Wednesday, April 30, 2025

KHÔNG CÓ HÒA GIẢI KHI KHÔNG NHÌN THẤY NHAU

 Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ

LTS: Hòa hợp và hòa giải dân tộc, dù đã 50 năm sau cuộc chiến, vẫn là một vấn đề nhạy cảm và chưa tìm ra lối thoát đối với người Việt Nam. Nhật báo Người Việt xin trân trọng giới thiệu bài viết đóng góp cho đề tài này của Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ, một sử gia người Mỹ gốc Việt, hiện là giáo sư nghiên cứu tại Trung Tâm Việt Nam và Lưu Trữ của đại học Texas Tech University, Lubbock, Texas. Bài viết không nhất thiết phản ảnh quan điểm của Người Việt. 

Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ. (Hình: VOA)

Di chứng và sự cần thiết của hòa giải

Chiến tranh, cùng với những hệ lụy sâu xa và các chính sách hậu chiến, không chỉ để lại vết thương trên thân thể con người mà còn khắc sâu trong tâm khảm và ký ức của cả một dân tộc. Những di chứng ấy – đôi khi hiển hiện, đôi khi âm ỉ – đã trở thành căn nguyên của sự chia rẽ, nghi kỵ và hận thù kéo dài giữa con người với nhau, giữa người dân với chính thể, đặc biệt là giữa những bên từng ở hai chiến tuyến.

Năm mươi năm sau chiến tranh, những di chứng của thời chiến và hậu chiến vẫn còn hiện hữu – chưa được hóa giải một cách thấu đáo – tiếp tục góp phần duy trì sự chia rẽ, định kiến, nỗi sợ hãi và kỳ thị giữa người với người, giữa cộng đồng với cộng đồng. Bởi vậy, hòa giải và hòa hợp sau chiến tranh không thể chỉ là khẩu hiệu lặp lại trong các dịp kỷ niệm, mà cần là một quá trình kiên trì, đòi hỏi thời gian, sự mở lòng bao dung để cảm thông, và quan trọng hơn hết, là những hành động cụ thể và chân thành. 

Phân biệt giữa hòa giải và hòa hợp

Hai khái niệm hòa giải và hòa hợp không nên bị đồng nhất hay giản lược thành một tiến trình duy nhất. Hòa giải là bước tiền đề – là hành trình can đảm để nhìn lại, nhận diện và hóa giải những khuất tất, đau thương trong lịch sử. Chỉ khi sự thật được công nhận, ký ức được lắng nghe, và con người được tôn trọng với tất cả chiều sâu của căn tính và trải nghiệm lịch sử – thì mới có thể đặt nền móng cho một sự hòa hợp thực sự.

Hòa hợp là kết quả của tiến trình ấy – khi sự khác biệt không còn là lý do để loại trừ, mà trở thành nền tảng cho một cộng đồng cùng chung sống trong tôn trọng, chấp nhận sự đa dạng đầy sắc thái cũng như phức tạp, và cùng nhau xây dựng một tương lai phong phú hơn. Hòa giải và hòa hợp chỉ có thể bắt rễ khi xuất phát từ sự tự nguyện, sự thấu hiểu, và nỗ lực chung của tất cả các bên liên quan. 

Những trở ngại hiện tại

Cho đến nay, giữa người Việt với nhau, những bước tiến về kinh tế, văn hóa, thậm chí nghệ thuật đã tạo ra những cây cầu – nhưng những cây cầu ấy vẫn chưa thể bắc qua ý thức và vô thức lịch sử. Ở tầng vô thức, vẫn tồn tại sự e dè, mặc cảm, thậm chí sợ hãi – thể hiện qua cách xã hội né tránh những vấn đề “nhạy cảm” trong quá khứ: Từ miền Bắc với cải cách ruộng đất, phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đến miền Nam trước 1975 với thảm sát Huế, thảm sát Mỹ Lai, hậu quả của chất độc da cam, trại cải tạo, vấn đề lý lịch, các cuộc vượt biên, và cả sự hiện diện gây tranh cãi của những biểu tượng như lá cờ vàng – tất cả đều là những phần ký ức chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ và công bằng.

Hòa giải văn hóa – dù mang lại hy vọng – vẫn chưa chạm đến gốc rễ. Những buổi hòa nhạc Trịnh Công Sơn, các triển lãm mỹ thuật thời chiến, những bộ phim về hàn gắn… tuy đã bước đầu mở lối, nhưng nếu không được tiếp tục bằng chính sách, giáo dục, và đối thoại công khai, chúng chỉ dừng ở mức biểu tượng cảm xúc, chưa đủ để tạo ra sự hòa giải bền vững. 

Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, nay là Nghĩa Trang Bình An, thuộc tỉnh Bình Dương, nơi an nghỉ của hàng ngàn binh sĩ VNCH hy sinh trong Cuộc Chiến Việt Nam. (Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP via Getty Images)



Tồn tại giữa con người và thể chế

Thực chất, dù không tuyệt đối, nhưng phải công tâm nhìn nhận rằng giữa con người với con người, phần lớn đã có sự hòa giải từ lâu. Ở tận cùng của ký ức và nỗi đau, ai cũng hiểu rằng cuộc chiến ấy là một cuộc tương tàn giữa huynh đệ – giữa những người không may sinh ra ở hai phía vĩ tuyến, giữa những cuộc ra đi và ở lại do hoàn cảnh đẩy đưa. Chính vì thế mới có những đối đầu đầy bi kịch giữa bạn bè, giữa người thân trên chiến trường; mới có cảnh người cha tập kết vào tù thăm đứa con ngụy sau ngày “giải phóng;” mới có những éo le như người vợ của một sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa buộc phải tái hôn với một bộ đội cộng sản để nuôi con khi chồng còn trong trại cải tạo.

Những oan nghiệt đó, theo thời gian, phần nào đã tự được hóa giải – như khi người anh từng tập kết trở về quê trông nom nhà cửa cho đứa em được đi Mỹ. Điều đó cho thấy, rốt cuộc, vấn đề không còn nằm giữa người với người, mà nằm giữa thể chế và con người – cụ thể là ở chỗ, cho đến nay, thể chế ấy vẫn chưa thực sự thể hiện một thiện chí hòa giải một cách chân thành, dù họ hoàn toàn có đủ điều kiện và khả năng để làm điều đó. 

Cách tiếp cận ký ức và loại trừ chính trị

Không thể nói đến hòa giải nếu như một bên vẫn bị phủ định hoàn toàn danh tính, quá khứ và đóng góp lịch sử của mình. Việc vẫn gọi Việt Nam Cộng Hòa là “ngụy quyền,” vẫn tiếp tục tuyên truyền một lịch sử một chiều, vẫn loại trừ các biểu tượng đối lập khỏi không gian công cộng – không phải là điều vô tình, mà là một hệ thống tái sản xuất ký ức có chủ đích.

Tình trạng này không chỉ là sản phẩm của một ý thức hệ, mà còn ăn sâu vào văn hóa chính trị quyền lực – nơi mà sự chính danh được xây dựng trên sự loại trừ thay vì cộng hưởng. Việc chính quyền Việt Nam có thể dễ dàng hòa giải với các cường quốc như Mỹ hay Trung Quốc vì lý do kinh tế và địa chính trị, nhưng lại chưa thể mở lòng với chính những người anh em cùng một dân tộc, phản ánh một sự lựa chọn có tính toán trong cách tiếp cận ký ức – nơi lợi ích dường như vẫn được đặt lên trên sự thấu hiểu và phẩm giá con người, với giả định rằng đó mới là điều mang lại lợi ích lâu dài.

Khi phải sống và đối diện với thực tại của những toan tính như thế – cùng với ảnh hưởng kéo dài của chủ nghĩa thực dân và Chiến Tranh Lạnh lên các chia rẽ ý thức hệ và vùng miền – sự phân cực trong xã hội Việt Nam càng trở nên sâu sắc, không chỉ giữa người Việt với nhau, mà còn giữa con người và thể chế mà họ từng hoặc đang thuộc về. Người Việt, dù già hay trẻ, dù sống trong nước hay hải ngoại, nhiều khi bị buộc phải lựa chọn giữa hai cực đối lập, thay vì được quyền tồn tại trong sự dung hòa của đa dạng và phức tạp – vốn là bản chất thật sự của lịch sử và con người. 

Một thương phế binh VNCH tại Sài Gòn, người bị mất một phần thân thể trong Cuộc Chiến Việt Nam. (Hình minh họa: GXĐMHCG)


Những bước nhỏ đến hòa giải

Con đường dẫn đến hòa giải không có lối tắt. Đó không thể là một cuộc “đại nhảy vọt,” bởi vì hòa giải và hòa hợp không thể đạt được bằng cách gạt bỏ quá khứ, phủ nhận nỗi đau hay những mất mát của người khác bằng những ngôn từ mang tính ngoại giao chính trị như “khép lại quá khứ, hướng đến tương lai.” Cũng không thể chỉ chờ cho thế hệ từng trực tiếp chịu tổn thương “ra đi” rồi mới bắt đầu tiến trình ấy – bởi vì không ai có thể hòa giải với một khoảng trống.

Vì vậy, dù hòa giải không thể vội vã, nhưng càng không thể trì hoãn. Điều kiện tiên quyết phải là thành ý và lòng bao dung – từ cả hai phía – để nhìn nhận sự tồn tại, nỗi đau, và giá trị lịch sử của nhau. Từ đó, các bước đi cụ thể có thể được thực hiện theo hai tầng nỗ lực: Vĩ mô và vi mô.

Ở cấp độ vĩ mô, tiến trình hòa giải cần bắt đầu từ việc nhìn lại cách chúng ta kể về lịch sử – tức là một sự nhìn nhận trung thực không chỉ về chính mình mà cả phía bên kia. Việc cải cách giáo dục lịch sử, chấm dứt mô hình kể chuyện một chiều, sẽ mở đường đưa những phần bị loại trừ trở lại như thành tố không thể thiếu của dòng chảy dân tộc.

Một quốc gia thực sự trưởng thành là quốc gia có dũng khí đối diện với ký ức – kể cả những phần tối tăm nhất. Làm được điều đó, quốc gia ấy không chỉ trưởng thành mà còn mạnh mẽ, vì đã biết mở lòng đón nhận những con người và ký ức từng bị gạt ra bên lề.

Trong tinh thần ấy, việc tổ chức các diễn đàn tự do đối thoại quốc gia, nơi những người từng ở hai bên chiến tuyến có thể lắng nghe và lên tiếng, sẽ góp phần chữa lành vết thương. Cùng với đó là các nỗ lực phục hồi danh dự cho những nhân vật từng bị loại trừ – thông qua bảo tàng, bia tưởng niệm, hay ấn phẩm mang tính giáo dục.

Một chính sách tiếp nhận và nâng đỡ công bằng, đầy nhân ái đối với những người – dù đã khuất hay vẫn sống lây lất vì di chứng chiến tranh – là bước đi ý nghĩa. Những nỗ lực tìm kiếm hài cốt, trùng tu mộ phần, hỗ trợ tài chính và y tế, nên được thực hiện với cùng một tấm lòng như dành cho tử sĩ và thương binh của chính thể hiện tại. Bởi vì họ – bất kể từng thuộc về bên nào – vẫn luôn là một phần không thể tách rời của cộng đồng dân tộc.

Ngoài việc hướng tới hòa giải với những yếu tố lịch sử giữa bên được gọi là thắng cuộc và bên thua cuộc, thì một yêu cầu cấp thiết và thực tế hơn hiện nay chính là tiến trình hòa giải giữa thể chế và người dân – không chỉ với đồng bào ở hải ngoại mà cả với đồng bào trong nước.

Một nền hòa giải thực sự đòi hỏi chính quyền cần chủ động nhìn nhận, tôn trọng, và từng bước thực hiện các giá trị về tự do và quyền công dân. Đặc biệt, cần tạo dựng môi trường công bằng, trong đó người dân có quyền tự do bày tỏ nguyện vọng, tham gia đóng góp ý kiến và xây dựng chính sách quốc gia.

Chỉ bằng cách đó, tinh thần đoàn kết dân tộc mới có thể thực sự được khơi dậy, và mọi người dân – bất kể quá khứ hay vị trí địa lý – mới có thể cùng chung tay vun đắp cho một tương lai chung, vững mạnh và bao dung hơn cho đất nước.

Ở cấp độ vĩ mô, những hành động nhỏ từ cộng đồng và cá nhân cũng vô cùng quan trọng. Các sáng kiến văn hóa xã hội từ trong và ngoài nước cần được khuyến khích như những nỗ lực phục hồi ký ức bị lãng quên. Việc tạo ra không gian kể chuyện và lắng nghe – từ bảo tàng, nghệ thuật, podcast, đến phỏng vấn – sẽ giúp người Việt các thế hệ chia sẻ trải nghiệm của mình. Đồng thời, đầu tư vào giáo dục và hỗ trợ tâm lý cho thế hệ trẻ là điều cấp thiết để các em hiểu rằng lịch sử không chỉ là thắng thua, mà là câu chuyện của con người – với đầy đủ tổn thương, giằng xé, và phẩm giá. 

Kết luận

Năm mươi năm sau chiến tranh, hòa giải và hòa hợp không thể tiếp tục là những lời nói êm tai hay khẩu hiệu vang vọng trong lễ kỷ niệm. Đã đến lúc chúng phải trở thành hành động – cụ thể, chân thành và có ý nghĩa – để ký ức thôi là gánh nặng, mà trở thành nền tảng cho một tương lai chung.

Muốn hòa hợp, phải hòa giải. Muốn hòa giải, phải hóa giải. Muốn hóa giải, phải nhìn nhau như những con người mang ký ức, nỗi đau và ước mơ. Không có hòa giải nào diễn ra khi một bên tiếp tục phủ định sự hiện diện và giá trị của bên kia, dù trong quá khứ hay hiện tại. Nhưng nếu bắt đầu từ lòng trắc ẩn, từ những cuộc đối thoại chân thành và chính sách mang tính chữa lành – thì hòa hợp không phải là điều viển vông, mà là một tương lai khả dĩ. [đ.d.]

Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/little-saigon/khong-co-hoa-giai-khi-khong-nhin-thay-nhau/


 

Saturday, April 26, 2025

CHO NGƯỜI NẰM XUỐNG TRÊN QUÊ HƯƠNG

 Phan Nhật Nam


Cảm giác Sự Chết vốn sẵn có từ lâu qua thân phận Người Lính trên Quê Hương Miền Nam Việt Nam. Đấy là Năm 1965, với cơn mưa u uất mùa hạ Miền Nam, nơi Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp. Mưa không đủ lớn, không dài lâu để cho ta có cảm giác được tẩy rửa, cuốn trôi. Mưa âm âm, ngột ngạt làm bốc dầy thêm mùi xác chết của những đơn vị gồm Tiểu Đoàn 2, Trung đoàn 7 Sư đoàn 5 Bộ Binh; Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân; và Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù với những người lính mà sức chịu đựng dường như vô hạn dưới khối nặng của thùng đạn, ba-lô, nón sắc, vũ khí họ mang trên vai, vác lên lưng, để từng ngày cúi gầm mặt bước xuống vùng sình lầy mênh mông, trèo lên dốc đá núi thăm thẳm, lội xuyên rừng rậm ngút ngàn không tiếng nhỏ than van, ghìm lại hơi thở dài nặng nhọc... Tất cả những người lính cao thượng khắc kỷ vừa kể ra vào những ngày của tháng 6 năm 1965 ấy đã là những xác chết căng cứng, da tím sẫm bốc mùi xanh xao tanh tưởi... Những khuôn mặt, dạng người tinh anh tươi trẻ của tuần, tháng trước biến dạng thành những khối thịt ủng lầy máu sẫm, đất bùn đỏ, nhầy nhụa thêm bởi thấm mưa của bao ngày nằm nơi đụng trận, một chốn gọi là xã Đồng Xoài, Quận Đôn Luân, Tỉnh Bình Dương, nơi chỉ xa Sài Gòn khoảng năm-mươi cây số đường chim bay.



Rồi từ Giao Thừa Mậu Thân, bắt đầu ở Huế, ngõ Âm Hồn, lối đi ra đường Mai Thúc Loan, hướng Cửa Đông Ba. Khoảng đường u thẫm chập dầy bóng đen đêm Xuân 1968... Với tình thế nguy biến qua cảnh tượng người lính xao xác chạy dọc những khu nhà đổ nát, vừa chạy tránh đạn, vừa kéo xác đồng đội... Người Lính kéo xác đồng đội ngang qua căn nhà có xác người đàn bà chết trong vị thế quỳ trước chiếc bàn thờ xiêu đổ tung toé, hẳn đang khấn lạy, cầu xin... Nhưng còn có những xác chết chỉ còn thân người, bởi chiếc đầu đã bị cắt lìa, vất tung đâu đó. Bên cạnh, thây cô gái tóc dài lây lất, khuôn mặt chỉ còn những tảng thịt rời rã. Nhận biết đấy là người thiếu nữ do chiếc áo dài trắng và áo len màu tím than, màu riêng biệt đặc trưng của người thiếu nữ xứ Huế. Nhưng, như một an ủi khốn cùng, dù ở Huế, hay quanh ngoại ô Sài Gòn, vùng Nhị Bình, Thạch Lộc, Hóc Môn, Gia Định trong dịp chiến loạn Mậu Thân 1968, người sống vẫn còn khả năng phân biệt đấy là xác chết của lính hay của dân; của dân chúng Huế hay gã bộ đội Sinh Bắc-Tử Nam, hoặc cán binh Mặt trận giải phóng... qua áo quần, dạng tướng, đôi dép Nhật làm ở Chợ Lớn, giày botte de saut của lính Cộng hòa hay loại dép râu mang theo từ Miền Bắc của bộ đội cộng sản. Thây chết nằm suốt dọc cù lao sông Sài Gòn chảy qua Bình Phước, Bình Triệu, Thạnh Lộc, Nhị Bình, Gò Vấp... Cả một vùng hoa mai tàn tạ trong ánh nắng lung linh mùi tử khí.

Tiếp đến năm 1972, cảnh chết trên quê hương miền Nam tăng vụt cường độ với bất hạnh, tang thương nhân lên gấp bội phần cho dù trí tưởng tượng về tình huống khốn cùng từ lâu đã được người Việt hằng mang nặng, chuẩn bị gánh chịu. Trên chín cây số từ La Vang, nam Quảng Trị đến Cầu Trường Phước lớp nhựa đường đã hoàn toàn chảy nhão, đun nóng sôi bởi một thứ lửa nhân tạo. Lửa được cháy lên do từ áo quần, tay nải, bao bị, gồng gánh, và tế bào thịt da của người tẫm vào lưỡi lửa của xe cộ, xăng nhớt. Tất cả biến thái nên thành ngọn lửa bền bỉ âm ỉ. Thế nên trên quãng đường chín cây số nam Thị Xã Quảng Trị mà giới báo chí Miền Nam đặt nên tên đau thương Đại Lộ Kinh Hoàng hoàn toàn không còn dạng thây ma để được gọi nên là xác chết, mà chỉ là những mảnh xương cốt rời rã, lăn lóc, lẫn lộn đất, đá, cát vương vãi dưới gầm khung xe cháy nám, nơi ổ súng cong queo, sau những bụi lùm trơ trọi, những gò, đụn oan khiên mà ổ mối đùn lên gây tanh mùi máu.

Trong cùng lúc, vào thời điểm đầu mùa Hè, 1972 ở An Lộc nơi Bệnh viện Tiểu Khu Bình Long cũng xẩy ra tình cảnh kinh hoàng đau thương tương tự. Vì pháo binh yểm trợ cho các sư đoàn 5, 7 bộ binh cộng sản đã học được một kinh nghiệm hữu dụng: Ban ngày chỉ pháo xuống nhiều điểm bên trong thị xã để dân chúng tin rằng bộ đội giải phóng không pháo kích vô chỗ bệnh viện! Nhưng vào ban đêm, Trường Trung Học Cộng Đồng, Bệnh Viện Tiểu Khu Bình Long... nơi lớp lớp người bị thương đang lê lết trong bãi máu, giữa những người hấp hối để cầu sống sót, cầu được lúc bình yên. Cho dẫu bình yên được chết... Những nơi nầy biến thành những điểm tập trung của pháo binh cộng sản. Điễn hình chỉ trong một đêm 10 Tháng Tư, 1972 đã có hơn tám ngàn quả đạn 130 ly rơi xuống xé toang đám xác người. Người sống lẫn kẻ chết, tất cả đồng tung lên ngật ngật với thân thể con người chỉ còn là những mảnh vụn tơi tả lẫn với bụi, khói, mảnh thép.

Chiều ngày 28 tháng 4, với tình cảnh sống-chết đan kín, xen kẻ cùng nhau trong suốt chặng đường dài hơn một thập niên như trên vừa kể ra... Tất Cả Hiện Đủ Trong Buổi Sáng Ngày 30 tháng Tư Năm 1975. Sự Chết bắt đầu trùm chiếc cánh tối tăm hung hiểm lúc 6 giờ 15 chiều ngày 28 tháng 4, khi chuỗi bom dưới cánh của những chiếc A37 do viên phi công phản trắc Nguyễn Thành Trung hướng dẫn rơi xuống phi đạo Tân Sơn Nhất. Đạn phòng không bắn lên, phi cơ F5 đuổi theo muộn màng, vô vọng. Cửa ngõ tháo chạy của Sài Gòn đóng sập lại. Cuối cùng, Tân Sơn Nhất thật sự vùng vẫy, hấp hối, chìm dần trong lửa hoả ngục khi dàn đại pháo, hỏa tiễn cộng sản từ Đồng Dù, Củ Chi, ranh giới Hậu Nghĩa, Gia Định bắt đầu đổ xuống không ngắt nhịp. Từng trái đạn 130 ly, từng hỏa tiễn 122 ly chính xác rơi xuống. Tân Sơn Nhất vật vã, co quắp, rã chết, sụp vỡ, hấp hối trong khói đen, lửa ngọn. Cuộc hành hình kéo dài từ 1 giờ sáng ngày 29 tiếp tục đến rạng đông. Ở căn cứ DAO, Văn phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ, ba ngàn người tỵ nạn chờ đợi di tản bằng C130, hoặc C141 qua Guam đưa mắt nhìn lên trời, giữa vũng lửa, đếm rõ từng viên đạn pháo rơi xuống. Đống hành lý khổng lồ gồm quý kim, vàng, kim cương, giấy bạc Năm Trăm Trần Hưng Đạo của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam; giấy bạc đô-la của ngân khố Mỹ. Tất cả cùng trộn lẫn với thịt da thân thể người thành một thứ pháo bông tan tác bay tung toé, hiện thực nơi trần thế cảnh địa ngục vô vàn mà nhà thơ Dante người Ý đã diễn tả qua thi ca.

Sáng 29 tháng 4, những tướng lãnh đã ra đi, những sĩ quan cao cấp cũng rời bỏ nhiệm sở, đơn vị. Nhưng, Trung Úy Phi Công Trang Văn Thành còn lại. Thành có danh hiệu Thành mọi bởi nước da ngâm đen quá độ ra chỗ đậu tàu.. Anh nổ máy chiếc C119 Hỏa Long, đơn độc bay lên trời xanh bảo vệ, cứu viện Tân Sơn Nhất. Từ trên cao, Trung Úy Thành thấy rõ những vị trí pháo của binh đội cộng sản.. Anh nghiêng cánh, chúc mũi chiếc Hỏa Long căm phẫn trút xuống tràng đạn 7.62 ly, và tất cả hỏa lực cơ hữu của hai khẩu đại bác 20 ly gắn dưới cánh. Lửa nháng lên dưới thân tàu, toán phòng không cộng sản phản pháo, nhưng không kịp, Thành bình tĩnh, tài giỏi lách ra khỏi vùng hỏa tập lưới đạn của giặc. Anh đáp xuống lại phi đạo thân yêu quen thuộc đang bốc khói mù bởi cuộc dội bom chiều hôm trước, và cuộc pháo kích cường tập từ sau nửa đêm về sáng của ngày đau thương tang tóc nầy. Mặc, Thành một mình tự tay nạp đạn vào tàu, anh trở lại bầu trời trên phi cảng Tân Sơn Nhất - Cửa ngõ của Miền Nam. Anh nhìn xuống những vị trí pháo cộng sản mà giờ nầy tạm ngưng hoạt động vì vừa bị anh tấn công.. Hóa ra cả một quốc gia chỉ còn được lần cứu viện bi hùng tuyệt vọng nầy. Thành chúc mũi tàu, bấm chặt hệ thống kích hỏa bên cạnh chỗ ngồi, một mình anh lấy đường nhắm.. Một mình anh.. Phải chỉ một mình anh - Trung úy Trang Văn Thành, Thành Thiếu Sinh Quân. Thành hạ thấp hơn để đường đạn thêm phần chính xác. Thân tàu rung mạnh.. Lửa! Lửa! Lửa cháy ngang cánh trái con tàu, ngay bình xăng, sát cạnh ghế ngồi.. Thành giật mạnh chốt thoát hiểm để bung thân ra khỏi con tàu. Tất cả kẹt cứng. Anh dùng tay đẩy cửa buồng lái phóng mình ra, chiếc dù bung mạnh.. Các múi, dây dù vướng vít rối rắm. Thành bị giữ chặt bởi chiếc dù và khung cửa. Lửa bừng bừng! Lửa ào ạt... Người phi công chìm trong lửa, gục chết giữa không gian trên quê hương.

Sáng 30 tháng 4, năm 1975. Sàigòn vắng lạnh. Trời bỗng nhiên trở mưa. Cơn mưa ngắn, từng giọt khô nồng, u uất. Chiếc xe Zil Trung Cộng từ hướng đường Trần Hưng Đạo, chạy chậm rãi qua bùng binh chợ Bến Thành. Những người đi đường nhìn lên, ngó mông trống trải. Xe tới trước thềm Hạ Viện, đám thiếu nữ dáng dấp nhà nông nhẩy xuống, một người đội mũ tai bèo, chắc là người chỉ huy trung đội lính phụ nữ, từ ca-bin xe bước ra, chỉ chỏ, ban lệnh, kéo từng người vào vị trí gọi là “chiến đấu”... Các đồng chí, các đồng chí... bố trí đây nì, sẵn sàng tác chiến... Giọng người vùng miền Bắc Trung Việt cấm cẳng, the thé. Những thiếu nữ thôn quê ngồi bất động nghiêm trọng. Tất cả đều mặc áo quần mới, áo mầu xanh dương, quần đen, vải nội hoá còn nguyên dấu hồ, dây đạn đeo chéo qua thân, miết xuống những thớ thịt ở ngực, phần bụng. Băng đạn trên thân người mới tinh màu đồng đỏ au.

Từ Công Trường Lam Sơn, đầu đường Nguyễn Huệ, đám đông dần tập trung để xem mặt “bộ đội Việt cộng”. Thêm hai xe đổ quân trước rạp Rex. Lính cộng sản nhẩy xuống, chạy vội vào hàng hiên, nằm, trườn, bò, nháo nhác. Tiếng đập đục rầm rập từ những cơ sở ngoại quốc, những khối cửa sắt lay động, phá bung, những tấm kiếng tủ lớn bị đập vỡ, đồ đạc kéo lê hỗn độn, vội vàng trên mặt đường. Người mỗi lúc mỗi đông. Người dồn dập ùn ùn, la ó, chưởi thề, giành giựt. Đám đông chạy về phía Building Brink, khu Đồn Đất, nhà thương Grall, những nơi có cơ sở của Mỹ kiều, những văn phòng mà chủ nhân đã bỏ đi. Bất chợt, tất cả lắng lại để nghe rất rõ.. Có người tự tử. Có người mới bắn chết. Ai? Lính hả? Không biết, chỉ thấy mặc đồ lính mình. Ở đâu? Ở ngoãi, chỗ tượng Thủy Quân Lục Chiến.. Lời trao đổi đứt khúc, vội vã, mất hút giữa những tiếng thở dồn dập, bước chân cuống cuồng nôn nóng của đám đông đang hăm hở tiến tới những kho hàng, cơ sở đầy ắp vật dụng, thức ăn, rượu, bia. Tiếng súng nổ, đạn bay lên trời... Và những gã thanh niên mang băng đỏ dẫn đám lính cộng sản chạy lúp xúp vào cổng Tòa Đô Chính. Phía khối tượng đài Thủy Quân Lục Chiến thấy hình hài một Người Lính vừa tự sát. Buổi Sáng 30 tháng Tư, 1975, chen giữa âm sắc xích xe tăng đổ nhào cửa Dinh Độc Lập có tiếng nổ khô nhỏ của viên đạn ghim vào, nằm sâu trong đầu Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long.

Trước cổng Trại Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu Đoàn 1 Dù, Thiếu Tá Trần Công Hạnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 Dù tròng mắt khô khan ráo hoảnh sau bao ngày đêm không ngủ sáng lên ánh mắt dứt khoát quyết định ở lại với những lính của đơn vị khi lắng nghe báo cáo cuối cùng của đại đội giữ Ngã Tư Bảy Hiền vừa bắn cháy thêm hai xe tăng của quân Miền Bắc... Có một xác con trẻ trần truồng không biết ai ném ra từ bao giờ lên mặt đường. Một cô gái mặc áo dài trắng nữ sinh đi đến, gác chiếc xe đạp mini cạnh lề đường, bình thản, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy góc cạnh chụp thây đứa trẻ chết. Tay đứa bé mà giờ nầy đã miết xuống mặt nhựa đường do đám người chạy loạn từ khu Ngã Tư Bảy Hiền giẫm lên. Cô gái nhỏ giải thích: Chụp để làm chứng tội ác Mỹ-Ngụy trước khi bọn chúng rẫy chết! Hóa ra Sự Ác do cộng sản giáo dục có thể chụp xuống lòng người mau chóng đến thế sao?” Bấy giờ chỉ mấy mươi phút sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. 

 

Một trung đội lính Dù mà thật sự chỉ khoảng hơn một Tiểu đội giữ nhiệm vụ an ninh cư xá Sĩ quan Bắc Hải đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, trước 1972 là Tư lệnh phó Sư đoàn Dù. Chuẩn Tướng Hậu đang trải chiếc bản đồ trên mui xe jeep, bàn tính với những viên sĩ quan. Khi biết lệnh đầu hàng đã thi hành, ông vất tung chiếc bản đồ, gầm lên lời nguyền rủa.. Dẫu vừa nhận lệnh.. Anh em ai về nhà nấy từ Tiểu Đoàn Trưởng Hạnh. Nhưng viên Thiếu úy trả lời quyết liệt: Tôi không đầu hàng, tôi với trung đội sẽ ra bến tàu tiếp tục chiến đấu... Thiếu úy Huỳnh Văn Thái tập họp trung đội, hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di chuyển. Trung đội lính ra khỏi cư xá theo lối cổng Đường Tô Hiến Thành, rẽ vào Nguyễn Tri Phương, đi về phía chợ Cá Trần Quốc Toản, hướng bến tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái không ra đến bến Bạch Đằng, khi tới đến bùng binh Ngã Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành vòng tròn, đưa súng lên trời đồng hô lớn... Việt Nam Cộng Hoà Muôn Năm.. Con chết đây cha ơi! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực nổ sau lời hô vĩnh quyết cùng đất nước Miền Nam.

Cùng lúc, trong ngõ nhỏ băng ra Chợ Ông Tạ, tại một căn nhà đã diễn nên hoạt cảnh uy nghi bi tráng của cả một gia đình quyết tử cùng vận nước. Thiếu Tá Đặng Sĩ Vĩnh thuộc Khoá 1 Nam Định, chuyên ngành tình báo đặc biệt, biệt phái ngoại ngạch qua ngành viễn thông, phụ trách đường dây quốc ngoại. Người con trai lớn của gia đình, Trung Úy Đặng Trần Vinh sĩ quan Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu. Hai người cùng trao đổi lời đối thoại sau khi có lệnh đầu hàng. Tùy con, riêng bố đã quyết như đã nói với con từ trước. Nếu bố đã quyết như thế, con và các cháu cũng đồng lòng. Toàn gia đình uống chậm những liều thuốc độc cực mạnh đã chuẩn bị từ trước. Cuối cùng Trung Úy Đặng Trần Vinh kết thúc bi kịch với viên đạn bắn tung phần sọ não sau khi đứng chào tấm Đại Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ với lời hô khiến sông núi cũng quặn thắt thương đau. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm!

Ở Vùng IV, đồng bằng châu thổ Sông Cửu Long, chị Nguyễn Thị Thàng vợ một Nghĩa Quân Đồn Giồng Trôm, thay chồng giữ đồn đến trái lựu đạn cuối cùng. Chị kết thúc đời mình bên cạnh thây của chồng, các con, với những vũ khí, máy truyền tin đã bị phá hủy.. Không để cho Việt cộng một cái gì cả! Người chồng đã dặn chị trước khi lâm tử. Cùng lần với những danh tướng vị quốc vong thân Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn... rất nhiều người không ai biết cấp Thiếu, Trung úy kể cả binh sĩ, hạ sĩ quan,.. cũng không thiếu những người dân, những người dân thường đã chết cùng lần vĩnh quyết Miền Nam. Phần những người còn sống nơi Miền Nam phần lớn, nếu không nói là hầu hết sau khi đã đi qua biên giới tử sinh nầy đều có mặc cảm phạm tội - Tội đã sống sót. Đấy là cảm ứng có thật kể từ ngày 15 tháng 3 khi nhìn đoàn người di tản dọc Tỉnh Lộ 7 từ Pleiku về Phú Bổn, xuống Tuy Hoà. Khi đứng trên Đèo Hải Vân ngày 25 tháng 3, chứng kiến đoàn người chạy loạn từ Quảng Trị, Huế vào Đà Nẵng. Khi nghe ra tiếng hờn đau ai oán của người đàn bà chân trần, tóc rối, lật vạt áo dài ra để thấy đứa con nhỏ đã chết từ lâu trên tay. Sáng 30 Tháng Tư, mỗi người Việt nơi Miền Nam từ hoàn cảnh riêng hiểu ra một Mối Đau Chung - Mối đau lần chết thật với Miền Nam.

Người Nhật là một dân tộc vĩ đại qua nghi lễ hiến tế, tức Sepuku (mổ bụng tự sát) khi danh dự cá nhân, tập thể, tổ quốc bị xúc phạm. Dân tộc Việt Nam không có nghi thức uy hùng, dũng cảm ấy. Tuy nhiên, Người Việt cũng có phương thức riêng để bày tỏ Lòng Yêu Nước, cách gìn giữ phẩm giá Con Người. Người Việt xử dụng Cái Chết để chứng thực nguyện vọng kia qua cách thế im lặng và đơn giản nhưng không kém phần cao thượng. Cuối cùng, bi kịch không chỉ xẩy ra với thời điểm 30 tháng tư, 1975 mà sau đó, suốt hai thập niên 70, 80, hai triệu người Việt Nam, không phân biệt người Nam, hay người Bắc những người đã sống lâu dài dưới chế độ cộng sản Hà Nội từ 1945, từ 1954... Tất cả đã cùng phá thân băng qua biển lớn, xuyên rừng rậm vùng Đông-Nam Á, với giá máu 600.000 người chết trên đường di tản ra khỏi nước. Hóa ra Dân Tộc Việt, những người Việt Nam bình thường đã đồng lần thực hiện một điều mà họ không hề diễn đạt nên lời: Chết vì Tự Do để bảo vệ Phẩm Giá, Quyền Làm Người. Người Việt Nam đã và đang hiện thực điều mầu nhiệm nầy qua từng ngày vượt sống trên quê hương khổ nạn, với chính thân xác của mình. 41 năm sau Ngày 30 Tháng Tư ý nghĩa cao thượng nầy vẫn luôn hiện thực với những thế hệ Việt thứ hai, thế hệ người Việt thứ ba...


Phan Nhật Nam
Ngày 30-4-1975 của 41 năm sau