Xe Mobilette xem chừng ra không thay đổi nhiều lắm qua nhiều năm. Xe Mobylette trong thập niên 1950 thân là những ống tuýp hàn lại. Qua thập niên 1960 thì thân làm bằng tôn ép. Màu sắc cũng ít thay đổi. Có lúc Mobylette vàng đổi thành Mobylette xám. Xe Mobylette được chế tạo để dễ sử dụng. Xe không cần sang số mà dùng embrayage automatique, vặn ga lớn thì xe chạy nhanh, vặn ga nhỏ lại thì xe chạy chậm và đứng lại. Khi muốn nổ máy thì chỉ cần đạp cho nhanh là xe nổ máy. Đạp hoài không nổ thì chỉ gần gạt môt cái chốt ở đĩa có dây couroie ăn vào động cơ để tách rời động cơ và bánh sau thì có thể đạp bộ về nhà.
Mobylette vàng 1956
Mobylette vàng 1962
Mobilette xám, 1967
Mobylette xanh
Vì cách sử dụng giản dị, trọng lượng nhẹ nhàng nên các xe Mobylette, Vélosolex thông dụng trong giới sinh viên, học sinh và phái nữ.
Velosolex
Ở một hạng cao hơn là các xe scooter của Ý: Vespa, Lambretta. Các xe
scooter này vì lòng máy lớn hơn 50 cc, nhỏ nhất là 125 cc hoặc 150 cc
hoặc 200 cc tùy theo kiểu, nên không còn được xếp vào loại vélomoteur.
Người sử dụng phải trên 18 tuổi và phải có bằng lái. Vì thế, những người
đi xe Vespa, Lambretta thường là ở tuổi trung niên và có đời sống cũng
tương đối khá vì xe scooter đắt hơn. Xe Vespa hàng chục năm nay không
thay đổi mấy. Thân xe làm băng tôn ép. Có lẽ vì thế nên làm hình tròn
như quả trứng để chịu lực tốt hơn. Máy được đặt ở chỗ phình bên phải,
còn bên trái là ngăn để chứa đồ.Vì thế xe Vespa khi chạy hơi nghiêng về phía phải vì bên này nặng hơn. Xe Lambretta tuy trông bề ngoài giống Vespa nhưng cấu tạo lại khác. Khung xe bằng ống sắt hàn lại, máy đặt ở giữa khung và che bên ngoài bằng lớp vỏ sắt. Xe Lambretta hồi đâu thập niên 1960 có đường nét cong. Cuối thập niên 60, qua đầu thập niên 70 thì kiểu dáng thẳng, theo như mốt của thời đó, nên trông thanh nhã. Cả hai đều sang số bằng tay, bóp embrayage vào và vặn để đổi số.
Vespa 1963
Lambretta 1962
Lambretta 1966
Từ cuối thập niên 1950, miền Nam cũng nhập cảng các xe gắn máy Đức
như Goebel, Sachs, Puch. Các xe này đều có chung đặc điểm là có bình
xăng đặt trước người lái, sang số bằng tay, có ống nhún cả trước lẫn
sau, và máy đều là 50cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng
lái. Mỗi xe lại có những đặc điểm riêng như máy xe Puch luôn luôn được
bọc trong lớp vỏ bằng nhôm, có quạt chạy để làm mát.Như thế có lợi điểm là máy xe được làm mát ngay cả khi ngừng đèn đỏ. Vì là xe có sang số nên tuy chỉ có 50cc, xe gắn máy Đức có sức kéo mạnh hơn các xe Mobylette ở số 1, 2, nên cũng được dùng để kéo xe lôi, có thể kéo được thêm được bốn năm hành khách và hàng hóa phía sau. Hãng Puch và Sachs ngày nay vẫn còn tồn tại.
Goebel 1965
Puch 1964
Sachs 1961
Fips, máy Sachs, 1955
Xe Honda S90 có lẽ là chiếc được ưa chuộng nhất trong số các xe Honda trước 1965 vì kiểu đẹp và máy mạnh, tiếng nổ ròn. Các kiểu xe kia là C110, S65 (thường được gọi là S50), P50, C50. Xe P50 có cấu tạo đặc biệt với máy nằm ở sát bánh sau và truyền động thẳng vào bánh chứ không qua dây xích. Cách đặt máy này có lợi là khỏi bị mất lực khi truyền qua dây xích và giảm bớt số bộ phận nhưng có khuyết điểm là xe dễ bị mất thăng bằng vì đầu nhẹ, đuôi nặng. Lại thêm khi đi xuống ổ gà vì không có ống nhún nên sức va chạm có thể làm vỡ răng cưa ở vành bánh xe.
Xe Honda dame C50 trước 1965 có chiếc đã có bộ đề bằng điện, khỏi cần đạp. Trong khi chiếc Honda dame nhập cảng hàng loạt sau này phải đạp máy nổ bằng chân.
Honda S90 1967
Honda S65 1964
Honda C110 1964
Honda P50, 1964
Chiếc xe Honda được chính thức nhập cảng để bán cho người tiêu thụ là
xe Honda Dame năm 1965. Hãng Honda thì gọi là kiểu C50, nhưng mọi người
thường gọi là Honda Dame. Có Honda Dame nhưng không ai gọi Honda Homme,
mà gọi là Honda đàn ông. Những chiếc xe Honda Dame đầu tiên xuất hiện
tại Sài Gòn thu hút được sự chú ý của người đi đường. Những ngày đầu
tiên xe bán ra ngoài, trên các nẻo đường phố người ta nhìn thấy các
chiếc xe Honda Dame màu đỏ hay xanh lá cây nhạt. Có người bị tắt máy xe,
hý hoáy nhìn xuống chân vì chưa quen với cách sang số bằng chân.Sang lộn số có thể làm xe tắt máy. Khi thấy có một số người dắt xe Honda đi bên đường, có người nói hãng Motobécane của Mobilette thuê người dắt xe Honda Dame đi khắp các đường phố để người dân thấy xe Nhật dở, bị chết máy hoài, sợ không dám mua. Không biết là có đúng hay không. Một số người lúc đó nói là hàng Nhật không bền, chỉ vài năm là hỏng và tiên đoán rằng chừng năm mười nữa thì các xe gắn máy Pháp, Đức vẫn còn chạy, còn xe Nhật thì lúc đó vứt đi. Những người đó có lẽ căn cứ vào phẩm chất hàng hóa của Nhật trước thập niên 1960. Nhưng qua thập niên 1960, các hãng xe gắn máy Nhật đã trải qua những năm cạnh tranh khốc liệt trong nước.
Vào đầu thập niên 1960, nhiều hãng xe gắn máy ào ạt ra đời tại Nhật, cuối cùng theo luật thư hùng đào thải chỉ có những hãng có khả năng cải tiến mới sống còn. Lúc xe Nhật sang Việt Nam cũng là lúc các hãng xe gắn máy Nhật bắt đầu tung ra thế giới với nhiều cải tiến làm cho phẩm chất xe Nhật vượt hẳn các xe Tây phương.
Honda Dame C50 1965
Các xe này còn giống mô tô ở chỗ hai bên bình xăng có hai miếng cao su để đầu gối áp vào cho êm. Điều đáng kể là yên xe thấp vừa với chiều cao người Á Châu khiến cho việc leo lên xe, chống xe dễ dàng hơn khi sử dụng các xe gắn máy Tây phương. Tay ga vặn nhẹ nhàng chứ không nặng như xe Tây phương. Máy đạp nhẹ nhàng và dễ nổ. Nói tóm lại, các nhà chế tạo Nhật khiến cho các chiếc xe gắn máy sử dụng dễ dàng, tiện nghi hơn khiến cho người dùng thấy rất thoải mái khi đi xe.
Sau chiếc xe Honda Dame là sự xuất hiện của Honda đàn ông 66 (SS50). SS là chữ viết tắt của Super Sport. Chiếc Honda 66 xuất hiện vào năm 1966, với màu đỏ hay đen, tay lái ngắn ngủn để người lái thu hẹp khoảng cách hai tay, giảm tiết diện cản gió, xe không có đèn signal, hộp số có năm số và có thể đạt đến tốc độ tối đa đáng nể là 90km/giờ đối với một chiếc xe máy 50 cc. Đó là một chiếc xe được vẽ kiểu với các đặc tính của xe đua. Tuy nhiên chiếc xe này không tiện dụng trong thành phố vì tay lái quá ngắn nên khó điều khiển. Sang năm 1967, Honda sửa lại kiểu xe cho tay lái rộng hơn, hộp số có bốn số, sơn đen hoặc đỏ, có đèn signal, ống nhún trước có bọc cao su, tốc độ tối đa 90k/giờ.
Kiểu xe 67 (SS50) đã đi vào lịch sử vì máy mạnh, chạy nhanh, được nhiều người ưa chuộng và có lẽ là được sử dụng nhiều nhất tại miền Nam cùng với xe Honda Dame. Về sau Honda có ra các kiểu khác nhưng Honda 67 vẫn được nhiều người biết đến nhất. Vì máy mạnh nên chiếc Honda 67 được dùng để kéo xe lôi thay cho các hiệu xe Đức trước đây.
Honda SS50 1966, tay lái 67
Honda SS50, 1966, tay lái original
Honda SS50 1967
Cả tứ đại gia của làng xe gắn máy Nhật, Honda, Yamaha, Suzuki,
Kawasaki đều có mặt tại miền Nam lúc đó. Hãng Suzuki tung ra kiểu xe nam
M15 và M12 và xe Suzuki Dame, M31. Hai kiểu xe nam đại khái giống nhau,
dùng cùng một động cơ nhưng kiểu thể thao có ống pô vắt cao và vè trước
ngắn để trông có vẻ thể thao hơn.
Suzuki M12 1967
Suzuki M15 1967
Suzuki Dame M31 1967
Yamaha nam kiểu thể thao YF50, 1967
Yamaha nam F5, 1970
Yamaha Dame U5 1966
Xe Suzuki Dame và Yamaha Dame đèn trước thấp hơn xe Honda Dame, trông vẻ nhu mì thích hợp với các cô mặc áo dài.Kawasaki là hãng nhỏ nhất trong các hãng xe Nhật lúc đó, chỉ đưa sang một kiểu xe đàn ông. Xe Kawasaki chạy tuy tốt nhưng bị chê là nặng và máy yếu. Xe Kawasaki đem sang Việt Nam là kiểu dùng sườn của xe 80 cc, thay vào đó bằng động cơ 50 cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái.
Kawasaki M10 1966
Hiệu xe ít người nhớ đến có lẽ là Bridgestone. Bridgestone là hãng
chuyên chế tạo vỏ bánh xe nhưng lúc đó cũng có một phân bộ chuyên sản
xuất xe mô tô để đua. Kiểu Bridgestone đem sang Việt Nam năm 1966 có máy
65 cc. Vì thế xe Bridgestone vọt rất mạnh. Đặc điểm của Bridgestone là
hộp số có bốn số quay vòng giống như các xe đua, nghĩa là sang đến số
bốn thì nhấn thêm sẽ trở về số một mà không phải trả số ngược lại. Xe
Bridgestone chìm vào quên lãng của người Việt khi phân bộ xe mô tô của
hãng đóng cửa năm 1967 vì lý do là nếu sản xuất xe đua thì các hãng xe
gắn máy Nhật khác không muốn mua vỏ xe của hãng kình địch với mình trong
các cuộc đua.
Bridgestone 65 1966
Bridgestone 65 kiểu thể thao 1966
Không như các hãng xe châu Âu giữ các kiểu xe y nguyên nhiều năm, các
hãng Nhật ào ạt tấn công thị trường Việt Nam với các kiểu xe mới ra mỗi
năm. Qua 1968, Honda tung ra xe CL50. CL là chữ viết tắt của Scrambler.
Đó là kiểu xe được chế tạo để chạy các đường đất lồi lõm nên chỉ có bốn
số, xe kéo mạnh ở số một và số hai, nhưng tốc độ tối đa kém xe Honda
67. Ống pô vắt cao để khỏi va chạm vào mô đất hay ngập nước. Qua 1969,
Honda tung ra kiểu SS50M. Cũng dùng cùng máy và sườn như xe Honda 67
nhưng bình xăng dài hơn cho có vẻ thể thao.Qua năm 1970, Honda đưa sang kiểu CD50. Xe này cũng dùng cùng loại sườn và động cơ như SS50 nhưng bình xăng và hộp đựng đồ phụ tùng vẽ kiểu khác nên trông bề ngoài khác hẳn. Xe được chế tạo để chạy trong thành phố nên chỉ có bốn số với các số đầu kéo mạnh, thích hợp với cách chạy xe trong thành phố phải luôn luôn dừng lại đèn đỏ rồi lại bắt đầu vọt lên. Cùng là kiểu SS50E, đến 1971, 1972, Honda tung ra kiểu xe với sơn đỏ metal và vè xi bóng, ghi đông cao kiểu sừng bò trông rất hấp dẫn. Honda thay đổi hình dáng bề ngoài thu hút thêm khách hàng mới.
Năm 1969, Suzuki cũng tung ra kiểu xe mới AS50 trông rất thể thao và rất đẹp. Ngoài các kiểu xe Honda chính thức nhập cảng, trên đường phố Sài Gòn thỉnh thoảng xuất hiện một số kiểu xe Honda lạ như Honda Monkey, nhỏ xíu như xe con nít, hoặc Honda CT50, CT70, với chữ T là viết tắt của Trail, loại xe Honda dùng để đi dạo chơi ở đồng quê, trên các đường mòn nhưng tại Việt Nam trở thành phương tiện để đi học, đi làm tuốt luốt.
Honda CL50, 1968
Honda CL50, 1968
Honda CD50, 1970, pô nằm original, vè trước vè sau cùng màu với thân xe
Honda SS50lM 1969
Suzuki AS50 1970
Honda CT70 1970
Honda Monkey 1970
Trong tất cả các loại xe Nhật, chỉ có Honda là dùng loại động cơ bốn
thì, với xăng và nhớt chứa riêng còn các hãng kia dùng loại động cơ hai
thì, chạy xăng pha nhớt.Với các đủ loại xe tung vào thị trường, đường phố miền Nam trở nên nhộn nhịp với các loại xe đủ màu sắc. Đường phố Sài Gòn náo nhiệt với các coureurs cúi rạp trên con ngựa sắt ra sức phóng, lạng, máy nổ ròn, đinh tai nhức óc. Đúng ra máy xe Honda chạy rất êm. Nhưng vì nhiều người đã tháo bỏ ốm tiêu hãm thanh gắn ở đầu ống khói nên máy nổ lớn. Ống này nhỏ như ống tiêu, với thân có đục nhiều lỗ, dài khoảng gang tay. Chỉ cần tháo con vít nhỏ ở đầu ống khói là kéo ông tiêu ra được. Lý do tháo ốm hãm thanh là vì người dùng thấy xe chạy vọt hơn.
Sài Gòn nhiều xe hơn và cũng nguy hiểm hơn vì các xe Nhật đều chạy nhanh, vọt mạnh. Vì thế, một số phụ huynh lo ngại không muốn mua cho con mình chiếc xe quá mạnh. Hãng Honda tung ra loại xe PC50, cũng dùng động cơ 50 cc nhưng không cần sang số, và không vọt mạnh như các loại xe có sang số. Tốc độ khi chạy nhanh cũng có thể đến 60 km/giờ. Xe PC50 là kiểu P50 cải tiến lại với động cơ đặt vào giữa cho xe được thăng bằng hơn và có nhún cả ở bánh trước lẫn bánh sau. Cách sử dụng xe PC50 cũng giản dị như xe Mobylette chỉ cần đạp nổ máy rồi vặn ga phóng đi.
Honda PC 50 1970
Hãng Motobécane cũng tung ra kiểu xe Cady nhỏ nhắn thích hợp với giới
học sinh. Cái tên Cady có lẽ từ chữ Cadet, cho biết đây là kiểu em út
trong gia đình Motobécane. Tuy cũng dùng động cơ 50 cc nhưng xe chỉ chạy
được tối đa 40km/giờ. Chạy chậm có vẻ là một khuyết điểm của xe cộ
nhưng đây lại là ưu điểm vì nó là lý do để các bậc phụ huynh chọn mua xe
cho con mình để được an tâm hơn. Với khuynh hướng design nhiều màu sắc
vào đầu thập niên 1970, xe Cady lúc đầu sơn nâu, hay xám, về sau sơn các
màu xanh đỏ vàng sặc sỡ. Cùng với sự xuất hiện của mini jupe, đường phố
Sài Gòn thấy xuất hiện xe mini Cady với hai bánh xe nhỏ trông rất xinh
xắn, đồng thời mini xe đạp cũng xuất hiện và các cô nữ sinh áo dài mini
trông trẻ trung, tươi tắn tung tăng trên các loại xe mini đủ màu sắc.
Motobécane Mini Cady 1972
Xa lộ Biên Hòa, ngày nay gọi là xa lộ Hà Nội, thời đó còn rất ít xe
nên trở thành đường thử và đua xe gắn máy. Các loại xe gắn được đem ra
chạy hết tốc độ vào giờ ít xe. Tuy không có tạp chí phê bình, điểm các
loại xe gắn máy nhưng ưu khuyết điểm của các loại được truyền miệng rộng
rãi. Các loại xe máy hai thì tuy có thể chạy nhanh nhưng khi chạy với
tốc độ cao nhiều giờ thì máy bị yếu đi, vận tốc giảm đi. Chỉ trừ có xe
Honda là được khen là càng nóng máy, càng chạy mạnh. Đúng ra chỉ có xe
Honda sau 1965 mới chạy lâu không bị giảm tốc độ vì Honda cải tiến hệ
thống phun nhớt, làm cho nhớt phun rất nhiều khiến cho khi máy nóng
không bị sức ma sát làm giảm tốc độ. Còn các loại Honda S65, C110, tuy
có thể chạy được đến tốc độ hơn 100km/giờ nhưng khi nóng máy thì cũng bị
chậm lại.Để tăng sức mạnh của xe, xi lanh được xoáy cho rộng thêm từ 50 cc thành ra 60 cc, 70 cc. Xe xoáy xi lanh chạy nhanh hơn, có thể đến hơn 100km/giờ nếu máy được chỉnh cho đúng.
Một trò chơi đánh cá thời đó của các yêng hùng xe gắn máy, gọi chệch từ chữ anh hùng vì đua xe là can đảm nhưng không phải là đáng khen, là lách dưới xe be. Xe be là xe kéo các xúc gỗ dài năm, bẩy mét. Một đầu khúc gỗ được cột vào xe vận tải phía trước, đầu phía sau gắn vào remorque sau, còn giữa xe vận tải và remorque sau không có gì ràng buộc. Chiều cao từ thân cây đến mặt đường chi hơn một mét. Các tay đua đánh cá xem ai dám lạng chui dưới gầm xe be từ bên này qua bên kia. Vì khoảng cách thấp nên không thể chạy thẳng đầu mà người lái phải lạng cho xe nghiêng đi thì mới đủ thấp mà chui qua. Nếu tính sai thời gian, người lạng có thể bị hai bánh sau chạy tới đụng và cán chết.
Xe gắn máy là phương tiện di chuyển, nhưng cũng là niềm say mê tốc độ của tuổi trẻ và sự hấp dẫn của màu sắc, kiểu dáng, tiếng nổ. Niềm say mê này đã ghi vào ký ức của nhiều người miền Nam lúc đó và tồn tại không phai nhạt với thời gian. Nó trở thành kỷ niệm đẹp mỗi khi nhớ lại giây phút dắt chiếc xe mới toanh đi về nhà và những ngày tháng rong ruổi trên những con ngựa sắt.
Honda Dame, Yamaha nam, Suzuki
Goebel, máy Sachs
Nguồn: Sưu Tầm (cafevannghe)
No comments:
Post a Comment