Tuesday, September 23, 2025

SỰ THẬT CUỘC CHIẾN BẢO VỆ QUẢNG TRỊ TỪ GÓC ĐỘ CHỈ HUY CAO NHẤT CỦA MẶT TRẬN

 Lưu Trọng Văn

Bên sông Nhật Lệ sáng ấy tôi uống cafe với Hoàng Ba. Ba giới thiệu mình là con trai của đại tá Hoàng Thiện, chính uỷ kiêm bí thư đảng uỷ Ban chỉ huy Mặt trận bảo vệ thị xã Quảng Trị những ngày ác liệt nhất năm 1972.
Chính uỷ Hoàng Thiện.
Tôi hỏi cuộc chiến 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị à? Hoàng Ba đáp: Ba em bảo không có cái gọi là “81 ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị”, mà chỉ có “81 ngày đêm bảo vệ thị xã Quảng Trị” thôi. Em hỏi vì sao? Ba em bảo vì thành cổ rất nhỏ nằm trong thị xã Quảng Trị, không có đánh nhau trong thành cổ mà chỉ đánh nhau ở thị xã.

Em có gặp một số bạn chiến đấu của ba em bảo vệ thị xã Quảng Trị, họ đều ca ngợi ba em là vị chỉ huy có quyết định sáng suốt nhất khi ra lệnh quân ta rút lui khỏi thị xã. Nếu không có lệnh quyết đoán, trái với chủ trương tiếp tục tấn công thì có thể sẽ không còn ai sống sót ở thị xã Quảng Trị.
Tôi lúc đó muốn gặp đại tá Hoàng Thiện, Ba bảo, ba em sắp 100 tuổi rồi, cụ lúc này sức khoẻ yếu lắm.
Thế rồi những ngày này dư luận nổi sóng về bộ phim Mưa Đỏ. Sự kiện cuộc chiến thị xã Quảng Trị được nhiều cựu chiến binh trao đổi. Hoàng Ba cho gã xem bức thư viết tay của đại tá Hoàng Thiện gửi ban viết sử về cuộc chiến này.
Tôi xin tóm tắt vài đoạn quan trọng của bức thư:
“Trước hết tôi xin mạnh dạn và thẳng thắn mà nói rằng chủ trương giữ Thị xã Quảng Trị là một sai lầm lớn về chiến lược: Duy ý chí không khoa học, không tuân thủ những nguyên lý, nguyên tắc, tư tưởng quân sự mà cha ông đã đúc kết. Nhất là trong điều kiện "Mỹ hoá chiến trường", chủ yếu là bằng hoả lực, nó thừa hoả lực và đầy đủ các yếu tố để sử dụng tối đa hoả lực!
Tôi thấy có những đoạn của cuốn sử như là hư cấu, ví dụ các trận vận động tấn công giữa ban ngày dưới phi pháo của địch… diệt bao nhiêu địch… nghe rất chính quy, rất bài bản, như là diễn tập thực binh vậy! Ta thử tưởng tượng xem, với địa hình trơ trụi như vậy, máy bay trinh sát liên tục trên đầu, toạ độ nó đã chuẩn bị sẵn, nó thừa bom đạn, máy bay đã cài bom, đạn pháo đã lên nòng, ta tập kết quân, tổ chức chiến đấu, tổ chức hiệp đồng thế vào đây mà dám thoát ly công sự đánh vào mũi này mũi nọ. Quân ta vận động chiến đấu dưới sự yểm trợ của hoả lực cấp trên (thử xem được mấy quả pháo, mấy quả cối).
Còn tập kích ban đêm. Phải nói địa hình quân ta không thành thạo, địch ta nắm không chắc, chúng luôn né tránh, nghi binh, nó thừa biết ta là tập kích ban đêm, nó dại gì ở một chỗ cho ta tiêu diệt. Chưa nói chuyện ta tổ chức chiến đấu, tổ chức hiệp đồng xong thì trời gần sáng. Thường trong đánh Mỹ ta phải dùng bí mật bất ngờ, khéo nghi binh bám sát thắt lưng địch mà đánh mới diệt được chúng… Tình tiết thì còn nhiều vấn đề nữa”.
Tôi xin cắt khúc đoạn này để nói về lý do nào ngày 22.7.1972 trung đoàn 95 do ông Hoàng Thiện là chính uỷ được điều động vượt sông Thạch Hãn tham gia cùng trung đoàn 48 bảo vệ thị xã Quảng Trị.
Tháng 3 năm 1972 quân giải phóng tấn công và giải phóng thị xã Quảng Trị. Đây là chiến thắng của quân giải phóng tạo thế mạnh cho đàm phán hoà bình ở Paris. Quân đội VNCH đã tổ chức phản công nhưng thất bại.
Tài liệu của phía VNCH cho biết:
“Mất tỉnh Quảng Trị vào tay bộ đội Bắc Việt, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ngay sau đó đã thay thế hai viên tướng: Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh Quân đoàn 1) và Lê Nguyên Khang (Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến) bằng tướng Ngô Quang Trưởng và tướng Bùi Thế Lân, và tăng cường thêm lực lượng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù, Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân rồi sau đó thêm Lữ đoàn 3 Nhảy Dù và Trung đoàn 4 thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh để phản công tái chiếm các vùng đất đã mất.
Từ ngày 11 tháng 7, dưới sự chỉ huy của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Quân đoàn 1 được tăng cường Lực lượng Tổng trừ bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và được yểm trợ từ xa bởi Đệ thất Hạm đội của Mỹ ở ngoài khơi và Không quân Mỹ đã bắt đầu cuộc phản công tái chiếm Quảng Trị.
Các kế hoạch phản công của quân đội Việt Nam Cộng hoà đã hình thành nhanh chóng, tái chiếm được một số căn cứ cũ như Bastogne, Checkmate và chợ Quảng Trị, Ty Y tế, Ngân Khố, Tòa Án… để cuối cùng đánh bật bộ đội Bắc Việt ra khỏi thành cổ Đinh Công Tráng ở Quảng Trị (ngày 16 tháng 9) sau 81 ngày đêm họ cố thủ tại đây”.
Chính vì cục diện chiến trường thay đổi ban chỉ huy Mặt trận B5 do tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy đã tăng cường trung đoàn 95 của sư đoàn chủ lực 325 vượt sông Thạch Hãn chi viện cho bộ đội bảo vệ thị xã Quảng Trị.
Dinh tỉnh trưởng – nơi ông Hoàng Thiện ra lệnh rút lui.
Đại tá Hoàng Thiện tường thuật tiếp trong thư:
“Sau khi tôi vào Thị xã được khoảng một tuần, thì xảy ra mâu thuẫn chủ yếu giữa tôi và đồng chí Thuý( trong ban chỉ huy). Tôi thì cho rằng tình hình này chủ yếu là phải giữ chốt, còn phản kích thì chỉ khi cần thiết và có điều kiện. Đồng chí Thuý thì lại thiên về vận động tấn công ban ngày và tổ chức tập kích ban đêm. Nhưng bộ đội càng thoát ly công sự thì càng bị tổn thất và mất dần trận địa (thực ra tôi đã từng quần với địch ở đồng bằng QK5), tiếp xúc với nhiều loại đối tượng địch (tôi ở E21 QK5) rất thấm thía là bộ binh địch không mạnh, nhưng nó luôn dựa vào hoả lực để diệt ta, bộ binh luôn né tránh và lừa ta. Suốt thời gian ở Thị xã, tôi chưa thấy được 1 trận vận động tấn công và tập kích nào có hiệu quả, có chăng chỉ dựng lên mà thôi.
Nhưng khốn nỗi trên lại nghe một chiều báo cáo của đồng chí Thuý, còn tôi luôn bị lép vế. Tôi suy nghĩ là Chính uỷ, là Bí thư Ban cán sự phải làm gì đây? Tôi đã ba lần gửi ba bức thư về sư đoàn, nói rõ thực trạng tình hình địch, ta (mỗi lá thư tôi viết cả một tờ giấy liền), lá thư thứ ba tôi có nói: Cần phải quý trọng tính mạng của người chiến sĩ: “hành quân chết, vượt sông chết, tập kết chưa có công sự chết, lạc vào địch chết v.v...”. Thế là tôi được mang bản án đầu tiên là sợ địch, hữu khuynh, không dám tấn công, sợ chết!
Quá bức xúc, ngày 13/9 trước tình thế hiểm nghèo, tôi qua sông đến Nhan biểu để báo cáo thực trạng với đồng chí Việt, tham mưu trưởng sư đoàn. Nào ngờ tôi lại được mang bản án thứ hai là “dao động, lui về sau, bỏ nhiệm vụ”.
Tôi viết thế này là để mong các đồng chí trong Tổng kết phải rút ra được kết luận về sắp xếp tổ chức, chỉ huy, lãnh đạo làm sao cho khoa học, có lý có tình để phát huy được sức mạnh. Người chỉ huy phải luôn bám thực tiễn, dám quyết đoán trước biến động mới. Vấn đề báo cáo phải trung thực và người phải tỉnh táo, phải từ nhiều phía. Hết sức lắng nghe những ý kiến trái với mình".
Về tư tưởng chỉ đạo tác chiến:
"Trong bản Dự thảo nhiều đoạn các đồng chí viết về tổ chức phòng ngự và càng về sau càng có liên hoàn và có chiều sâu. Tôi cho rằng các đồng chí không bám thực tiễn lúc đó. Và tư liệu cung cấp có thể là do các đồng chí ở E48. Rõ ràng là không đúng sự thật. Tôi xin nói ở Thị xã Quảng Trị lúc bấy giờ không có khái niệm về phòng ngự. Từ "phòng ngự" là một từ huý, không ai được phát ra lời. Đụng đến từ ấy sẽ mất đầu như chơi, thì làm gì có tổ chức phòng ngự. Quảng Trị chỉ được nói tấn công, liên tục tấn công, vận động tấn công mà thôi. Trên thực tế thì có hình thành những điểm chốt, cụm chốt. Và chốt cũng để làm cơ sở cho tấn công thì làm gì có liên hoàn và chiều sâu.
Khi ra khỏi Thị xã Quảng Trị, tôi đã mang đầy đủ các tư liệu có mệnh lệnh, chỉ thị về chỉ đạo tác chiến ở Thị xã Quảng Trị để sau này tổng kết sẽ có chứng minh, nhưng tiếc thay đến khi tổng kết từ dưới lên trên tôi không được dự (không hiểu có phải có ai đó sợ tôi nói lên sự thật chăng?!).
Nếu có ý đồ phòng ngự thì với đặc điểm Thị xã như vậy, làm gì phải đem vào trên 10d bộ binh, một số đơn vị binh chủng kỹ thuật làm mồi cho bom đạn địch. Do đó tổn thất lớn cũng là từ đây, thua địch từng bước cũng là từ đây!
Trong dự thảo có nhiều đoạn mô tả ra vẻ rất bài bản, rất chính quy và bộ đội ta luôn sung sức. Thực tế luôn có nhiều loạc choạc và không có Tiểu đoàn nào trụ nổi 10 ngày đâu. Như các đồng bí biết thương vong bình quân mỗi ngày 100…! Tiểu đoàn 4E95, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, đến khi quân số còn 7, d5 còn 15, tôi cho ra sau để thu lượm anh em để củng cố lại, thế là tôi lại được thêm một cái tội là “tự tiện và vô nguyên tắc”.
Tôi muốn nói thêm việc vận dụng lý luận quân sự Đông Tây, kim cổ và lý luận quân sự Việt Nam đã được tổng kết.
- Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng.
- Những nguyên tắc để hạ quyết tâm: Địa hình, địch - ta (và ý định cấp trên).
Thực ra ba yếu tố đó cũng luôn biến động:
- Địa hình bị bom đạn địch cày xới như vậy cũng luôn biến dạng, tang hoang có gì để che khuất, che đỡ?
- Địch "Mỹ hoá chiến tranh" đến cao độ chủ yếu là hoả lực và phương tiện kỹ thuật. Chúng thực hiện huỷ diệt để lấn chiếm. Bộ binh địch luôn dựa vào hoả lực và đi sau hoả lực. Nó làm nát các ổ đề kháng của ta rồi mới cho bộ binh vào.
Trong tình hình như vậy mà ta tổ chức lực lượng, đánh vận động tấn công để tiêu diệt 1, 2 B của địch thì thật là ảo tưởng.
- Ta cũng luôn có biến động cả lượng và chất.
Quân số liên tục hao hụt, cán bộ chỉ huy luôn bị xáo trộn, có khi cán bộ Tiểu đoàn phải chỉ huy 1B, thậm chí 1A, có khi cán bộ Trung đội lại chỉ huy Tiểu đoàn v.v...
Lính lúc đầu vào thì sung sức, được huấn luyện tốt, càng về sau chất lượng giảm dần, có những lứa 16, 17 tuổi, vào bộ đội huấn luyện gấp được 1 tháng vào chiến trường ngơ ngơ ngác ngác, lại vào ban đêm hỏi ở đơn vị nào không biết, hỏi cán bộ Đại đội là ai… không biết. Thế mà lúc nào cũng cứ quân ta anh dũng kiên cường, quân địch tang hoang mang giao động!
Súng, pháo bị tiêu hao dần, đạn không có đủ. Cao xạ gần như bị tê liệt, pháo binh chi viện được tích từng quả, phương tiện thông tin v.v.. Trước thực trạng đó lãnh đạo chỉ huy phải xử trí thế nào? Hay là cứ trước sao, sau vậy.
Đề nghị với các đồng chí cũng nên đem vào Tổng kết.
Phải dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói đúng sự thật.
Tôi cho rằng trong chiến tranh, trong chiến đấu đặc biệt là ở Thị xã Quảng Trị thì sự tổn thất hy sinh là không thể tránh khỏi. Nhưng người lãnh đạo, người chỉ huy phải tìm đủ mọi cách để tránh được tổn thất hy sinh không đáng có. Không nên xây lầu vinh quang trên xương máu của chiến sĩ - Đây là một tội ác.
Tôi thấy cũng cần phải tổng kết để rút kinh nghiệm cho đời sau.
Là một cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chủ chốt trong Thị xã Quảng Trị, tôi luôn tự vấn mình -trước vong linh chiến sĩ, tôi tự thấy mình luôn là người có lỗi.
Tiếc rằng nhiều người còn né tránh, đổ tội cho người khác.
Đau đớn cho tôi, khi ra khỏi Quảng Trị, cấp trên coi tôi như là một phạm nhân chưa được xét xử, nhanh chóng tách tôi ra khỏi đơn vị, đến nỗi tổng kết ở E, bình công khen thưởng, nhận xét cán bộ tôi cũng không được dự. Thậm chí ra đi không kèn, không trống, không được chào hỏi, từ biệt anh em! May thay tôi vẫn luôn được cán bộ, chiến sĩ thông cảm và thương mến. Biểu hiện rõ nhất là hôm gặp ở Thành cổ vừa rồi, đã qua 32 năm nhưng họ vẫn mang một tình cảm sâu đậm.
Kiểm điểm thi hành kỷ luật tôi thì ở E không biết. Chỉ có một cuộc hội nghị Đảng uỷ F, gồm những người ngoài cuộc ngồi đằng sau đồng chí Nguyễn Công Trang Bí thư Đảng uỷ F đọc một bản tội trạng 5, 6 điểm gì đó. Sau đó phân tích phê phán (không rõ tư liệu đó lấy đâu rõ), sau đó có một vài ý kiến vụn vặt, số đông thì ẫm ờ, vì họ cũng không biết nói gì, không cho tôi trình bày gì. Sau đó đề nghị cách chức - mọi người dơ tay. Và sau đó điều tôi lên mặt trận bộ. Khi công bố kỷ luật đồng chí Hoàng Minh Thi phó chính uỷ Mặt trận gặp tôi nói xuê xoa mấy lời rồi giao quyết định”.
Đọc bức thư này, có thể hiểu hơn sự thật không chỉ từ phía những người lính mà từ các chỉ huy. Cuộc chiến giải phóng thị xã Quảng Trị là cột mốc lịch sử của quân đội VNDCCH, nhưng cuộc chiến bảo vệ thị xã này lại là cột mốc lịch sử khác. Nó đặt ra những bài học xương máu giữa duy ý chí tiến công và thực tiễn chiến hào. Đại tá Hoàng Thiện đã bị kỷ luật, bị cho ra ngoài các cuộc bình công, đúc kết lịch sử chỉ vì ông dám nói lên sự thật về những sai lầm duy ý chí của cấp trên, vì ông trước hy sinh của lính và thực tế chiến trường đã dũng cảm quyết định rút lui, chấp nhận cuộc bảo vệ thị xã Quảng Trị thất bại.
Khi gã viết những dòng này, Hoàng Ba - con trai của đại tá Hoàng Thiện - gửi cho gã một tài liệu. Tài liệu này cho biết:
“Ban chỉ huy B5 lúc 13h ngày 13-9-1972 điện thoại yêu cầu trung đoàn phó trung đoàn 48 ra nhận lệnh. Nhưng đến 1h ngày 14-9-1972 lại gọi Hoàng Thiện chính uỷ trung đoàn 95, chỉ huy mặt trận ra Nhan Biểu để cùng sư đoàn phó sư đoàn 325 “tổ chức tiến công”.
Nhưng khi gặp lãnh đạo mặt trận B5 ông Thiện không nghe cấp trên, ông đề nghị rút quân ra khỏi Thành cổ… (Chính vì vậy sau này B5 báo lại ông mới bị kỷ luật). Ông Thiện chống lệnh rồi lập tức tự mình quay lại sở chỉ huy mặt trận chiều 15.9.1972. Tối 15.9.1972 ông Thiện triệu tập cuộc họp với 5 chỉ huy của mặt trận cùng ra quyết định rút quân trong đêm 15.9.1972.
Hai giờ sớm 16.9.1972 bộ đội ở thị xã bơi qua sông Thạch Hãn vì không có thuyền.

Ảnh: Ông Hoàng Thiện (gần 100 tuổi) gặp người cần vụ đã dìu mình vượt sông Thạch Hãn. Nguồn: Đào Xuân Kính

Lưu Trọng Văn
(Nguồn Fb tác giả)

Friday, September 5, 2025

ĐẠI ÚY OSS RAY GRELECKI KỂ VỀ NGÀY 02 THÁNG 9 NĂM 1945

Bút Sử

  

Bối cảnh trước 8/1945.

 

Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chánh Pháp. Ngày 11/3/1945 vua Bảo Đại xé hòa ước 1884 và tuyên bố Việt Nam độc lập đồng thời chấp thuận cùng Nhật nằm trong khối Đại Đông Á. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập 17/4/1945 gồm những thành phần trí thức yêu nước. Chính phủ thực hiện những chương trình đáng kể trong giai đoạn nắm quyền: sửa đổi hành chánh, hợp nhất hai chính quyền bảo hộ và Nam triều, thay thế công chức Pháp bằng công chức Việt, ra lệnh dạy tiếng Việt tại các trường trung tiểu học, dự định thống nhất luật pháp ba kỳ để tránh lạm quyền về hành chánh và tư pháp, tổ chức đoàn Thanh Niên Tiền Phong, chiến dịch chống nạn đói tại miền Bắc (Việt Sử A/B, nxb Trường Thi, Saigon, 1974).

 

Sau vụ 2 trái bom nguyên tử Mỹ thả tại Hiroshima và Nagasaki vào đầu 8/1945, miền Bắc Việt Nam rơi vào một lỗ hổng chính trị (political vacuum). Việt Minh lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh(HCM) lợi dụng tình thế và cướp chính phủ Trần Trọng Kim vào 17/8/1945 và sau đó làm cuộc tập họp lớn hơn vào 19/8/1945 tuyên bố cướp chính quyền.

 

Đại sứ Pháp Jean Sainteny được máy bay Mỹ đưa tới Hà Nội vào 22/8/1945 cùng với một số người trong cơ quan tình báo OSS của Hoa Kỳ, trong đó có chỉ huy trưởng Archimedes Patti. Nước Pháp bị kiệt quệ sau vụ quân Đức chiếm đóng. Sainteny phải dựa vào sự giúp đỡ của người Mỹ.

 

Captain Ray Grelecki kể lại những điều xảy ra khi vừa tới Hà Nội. Những cán bộ Việt Minh đã vui mừng tiếp đón ông một cách thân mật. Đại diện cao cấp OSS ở miền Bắc là Archimedes Patti, trong Nam ông Peter Dewey. Các ông chỉ huy OSS thì được nhận xét là còn quá trẻ, thiếu kinh nghiệm, không hiểu nhiều về tình hình Đông Dương nên đã có những hành động làm lợi cho HCM. Tuy nhiên, sau này khi Patti viết cuốn Why Vietnam và trả lời phỏng vấn ông đã đưa ra cách nhìn khá sáng tỏ mà trước đó ông rất ác cảm với người Pháp.

 

 

Phe HCM đã vận động ráo riết, nhất là với Patti, để mong Hoa Kỳ công nhận khi tập đoàn ra mắt “chính phủ”. Ngày 26/8/1945, một phái đoàn hướng dẫn bởi Võ Nguyên Giáp kéo nhau tới tư thất ông Patti để níu kéo ông “hợp tác” bằng cách trỗ cờ và quốc ca Hoa Kỳ. Những tấm hình được chụp tại hiện tượng này được phổ biến choViệt Minh và người dân về một “thế lực ngoại giao”, nhưng ít ai thấy ra mưu đồ trong việc sắp xếp đó. Hơn nữa, người miền Bắc ngay lúc đó đang ngưỡng mộ Hoa Kỳ, một cường quốc giàu có thắng thế chiến thứ 2, dẹp bọn phát xít Nhật.

 

Người Mỹ tới Hà Nội 1945 nhìn thấy nạn đói (Uncle Ho Uncle Sam)

 

(Why Vietnam, page 234)

 

Đám đông vĩ đại ngày 2/9/1945 tại sân Ba Đình đa số họ không biết HCM là ai, một tên họ rất xa lạ. Họ những tưởng có người Mỹ tham dự cùng đứng trên kháng đài với HCM vì trước đó một tuần, tức 26/8/1945, có cuộc meeting “hoan hô phái bộ đồng minh” mà Việt Minh kêu gọi dân chúng ra thật đông để ủng hộ người Mỹ. Trong sách ông Patti có kể lại rằng ông được lệnh không ra dự. Thế là, như hình trên, chúng ta thấy cả phái đoàn trong ban tổ chức phải kéo tới tư thất của Patti để chụp hình. Patti còn xác nhận là Hoa Kỳ không phải “đồng minh” với Việt Minh. Hai chữ “đồng minh” này cũng được cán bộ mang vào Nam cùng hình ảnh để chiêu dụ thêm người theo cộng sản.

 

Kiểm điểm kỹ thì chỉ có một nhóm nhỏ thuộc OSS đứng dưới cùng đám đông ngày  2/9, trong đó có Patti và Grelecki. Máy bay Mỹ thì lượn qua lại để quan sát mà thôi. Thật ra, một điều vô cùng quan trọng đối với HCM là được Hoa Kỳ công nhận, nhưng không thể có chuyện đó vì Hoa Kỳ và phe Anh Pháp đã thấy ra làn sóng đỏ, mà Nguyễn Ái Quốc đang đại diện tại Đông Dương. Ngay vào 22/ 8/1945 khi Sainteny và Patti vừa tới Hà Nội thì đã thấy cờ đỏ sao vàng, cùng nhiều biểu ngữ ủng hộ Đảng Lao Động núp danh. Trên lý thuyết Đảng Lao Động ra đời 1951.

 

Vào 3/1945 khi HCM gặp viên chức OSS Charles Fenn để nhờ giới thiệu gặp tướng Mỹ Claire Chennault để xin hình, ông Fenn đã nghe ngóng tin rằng HCM là cộng sản nên hỏi HCM có phải là cộng sản không thì Hồ trả lời không, và Hồ cũng từ chối nếu ai nói Hồ chống Pháp.

 

Tình báo Mỹ đã có những làm việc với HCM sau vụ trung úy phi công Mỹ, Rudolph Shaw, đáp xuống vùng Việt Minh khi máy bay bị hỏng vào 11/11/1944. Trước đó vào 8/1942 khi HCM bị phe Tưởng Giới Thạch bắt giam, ông Gauss là đại sứ tại Chungking đã thông báo Bộ Ngoại Giao để điều tra về HCM.

 

The American also knew about Ho, and had done so since the autumn of 1942, long before his release from the imprisonment – Người Mỹ cũng đã biết về ông Hồ từ mùa thu năm 1942, thời gian dài trước khi ông ta được thả ra từ trại giam (Britain in Vietnam, Peter Neville, 2007, page 49).

 

Tổng thống Truman nhận thấy rõ mối đe dọa cộng sản ở Âu Châu và Đông Dương. Hội nghị Potsdam hồi tháng 7 đã cho thấy sự hỗ trợ ngầm của Hoa Kỳ cho Pháp tái chiếm dù chưa hoàn toàn chính thức.

 

Ngày 2/9/1945, HCM đọc những lời của Thomas Jefferson trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ 1776, mà trước đó vài ngày Hồ đã nhờ ông Patti kiểm duyệt xem có nên đọc hay không. Patti cảm thấy hơi bị xúc phạm vì đó là thuộc quyền sở hữu của Hoa Kỳ, nhưng không có luật lệ gì cấm người khác dùng những lời đó đọc trước công chúng. Có lẽ ông Hồ này ngu ngơ (inane, chữ của Patti dùng).

 

Khi trên sân khấu khán đài diễn ra màn ca ngợi Mỹ thì dưới đám đông những toán diễn hành trong sắc phục lần lượt lướt qua lướt lại trước mặt vài người Mỹ này. Không những một vài lần mà nhiều lần như vậy, đến mức ông Grelecki phải bực mình. Ông biết Việt Minh nhìn các ông như là biểu tượng đại diện cho Hoa Kỳ nên đặc biệt gây sự chú ý cho người xem phim. Biểu ngữ trưng tại gần khán đài ghi là “THE DOC LAP” nửa tiếng Anh, nửa tiếng Việt – một loại ngôn ngữ ngoại lai mất gốc mà HCM sáng chế sau 30 năm lăng xăng sống ở nước ngoài. Hồ còn ngạo mạn đổi chữ d thành z, chữ c thành k, chữ y thành i, v.v..

 

(Uncle Ho, Uncle Sam)

Grelecki: People were coming from jungle, from country… Here we were symbolically a few American. They went over and over… Who else would they want reviewing the parade? I am American and captain Patti an American. Symbolically I represented my country.

 

Hội nghị Potsdam xảy ra từ 17/7/1945 -2/8/1945 cho phép Pháp với con số 62 ngàn quân vào Đông Dương. Tướng Anh Douglas Gracey trách nhiệm giải giới tàn quân Nhật tại miền Nam. Sau khi mở cỗng nhà tù cho quân Pháp ra (bị Nhật nhốt) thì sau đó 23/9/1945 đã có một trận tấn công lớn của quân Pháp đối với Việt cộng tại Saigon. Sự kiện này được cho thấy tướng Gracey đã giúp Pháp thực hiện.

 

Đại Úy Grelecki chỉ là một viên sĩ quan tầm thường như ông đã nói. Kiến thức về cộng sản nói chung thời đó người trẻ như Grelecki và Patti còn giới hạn. Ông kể khi trở về Hoa Kỳ, ông có tới trình diện tại War Department cùng với những tường trình (reports). Một viên chức tại đây gọi ông là “con” (son) với ngụ ý là rất còn non kém – Son, you don’t understand the big picture!

 

Grelecki được chỉ dẫn và nhìn thấy những tài liệu mà thế giới cộng sản đang rao truyền: kế hoạch của cộng sản về sự tấn chiếm xâm lăng (communist blueprint for conquest), những mạng lưới chằng chịt hăm dọa sẽ tiêu diệt nước Hoa Kỳ ( Vast networks throughout the free world threatened to destroy the United States)…

 

 

(Uncle Ho Uncle Sam)

 

The big picture! Hình ảnh bi thảm to lớn sau đó là cuộc chiến tranh lần thứ nhất kéo dài 8 năm tại Đông Dương xảy ra tại miền Bắc Việt Nam, và tiếp theo là 20 năm hai miền máu đổ anh em giết nhau chỉ vì Hồ thực hiện công tác cho quốc tế cộng sản, rồi kéo dài cho tới ngày nay giai đoạn mất nước vào tay đàn anh Trung Cộng.

 

Bùi Diễm: It was difficult for us to accept it. We never thought that the French could come back parading on the street of Hanoi – Rất là khó cho chúng tôi chấp nhận việc này. Chúng tôi đã không bao giờ nghĩ rằng người Pháp có thể trở lại với đoàn quân phô trương trên đường phố Hà Nội.

 


Người dân  ngỡ ngàng đứng trong nhà nhìn ra đoàn quân Pháp trên đường phố Hà Nội (Uncle Ho Uncle Sam)

 

Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp tiếp rước quân Pháp về Hà Nội ngay sau khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946. (HCM a Biography, documentary film, 1966, Walter Cronkite)

 

(Không biết ông Bùi Diễm có biết đoàn quân Pháp rần rộ trên phố Hà Nội lúc đó vào 3/1946 là do HCM và Võ Nguyên Giáp tiếp rước mang về? Họ được lệnh trở về Việt Nam tiếp tay với HCM sau khi quốc hội Pháp do Đảng Cộng Sản và Xã Hội nắm quyền làm ra Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946. Dĩ nhiên, trong phim khi được phỏng vấn, ông Bùi Diễm nói đúng vì không ai có thể chấp nhận chuyện trở lại của người Pháp với tính cai trị sau khi vua Bảo Đại đã xé hòa ước 1884 vào 11/3/1945. Người dân Hà Nội gọi rằng “HCM bán nước!” Sỡ dĩ đặt câu hỏi cho cựu đại sứ Bùi Diễm vì cách nay không lâu, vào 5/2013 trên tờ Việt Tide có bài của ông Bùi với tựa đề “ Quan điểm của một người Việt về sự tham chiến của Hoa Kỳ ở Việt Nam” trong đó ông cho rằng người Pháp vì “tham lam” nên trở về tái chiếm.)

 

Trong phim có nói hơn 6 ngàn dận bị chết trong giai đoạn Pháp chiếm đóng này. Nên ghi nhận rằng từ 3/1946 ít nhất cho tới 10/1946 Võ Nguyên Giáp hợp tác với quân đội Pháp lãnh đạo về quân sự để tàn sát những phe cánh quốc gia chống lại cộng sản.

 

Thời de Gaulle (1945) như kể trên đã có chương trình tái chiếm nhưng không chính thức qua hội nghị Potsdam; nhưng tới 9/1946 thì ngòi nổ thực sự xảy ra khi thủ tướng Georges Bidault thuộc khối bảo thủ nắm quyền nước Pháp trong chính phủ lâm thời. 12/1946 cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh bắt đầu xảy ra chính thức và tái chiếm Việt Nam dưới thời của Leon Blum, một người có chiều hướng thiên tả.

 

Ngay lúc HCM ở Pháp vận động trong giai đoạn hội nghị Fontainebleau, nhiều đảng viên cộng sản Pháp cũng đã xa lánh Hồ vì nhiều lý do: HCM không dám nhận mình là cộng sản nên mới có “nghiên cứu Mác Lê”, “Đảng Lao Động”, và nhất là họ khinh ghét khi Hồ gia nhập Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa làm thành viên nằm trong khối Liên Hiệp Pháp thuộc nước Pháp mẹ mà khối thiên tả đang nắm quyền. Trước đó họ nghĩ HCM là người quyết tâm giành độc lập cho xứ của ông ta, nay lại nạp mình hoàn toàn lệ thuộc nước Pháp sau vụ ký Hiệp Ước Sơ Bộ.

 

Đại úy Grelecki đã kết thúc ở đoạn cuối phim khi nhận thức ra một hình ảnh lớn, một đại họa do cộng sản gây ra, mà thới đó, 1945, ông đã không đủ kiến thức để biết, nhưng ít nhất là nhân chứng của ngày 2/9/1945 ông đã nhận thấy một cái gì đó có vẻ tính toán với đầy âm mưu của phe cánh HCM khi náo nức ca ngợi, đón tiếp chào mừng người Mỹ. Tất cả chỉ mong được chính phủ Hoa Kỳ “công nhận”. Để rồi nhiều năm sau người ta mới thấy rõ hơn bản chất cắc kè và xanh vỏ đỏ lòng của người quốc tế cộng sản sừng sỏ HCM.

 

Grelecki: Who else? I think it is natural for him to go to uncle Sam -Còn ai nữa? Tôi nghĩ là rất tự nhiên khi ông ta tìm đến chính phủ Hoa Kỳ. (Uncle Sam, a nick name of the US federal government -Samuel Wilson, a rich merchant in New York in 18th century).

 

Bác Hồ (uncle Hồ) được sử gia giáo sư Bernard Fall cho rằng HCM tự đặt cho mình. Ông Fall nhận xét về HCM : một người rất giảo quyệt, khi ra lệnh hành quyết (execution) những đồng chí của ông ta, ông ta đứng xa để tránh tiếng; một người không có trái tim á đông mà với bộ óc sắt đá được huấn luyện từ phương Tây; ông ta làm việc không ngừng nghỉ để đạt mục đích…(HCM a Biography, 1966, Walter Cronkite)

 

Một uncle thì giàu có, hùng mạnh, đại diện cho khối tự do, một uncle thì cứ lúc nào cũng van xin nài nỉ. Bộ phim cho thấy hình ảnh hai thái cực như trắng với đen, như tự do với độc tài. Thời đó, ngoài việc HCM muốn Hoa Kỳ công nhận, ông ta còn muốn được viện trợ về kinh tế nữa, nhất là giúp nạn đói triền miên kéo dài tại miền Bắc nhiều năm. Có ít nhất 10 lá thư Hồ viết gởi tổng thống Truman và các viên chức cao cấp Hoa Kỳ, nhưng tất cả không được trả lời.

 

Tóm lại, vào giai đoạn vừa cướp chính quyền và thành lập chính phủ liên hiệp, bề ngoài thì hợp tác với một vài thành phần thuộc các đảng phái quốc gia, biểu ngữ hoan hô nghinh tiếp người Mỹ tại Ba Đình ngày 2/9/1945…Tất cả chỉ là hợp tác giai đoạn để thực hiện kế hoạch lâu dài.

 

 

Bút Sử

 

Sources: Uncle Ho Uncle Sam, documentary film,1998, BBC; Ho Chi Minh A Biography, documentary film, 1966, Walter Cronkite; Britain in Vietnam, 2007, Peter Neville; Why Vietnam, 1980, Archimedes Patti; Việt Sử 12A/B, nxb Trường Thi, 1974, Saigon.