóm xúi nó gọi
chị Tấm
bằng Mẹ
Tấm, chị
chỉ mỉm
cười. Lâu ngày rồi
cũng qua, cha con anh Hòa trở thành “người
nhà” của chị
lúc nào không hay biết. Hoàn cảnh
cuộc sống
đã đổi khác, người
chị bây giờ đầy
đặn,
da chị căng
nõn như
chiếc bánh men được
trộn với
bột nở,
nhưng lòng thương
người, tính rộng
rãi của chị
cũng vẫn như
thuở trước.
Thảo học
xong trung học phải
chuyển vào Sài gòn học
tiếp. Ông Ba dẫn
nó vào gửi
ở nhà cô em học
hành với mấy
đứa cháu cùng lứa.
Thảo học
giỏi, chuyên cần,
hiền lành giống
bố, ngoài giờ
học nó giúp đỡ
những công việc
trong gia đình, nên được mọi
người thương
mến.
Từ ngày Hòa về
sống chung với
chị Tấm,
ông Ba sống
ở nhà một
mình. Người con trai du học
bên Đức đã lập
gia đình với một
cô gái người bản
xứ, anh
ấy muốn
bảo trợ
ông qua Đức
ở với
gia đình anh, nhưng ông nói già rồi
ở đâu quen đó. Ông muốn
ở lại,
chăm sóc mộ phần
gia đình và khi chết ông muốn
được chôn cùng nơi
với vợ.
Ông xây một cái am nhỏ
trong khuôn đất nhà ông, ngày ngày tụng
kinh, ngồi thiền.
Việc vườn
tược ông giao cho Hòa chăm sóc.
Vinh xin nghỉ hưu
sau một thời
gian dài làm chủ tịch
xã, nhờ tính tình hài hòa
ảnh hưởng
từ đức
tính nhân hậu của
cha mẹ và khoáng đạt
của ông Ba. Lúc làm việc,
Vinh hay giúp đỡ mọi
người, được
dân thương, người
mến. Ngay cả
những người
hậu nhiệm
cũng trọng quý anh, gặp
việc khó khăn, họ
cũng nhờ anh góp ý, phụ
giúp, nên anh vẫn được
các cán bộ trong xã trọng
mến.
Thằng Thảo
bây giờ là sinh viên năm thứ
ba ngành kỹ thuật
điện, Thảo
chăm chỉ học
hành, hiền lành. cao lớn,
đẹp trai hơn
cha. đặc biệt
cũng có một chùm râu mọc
ngược ngắn,
gọn, nhỏ
hơn râu cha, lúc nói chuyện
những sợi
râu nhỏ đong đưa
qua lại như
sợi tơ
bay trong gió.
Anh Năm Lộ một
thời làm mưa,
làm gió với mọi
người trong làng. Với
chức chủ
tịch xã, anh có quyền
phê chuẩn lý lịch,
giới thiệu
việc làm, ghi danh vào trường
học cho người
dân trong xã nên mọi người
đều kiêng sợ
anh, anh cũng có thói ưa đánh người
vô cớ... Dân làng mỗi
lần đi trên đường,
xa xa thấy dáng anh đi đối
diện là họ
"bẻ cua", đổi
hướng, hay chuyển
qua bên lề khác để
không chạm mặt
anh. Về sau những
thanh niên trong làng đi học trên phố
hay ngoài tỉnh. Sau khi ra
trường,
họ có việc
làm, có chức,
có vụ
trong tỉnh nhà, họp
nhau tố cáo những
xách nhiễu của
Năm Lộ lên huyện
ủy và tỉnh
ủy, sau đó Năm Lộ
bị "hạ
tầng công tác". Kể
từ đó, gia cảnh
của Năm Lộ
cũng dần dà sa sút.
Gần cuối
hè năm ấy, thằng
Thảo sắp
vào Sài gòn học năm cuối.
Công việc bán buôn trái cây của
chị Tấm
cũng đã rảnh rỗi,
chị đề
nghị về
thăm quê Hòa một chuyến.
Nhiều năm sống
chung với anh mà chị
vẫn chưa
thấy mặt
mũi người thân nào vào thăm anh. Nghe chị
nói, Hòa mỉm cười.
Chị hỏi
anh về các người
thân thuộc để
chị mua sắm
quà cáp biếu xén họ,
nhìn bà con.
Từ lúc xa quê, Hòa vẫn
mang mặc cảm
là kẻ ăn cắp
gạo
ở hợp
tác xã, anh cũng sợ Năm Lộ
biết nơi
ở của
anh trong Nam, mang công an vào bắt, nên mỗi
lần về
thăm quê, anh rất kín đáo. Anh thuê phòng trọ
ở thành phố,
đi xe thồ đến
nhà người bạn
thân mượn chiếc
xe đạp, đội
nón lá thực thấp
để che mặt,
đạp xe ra thăm mộ,
thắp nhang, rồi
đạp xe đi qua các đường
cũ, lối xưa,
sau đó về lại
phòng trọ trên phố.
Anh nhờ người
bạn mang tiền
biếu những
người đã giúp anh, nhưng
phải nói tiền
đó anh gửi từ
miền Nam. Hòa luôn tránh gặp
Năm Lộ vì không muốn
dây dưa những
rắc rối
với cái quá khứ
đau buồn của
anh.
Chuyến về
thăm quê lần này cùng Mẹ
Tấm và Thảo.
Biết Năm Lộ
đã mất chức
nên Hòa ở lâu hơn,
xây lại và sửa
sang phần mộ
gia đình cùng thăm viếng họ
hàng, những ân nhân đã giúp anh khi anh gặp
hoàn cảnh đau thương,
khốn cùng.
Trong thời gian chờ
đợi xây cất,
chỉnh trang phần
mộ gia đình. Hòa mượn
hai chiếc xe đạp,
một chở
mẹ Tấm,
một cho Thảo
cùng đạp xe lòng vòng theo sau những
nơi thời
thơ
ấu còn dấu
mòn trong kỷ
ức. Nơi
cha mẹ sinh ra anh
ở một
góc xóm, thuở xa xưa
ấy là môt mái nhà tranh bao quanh bởi
những chòm lau hoang dại,
nay mọc lên vài ngôi nhà dưới
bóng mát hàng cây soan. Những thửa
ruộng nơi
anh từng đi mót lúa sau mùa gặt
góp nhặt được
vài lon lúa, giả gọt
nấu thơm
cho buổi cơm
chan mắm. Những
cánh đồng cỏ
xanh um sau mùa mưa, anh phụ
cha cắt cỏ
cho bầy bò ông phú hộ.
Nhìn cái ao cạn nước,
anh nói đã từng thả
câu kiếm dăm ba con cá rô về
kho mặn ăn dặm
được vài ngày. Qua chiếc
cầu nhỏ
trên dòng suối, anh kể,
thuở đó chưa
có cầu, những
ngày đi học, mùa hè nước
cạn thì lội
bì bỏm, đến
mùa đông nước tràn đầy,
đứng trên chiếc
bè làm từ bốn
thân chuối ghép lại,
dùng gậy tre chống
qua bờ bên kia. Những
chiều mùa đông đi học
về, vô ý làm bè chòng chành nước
văng ướt quần
áo, lạnh run, chạy
nhanh về nhà, ngồi
bên bếp lửa,
mẹ tìm quần
áo khô cho con thay. Hôm ngang qua bãi sông, anh dừng xe kể
chuyện, buổi
trưa hôm
ấy đi qua bải
dưa, thấy
một trái dưa
gang bị chim ăn gần
một nữa,
anh ngắt cuống
dưa phủi
bụi rồi
đưa lên miệng
cắn, nhai dòn. Chất
ngọt đang vào cổ
họng thì ông chủ
dưa cầm
cây roi dấu phía sau lưng
đi tới, không nói, không năng, ông vung roi quất
vào người anh túi bụi.
Ôm vai chạy u về
nhà. Cha anh thấy
vết bầm
trên cánh tay, hỏi, anh kể
lại tự
sự việc
vừa qua, nghe xong ông cầm
roi bắt nằm
xuống vừa
quất roi vào mông, vừa
nói: “Cái gì không phải của
mình thì đừng rờ
tới”. Hôm đó anh bị
hai trận đòn. Mẹ Tấm
nhìn anh nói “chỉ ăn có nữa
trái dưa mà bị
hai trận đòn sao anh!” Trả
lời: “
Nữa trái dưa
lúc đó là cả thức
ăn bửa cơm
chiều của
một gia đình làng quê anh đó!”. Mẹ Tấm
nói “Ở vựa
trái cây em, trái nào mất cuống,
là em quăng vào giỏ rác!”. Khi đi ngang qua đình làng có cây đa (nơi
anh bị Năm Lộ
treo ngược đánh) là trụ
sở xã, anh nói: “Đình làng này trước
kia là nơi đấu
tố các địa
chủ. Lúc nhỏ,
anh chứng kiến
cảnh một
người con gái đấu
tố cha. Ngày đó người
ta trói một ông già lớn
tuổi dưới
gốc cây đa này, một
người thiếu
nử, vừa
đi học lớp
cán bộ
ở huyện
về cầm
một cây gậy
đứng trước
mặt cha, cô chỉ
vào ông, quát lớn: “Thằng
địa chủ
bốc lột
kia, đã đến ngày mày phải
đền tội
với nhân dân…” rồi
cô vung gậy đánh vào đầu
vào người ông đến
lúc ông ngã xuống hai tay còn bị
trói. Đêm đó, ông nằm chết
dưới gốc
cây đa này. Về sau, người
dân không còn thấy cô
ấy trở
về làng nữa.
Còn việc anh bị
Năm Lộ treo ngược
đánh thì anh không bao giờ “hé răng”. Ngay
cả thằng
Thảo cũng không biết
chuyện anh bị
đòn đau vì khi ấy nó đang bị
sốt li bì nằm
ở nhà.
Thằng Thảo
lẽo đẽo
đạp xe theo bố
và mẹ Tấm,
một hai ngày rồi
tự cảm
thấy thừa
thãi. Nó xin anh cho nó đạp
xe một mình, tự
chạy vòng veo khắp
làng xã và thôn xóm khác với vẻ
đầy phấn
khích. Sáng đạp xe đi, chiều
tự đạp
xe về khách sạn
ở phố.
Đi một mình ít ngày rồi
cũng chán, Thảo
ước có một
người nào,
làm quen nói chuyện hay cùng đi chơi
cho đỡ buồn
tênh.
Một buổi
trưa, đang khát nước,
tình cờ đạp
xe ngang qua nhà có hàng dậu thấp,
một cô gái cầm
cái gáo nước đổ
vào ấm. Thảo
dừng xe, xin nước
uống, cô
ấy bảo
nước này lạnh,
không uống được
đợi đun
ấm nước
vối nóng rồi
hãy uống. Dắt
xe vào sân, Thảo nhìn sững
cô gái, nghĩ thầm: "người
sao mà xinh thế!", còn cô gái cũng nhìn Thảo,
thầm nghĩ: "người
ở đâu tới
sao mà “oai” nhỉ!".
Cô mời anh ngồi
trên một chiếc
ghế cũ
ở dưới hiên,
chờ
ấm nước
vối sôi đãi anh. Thời
gian chờ đó Thảo
“gây” chuyện. Anh
nói: “Anh tên Thảo là sinh viên
ở Sài gòn theo bố
về thăm quê”. Cô kể:
“Cô tên Hương
vừa tốt
nghiệp trung học
hè này, đang xin việc làm mà chưa
thấy nơi
nào gọi”.
Thảo nhìn quanh nhà, hỏi
“sao nhà vắng thế”.
Hương nói là bố
dẫn mẹ
đi khám bệnh trên tỉnh
xa, vài ngày nữa mới
về. Ngồi
nói chuyện sa đà
mà quên mất vạc
nắng chiều
đã lịm tắt
trên thềm sân.
Nhìn ra xa, mặt
trời đã khuất
sau chỏm tre neo gió. Nhìn vào nhà, trên bàn vẫn
còn một chén cơm
ăn dở. Thảo
nói lời tạm
biệt và xin hẹn
ngày mai cho phép được
gặp lại.
Đang buồn vì mẹ
bệnh,
ở nhà một
mình lo nghĩ vu vơ không ai chia sẻ,
có người để
nói chuyện quên nỗi
buồn mẹ
ốm là hợp
với hoàn cảnh
lúc này, nên Hương gật
đầu.
Những buổi
hẹn kế
tiếp, ngồi
nhà nói chuyện mãi cũng nhàm, Thảo
nhờ Hương
dẫn đi ngắm
cảnh làng. Đã
có sẵn thiện
cảm với
khuôn mặt chữ
điền, giọng
nói nhẹ nhàng lịch
sự, không đượm
mùi tuyên truyền chính trị như các
“anh giai” khác trong làng. Mấy
ngày nay ở nhà mãi cũng
cuồng chân, lời
“nhờ vã”
của Thảo
như mùa nắng
hạn gặp
ngày mưa.
Có người
rủ đi chơi,
dại gì không chịu.
Thế là. Hương
và Thảo, mỗi
người một
chiếc xe đạp
song đôi trên con đường rợp
hàng phượng vĩ, trên
cành những
cánh hoa đong đưa chúm
chím ở dưới
nắng vàng chói chan, vang vang tiếng
ve khẽ khàng như
chào đón người cố
hương trở
về làng cũ. Chiều
nắng hanh hao, đạp
xe qua những cánh đồng
lúa trổ bông như
dải lụa
vàng, vông vang màu nắng, chênh chang hương
lúa miền quê.
Ngang qua hồ
sen, những cánh sen khoe nhụy cuối
hè, tỏa
mùi hương
ngan ngát dịu dàng.
Mỏi chân, dừng
lại, ngồi
dưới bóng đa, hong khô giọt
mồ hôi trên sống
mũi, ngọn gió phôi
pha đưa
làn tóc bay qua chạm mặt
chữ điền,
thoáng hương bồ
kết.
Hai bờ
vai gần sát chạm
nhau, thời
ban sơ quen biết
còn hồn
nhiên, vô nhiễm. Đạp
xe qua con suối, bước
theo bờ
mương, thả
bộ dưới
bóng dừa…
Đến bến
đò, ngồi thuyền
sang sông, dạo
chơi thôn xóm khác. Dọc
đường ghé những
quán nhỏ, lúc khát thì uống,
lúc đói thì ăn. Rồi vài ngày sau, chữ
tình như sợi
tơ vi diệu, rung
động con tim của
lứa đôi nhịp
nhàng theo dòng nhạc giao
hưởng tình ca. Mỗi
buổi chiều
về, nắng
hoàng hôn nhuộm tím bãi đồi
xa, là mỗi lần
hai đứa bịn
rịn chia tay về
nhà, mỗi người
mang trong lòng nỗi xốn
xang nhơ nhớ
như người
quẫy gánh mang theo những
cơn mơ
trong giấc mộng chập
chờn.
Ngày về đã đến.
Sáng sớm, Hương
đạp xe ra bến,
tiển Thảo
với đôi mắt
đỏ au, rơi
rướm. Hương
đến chào bố
mẹ Thảo,
rồi đưa
một bó lá vối
cho Thảo, nói: “Anh về
nấu nước
vối uống
để nhớ
Hương!”. Mẹ
Tấm đứng
nhìn hai đứa quấn
quit không muốn rời
nhau, bước lại
cầm tay Hương,
nói: "Con gái nhà ai mà dể thương
quá hè! Hèn gì mấy ngày nay thằng
Thảo có vẻ
gì lạ lạ!”
Về lại
Long Khánh, chỉ còn hơn
một tuần
nữa là Thảo
phải vào Sài gòn học
tiếp, thế
mà không thấy Thảo
sửa soạn
gì việc đi học.
người cứ
ra vô đơ đơ,
thờ thẩn.
Mẹ Tấm
“biết chuyện”,
nhưng vẫn
vờ hỏi,
Thảo trả
lời: "Lúc
ở bến
xe, Hương nói, mẹ
Hương đi khám bệnh
ở tỉnh vừa về
đêm trước đó, bác sĩ cho biết
bà bị ung thư
ngực giai đoạn
1, nếu giải
phẫu sớm
có thể chửa
lành. Chi phí giải phẩu,
thuốc men, nằm
viện cao quá. Bố
Hương có ý bán nhà chữa
bệnh cho mẹ
rồi dời
đến một
nơi thâm sơn,
cùng cốc nào đó”. Hương nói: “Nghe
biết mẹ
bệnh nan y, buồn
quá sẽ không còn muốn
liên lạc với
con nữa. Mẹ
bệnh mà con cái vẫn
vui trong tình yêu là đồ bất
hiếu!". Mẹ
Tấm hỏi:
"Bây giờ con tính sao?" Trả
lời: "Con muốn
bố mẹ
giúp về chuyện
con và Hương, nếu
có khả năng mẹ
có thể giúp cho mẹ
Hương" Mẹ
Tấm nói: "Việc
này phải hỏi
ý bố, nếu
bố bằng
lòng, mẹ sẽ
giúp con".
Hai ngày sau, bố mẹ
và Thảo lại
trở về
quê một lần
nữa. Hôm sau, Thảo
đến nhà Hương,
bước vào cổng,
rón rén, đứng nép bên cánh cửa,
Thảo nghe tiếng
rù rì nói chuyện trong nhà, tiếng
người đàn bà nói: "Thôi, ba lượng
vàng nhiều quá, nhà bán xong biết
có hơn bao nhiêu không? thôi thì
ở nhà chạy
thuốc Nam!". Người
đàn ông nói: “Hôm đó tôi năn nỉ họ
tính ít lại, nhưng
họ cứ
khăng khăng bảo, tiền
bác sĩ một lượng,
tiền thuốc
một lượng,
tiền công tất
cả y tá chăm sóc một
lượng, chưa
kể tiền
“boa” “. Nghe rồi, Thảo nhẹ
nhàng bước
ra trước cửa
nhìn thấy bố
mẹ Hương
đang ngồi trên chiếc
ghế gần
bàn, mặt quay vào trong nói chuyện
với nhau. Thảo
cất tiếng
chào và xin gặp Hương.
Mẹ Hương
nghĩ chắc là người
đến báo tin về
việc làm Hương
đang xin, nên nói: "Hương,
nó bệnh mấy
hôm nay, anh gặp nó về
công việc nó đang xin phải
không?" rồi bà đi vào trong gọi:
"Hương
ơi, có người
muốn gặp!".
Một lát sau, Hương
bước ra, chăm chăm nhìn Thảo,
cô chạy đến
gần,
nhìn kỹ rồi
hét lên: "Anh đã về miền
Nam rồi mà!". Thảo
nói: "Anh ra lại cùng với
bố mẹ
để thăm Hương.
Bố mẹ
anh muốn được
gặp hai bác để
nói chuyện về
chúng mình!". Lúc này, Năm Lộ
nhìn kỷ khuôn mặt
Thảo, tự
dưng mặt
ông dần xanh tái, nói năng
ấp úng (sao nó giống
thằng Hòa quá), còn Hương
thì khuôn mặt đang xanh xao thì trở
nên hồng hào.
Qua ngày mai, Bố và mẹ
Tấm theo Thảo
đến nhà Hương.
Gần đến
cổng nhà. Bố
Hòa khựng lại,
mẹ Tấm
hỏi: "Anh có sao không?" Hòa ngập
ngừng đáp: "Không!", rồi
chậm chạp
bước theo đi vào nhà sau cùng.
Trong nhà, bốn người
lớn gặp
nhau chào hỏi. Năm Lộ
nhìn sững Hòa một
hồi lâu, rồi
muốn quay lưng
đi ra nhà sau. Lúc ấy, Má Tấm
đứng trước
mặt ông, hai tay cầm
một hộp
quà đặt lên bàn và nói: "Thưa
anh chị, chúng tôi có nghe cháu Thảo
cho biết, chị
vừa từ
bệnh viện
về, nên chúng tôi từ
trong Nam vội ra thăm và có chút quà biếu
anh chị". Bốn
người đều
yên lặng. Mẹ
Tấm tiếp:
"Sẵn đây chúng tôi xin phép anh chị
cho cháu Hương và cháu Thảo
làm quen để thành bạn
lâu dài với nhau!". Ngừng
một chốc,
mẹ Hương
nói: "Về phần
quà cáp thì chúng tôi không dám nhận, còn chuyện
gì thuộc về
cháu Hương, cho tôi
hỏi ý của
cháu!", rồi
bà quay vào trong nhà gọi: "Hương
ơi, ra bố
mẹ gọi!".
Như đã chuẩn
bị trước,
Hương đi ra với
bộ áo dài trắng,
đứng sau lưng
mẹ, Mẹ
Hương quay lại
hỏi Hương:
"Ông bà này muốn con và cháu Thảo
làm bạn lâu dài với
nhau, ý con thế nào?" Hương
mặt tươi
hơn, gật
đầu trả
lời: " Dạ!
Bố mẹ
đặt đâu con ngồi
đó!". Vợ chồng
Năm Lộ tươi
cười. Nghe xong mẹ
Tấm nhìn Hương
hói: “Ý con thế nào?”. Hương
trả lời:
“Bố mẹ
cháu đồng ý thì con theo!”.
Không khí trong nhà bỗng nhiên
thân mật.
Mẹ Tấm
nhìn ba người đang tươi
vui, nói: "Như thế
là anh chị và cháu đã chấp
thuận!".
Mẹ Tấm
quay người lấy
cái túi xách của chị,
mở ra mang hai chiếc
nhẫn, rồi
xin phép đeo vào ngón tay hai đứa. Xong mẹ
Tấm nói: "Gói quà trên bàn, bây giờ
không phải là quà thăm bệnh,
nó đã trở thành lễ
vật trong buổi
dạm hỏi
này cho hai cháu. Xin ông bà mở ra xem, cho chúng tôi biết
ý kiến". Hộp
quà mở ra: hai xấp
vải kim tuyến,
một xấp
tiền chẵn
không bao thư, 3 lượng
vàng sáng chói. Năm Lộ nhìn các món quà một
hồi lâu, rồi
đến trước
mặt Hòa chắp
hai tay cúi đầu như
chuẩn bị
quỳ xuống. Hòa vội
đứng dậy
tránh qua một bên, đưa
tay ra đỡ Năm Lộ,
nói: "Bây giờ chúng ta là sui gia với
nhau rồi!". Thừa
lúc vui, Mẹ Tấm
đến ôm Hương,
vui hỏi: " Thảo
mê con vì con xinh, con hiền, còn con thì thích Thảo
về cái gì?" Trả
lời: " Con thích chùm râu mọc
ngược của
anh ấy, chùm “râu duyên!". Mọi
người đều
cười, riêng Năm Lộ
cũng cười nhưng
miệng hơi
lệch xuống.
Sau khi tiễn chân vợ
chồng Hòa ra khỏi
cổng. Quay vào nhà, mẹ
Hương đến
trước bàn nhìn chăm chăm gói quà đã mở:
vải, tiền,
vàng. Ôi! Cả cuộc
đời chị
chưa hề
thấy cái “hợp
thể” này bao giờ,
chị thầm
nghĩ: “Sắp chết
chìm lại vớ
được cái phao”. Vừa
lúc đó, Hương cũng bước
vào cửa, chị
ôm Hương vào lòng, nói: “Đây chính là cái phao của
mẹ đây”. Chị
nhìn chồng nói tiếp
“ Anh Hòa vào trong Nam tìm cuộc sống
khá giả, còn mình
ở đây tìm thêm kẻ
thù. Mỗi lần
ra ngoài gặp người
quen, họ nhìn mình với
đôi mắt căm căm”. Hương
đang được mẹ
ôm, nhẹ gỡ
tay mẹ, nói “Con nghe nói
ở trong Nam, mấy
ông, bà bác sĩ học
hành dài năm, dài tháng bằng sách Tây, sách Mỹ.
Bệnh viện,
dụng cụ,
thuốc men cũng từ
Tây, từ Mỹ.
Trong đó, bác sĩ là bác sĩ, y tá là y tá chớ không phải
y tá vô đảng lâu năm thì phong lên làm bác sĩ. Không biết
mẹ được
chẩn đoán bệnh
bởi mấy
ông “bác sĩ y tá” đó không?. Mẹ nên đi Sàigòn khám bệnh
lại, xem lại chẩn
đoán của bệnh
viện trong
ấy thế
nào, rồi điều
trị? Con đi với
mẹ gặp
anh Thảo
ở đó, nhờ
anh ấy dẫn
mẹ đi viện,
luôn tiện xem trong ấy có
dễ sống
hay không, thì tính việc chuyển
vào trong đó ở!”. Nói đến
đây thì đôi má của Hương
ửng hồng,
còn khuôn mặt của
chị Năm trước
đây âu sầu như
chiếc lá héo khô, bây giờ
tươi lên như
mới vừa
được nhâm nước mát.
Vài giờ trước đây, chị
nghĩ Hương chỉ
là đứa con
gái trẻ
con mà sao nó vừa “nhón
chân” lên, trở nên một người
thiếu nữ.
Năm Lộ từ
lúc gặp gia đình Hòa không nói một
lời nào, giờ
mới lên tiếng:
“Tôi đã có ý định dời
vào Nam từ lâu, nhưng
không có điều kiện,
không có người quen và không biết
làm gì khi vào trong ấy!”.
Chiều đến,
Hòa tới nhà người
bạn thân (người
đã cõng Hòa về nhà sau khi bị
đòn đau) để từgiã,
mai về lại
Long Khánh. Nói chuyện với
bạn, Hòa thuật
lại việc
sáng nay vợ chồng
Hòa đã dạm hỏi
con Hương, con của
Năm Lộ cho thằng
Thảo. Người
bạn mỉm
cười, nói: “ Chuyện
dạm hỏi
con Hương cho thằng
Thảo con mày sáng nay, vợ
chồng Năm
Lộ đã đi khoe cả
làng này, phân nửa người
làng đã biết rồi,
họ không ngờ
mày rộng rãi như
thế, đa số
họ cũng muốn
dời về
miền Nam để
có cuộc sống
như mày, trong đó có cả
tao. Nhưng
họ cứ
thắc mắc:
- Thằng Năm Lộ
đánh mày một trận
thừa sống,
thiếu chết
mà mày đi làm sui với nó dễ
quá vậy?
- Tại tao muốn
trả
ơn con bé Hương!
Hôm đó mà con bé Hương không can thằng
Năm Lộ thì tao đã chết
đòn với nó rồi!
- Nhưng tại
sao mày “quà” cho vợ chồng
thằng Lộ
nhiều quá vậy?
- Quà càng nhiều thì vợ
chồng nó giao con Hương
cho thằng con trai tao càng sớm
hơn!
- Ngó mày thật
thà, không ngờ mày thâm quá.
- Tao chỉ làm theo lời
thằng Lộ,
khi nó đánh tao, nó nói: “Suốt đời
tao chỉ làm chuyện
ngược!”
Mày không nghe sao!. Nói xong, Hòa đưa cho người
bạn một
xấp tiền,
nói:
- Mày muốn vào Nam, tao sẽ
giúp mày. Đây, số
tiền tao
ứng trước
cho chi phí xe cộ và dọc
đường.
Về lại
khách sạn, thấy
mẹ Tấm
đang nằm nghỉ.
Hòa tắm xong, mang một
chiếc ghế
ra hành lang, ngồi ngắm
trăng sao, nghĩ ngợi miên
man về
dĩ vãng.
Sau ngày “Giải Phóng” những
biểu ngữ
giăng trên đường, khẩu
hiệu, những
báo chí, những loa phóng thanh treo trên cột
đèn góc phố… ca ngợi
tung hô Đỉnh Cao Trí tuệ,
Cái Nôi của Nhân Loại,
Chủ Nghĩa Xã Hội
Ưu Việt,
Chủ Nghĩa Tư
Bản đang giẫy
chết… gọi
dân miền Nam là bọn
Ngụy, chính quyền
Ngụy, lính Ngụy…
Năm 1954, đã có hơn một
triệu người
di cư vào Nam. Năm 1975, nước
nhà thống nhất,
tại sao nhiều
người dân miền
Bắc, di
dời vào Nam ở với
bọn Ngụy.
Hàng triệu
người liều
chết vượt
biên đến các nước
tư bản
đang giẫy chết.
Bây giờ các cán bộ,
đảng viên cao cấp
mang con, gửi cháu qua đầu
tư tiền
bạc và
tài sản vào các nước
tư bản
giẫy chết
đó. Phải chăng họ
đã làm chuyện Ngược giống
như hướng
mọc của
chùm râu của mình. Nghĩ tới
đây, Hòa đưa tay sờ
lên chùm râu, lẩm bẩm:
- Không biết! nếu
chùm râu này nó mọc xuôi thì sao?
Mẹ Tấm
thấy chồng
mang ghế ra ngồi
hành lang, chị rón rén bước
theo đứng sau ghế
anh, vừa nghe chồng
lẩm bẩm,
tiếng được
tiếng không. Hai tay chị
ôm vai chồng, nói:
- Anh vừa thì thầm xuôi,
sui gì đó, anh đang nghĩ về ông Sui đó sáng
nay phải
không?. Lúc mình nói chuyện
với ông, em thấy cử
chỉ của ông
ấy thật
là ngộ ngộ.
Hòa trả lời:
- Ừ! anh cũng thấy
ông ấy ngồ
ngộ!
Mẹ Tấm
cất tiếng
cười vui làm Hòa cười
theo. Hòa nhích qua một
bên,kéo vợ cùng ngồi
phần nữa
chiếc ghế
của mình. Nhìn
lên trời cao, vầng
trăng non đầu
tháng hình bán nguyệt
vừa hé lộ
khỏi làn mây trắng
như khóe môi hé một
nụ cười
mĩm chi với vợ
chồng mình. Hòa choàng vai vợ, ngây
ngất nhìn trăng như
chưa bao giờ
anh nhìn thấy một
vầng trăng sáng nơi
quê hương mình đẹp
như đêm nay.
Lữ Long Phước
CHÙM RÂU MỌC NGƯỢC
Subscribe to:
Posts (Atom)
No comments:
Post a Comment