Thầy và Tôi
Tiên Sha - Lê Luyến
1- Thưở còn bé, làng tôi có vị sư trụ trì chùa Từ Tôn được mọi người,
không kể lương hay đạo, kính mến gọi là thầy. “Thầy” ở đây có nhiều
nghĩa, vừa là vị hòa thượng đức cao đạo trọng, vừa là người làu thông
sách vở thánh hiền, vừa là vị cha già lớn tuổi am hiểu sâu sắc chuyện
đời, sống trọn vẹn nghĩa tình thủy chung với bà con làng nước.
Người ta cũng không bận tâm tìm biết pháp danh của thầy làm gì, chỉ
thường dùng tên chùa mà gọi, lâu dần trở thành quen thuộc, từ đó thầy có
tên là Từ Tôn.
Ngoài tri thức đạo pháp uyên thâm là điều tất nhiên của bậc dày công tu
hành, thầy còn am tường thấu đáo được đạo trời tạo hóa nhiều lẽ biến
thiên, huyền diệu, nhiệm mầu vô biên. Riêng với con người, bất cứ trong
hoàn cảnh nào, lúc nào thầy cũng tỏ ra khoan hòa, độ lượng và chân
thành. Chẳng gắt gỏng, nặng nhẹ, chì chiết với ai và chưa hề tỏ một chút
bực tức, giận hờn nào. Với thầy, dường như mọi sự ở trên đời đều được
gạn lọc, hóa giải qua cái tâm tĩnh lặng, bác ái, vị tha của bậc tu hành.
Nét từ bi lồ lộ trong phong thái sinh hoạt hàng ngày. Thầy sống, kinh
kệ cần mẫn, làm việc siêng năng, hoạt động tích cực. Chuyện Đạo, chuyện
Đời thầy xem quan trọng như nhau, hoàn tất chu đáo mọi việc nhẹ nhàng
chẳng chút lơ là, chểnh mảng.
Hễ cứ nhà nào, người nào trong làng gặp phải cảnh tai ương hung hiểm hay
lâm vào hoàn cảnh ngặt nghèo bất trắc, thậm chí chuyện vợ chồng con cái
lục đục, bất hòa... thì hầu như đều có mặt thầy xuất hiện vào lúc sớm
nhất để giúp đỡ, xoa dịu, an ủi hay hòa giải, hàn gắn mọi vết thương
đau. Khó khăn cách mấy thầy cũng cố gắng tìm cách làm cho bằng được,
thậm chí còn làm thật tốt nữa là đằng khác. Hầu như mọi người đều lĩnh
hội lời khuyên của thầy để áp dụng cho cuộc sống hiện tại của họ.
Không chỉ chừng đó. Tâm của thầy còn sáng ngời tình thương sâu sắc, có ý
nghĩa góp phần vun bón thêm mảnh đất quê hương chút mầm xanh tương lai
thế hệ con cháu mai sau qua việc làm thực tế đầy tình người của bậc
thức giả. Thầy đứng ra vận động với chính quyền tỉnh, thành và sở tại
địa phương, cũng như các tổ chức từ thiện quốc tế để xin kinh phí xây
dựng một trường học nhỏ nằm trong khuôn viên chùa, bắt đầu thực hiện kế
hoạch khai hóa cho các em học sinh con nhà nghèo hoặc côi cút. Nhờ vậy,
tôi bắt đầu bài học khai tâm lớp vỡ lòng trong ngôi trường chùa nghèo,
không học phí của thầy tạo dựng.
Có ai hỏi nhờ đâu mà được vậy? Thầy trả lời nhờ vào cái Tâm có chữ Nhẫn,
tức Hạnh nhẫn nhục Balamật. Lâu dần, người dân cảm hóa, xem thầy Từ Tôn
là hình ảnh của Bồ Tát thị hiện, xem lời nói hiếm hoi của thầy là vàng
ngọc, là mệnh lệnh xuất phát từ trái tim nhà Phật, xem việc làm của thầy
là cứu độ chúng sanh.
Thầy chỉ nói lúc cần thiết. Tôi còn nhớ có lần thầy nói với mọi người
một câu mà mãi đến nhiều năm sau nầy khi trưởng thành, lăn lộn vào giông
bão cuộc đời, tôi mới thấu hiểu được phần nào lý lẽ thâm sâu của bậc
chân tu “hành thâm Bát Nhã“: “Giá trị lời nói không phải phát ra từ
người mình kính trọng, mà chính vì sự kiểm chứng chính xác của người
nghe, hợp với năng lực trí tuệ và con đường tâm linh của mình. Đời sống
tâm linh cao đẹp là con đường chứng nghiệm thực tế.’’ Qua lời thầy dạy,
qua cung cách sống của thầy, tôi nhận thức ra được phần nào chân lý vi
diệu nhờ thầy khai mở, điểm hóa ban đầu, tôi hiểu về Đạo thấm nhuần và
dễ dàng hơn. Về sau, tôi tập nhìn vào quãng đời dài, rất dài nỗi long
đong, lận đận của mình mà phán xét, suy ngẫm. Có lẽ nhờ vậy mà trên bước
đường truân chuyên, chìm nổi, tù đày, lưu lạc mai hậu đã giúp tôi phần
nào bình tâm, vững vàng, không ngã quị vì tai trời vạ nước nghiệt ngã,
bất hạnh, thất vọng và đau khổ chập chùng.
Tuổi ấu thơ của tôi lớn lên, gần gũi trong khung cảnh lớp học và sự trầm
lặng của khuôn viên ngôi chùa làng cùng với hình ảnh các chú tiểu và
những vị sư tăng sớm tối kinh kệ. Lớn hơn một chút nữa, cha mẹ cho tôi
gia nhập vào đoàn thiếu niên oanh vũ gia đình Phật tử Từ Tôn cũng do
thầy chủ xướng thành lập trong cao trào thịnh phát của Phật giáo miền
Trung vào thời điểm thập niên 50. Tôi lại có thêm cơ hội rèn luyện bản
thân theo con đường giáo huấn khuôn phép, lễ nghi Phật đạo. Hàng tuần
cùng các anh chị huynh trưởng và các bạn trang lứa, tôi học giáo lý, lên
Niệm Phật đường đảnh lễ chư Phật, tập tụng niệm kinh cầu an, cầu siêu,
sám hối. Việc học hành tu tập tưởng nhẹ như mây trôi, giản dị như trong
đời sống bình thường, nào ngờ chẳng đơn giản chút nào và không làm sao
hấp dẫn được đứa bé hiếu động như tôi, nghịch ngợm, vốn ưa leo trèo chạy
nhảy hơn là ngồi yên một chỗ nắn nót từng chữ viết, ê a từng lời kinh
khó hiểu. Học giáo lý, nghe thuyết giảng nhưng quả thật tôi chẳng hiểu
biết là bao. Khi phát biểu lại, nếu không lệch lạc thì cũng chưa chắc đã
đúng.
Tôi chỉ làm một thứ “répétiteur“ đơn giản mà cũng không xong, bởi lẽ,
tôi chưa nhận diện được thực hư, chân giả. Càng học càng thấy khó, càng
tu rèn càng thấy khổ. Con đường học, đạo sao mà nhiêu khê quá. Tuy vậy,
lớn dần vào độ tuổi suy nghĩ, tôi vẫn là đứa trẻ hấp thụ được những tinh
hoa của cửa thiền thật trong sáng, thuận lòng. Đó là may mắn nhờ vào
ngộ tánh. Cái bản thể chân thật, tự tại, bao quát minh mông vô tận vô
biên chính là cái bản thể chung, tốt lành khởi đầu của chúng sanh như
câu: “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”. Phật học đã âm thầm gieo vào lòng tôi
một hạt nhân quý hiếm từ lúc nào mà thời đó tôi chưa cảm nhận được.
Tôi giã từ mái trường tiểu học chùa làng, bước lên bậc trung học ở
trường tư thục thành phố. Vào lứa tuổi dậy thì, khởi đầu những biến động
tâm sinh lý với nhiều mơ mộng xao xuyến, rạo rực lửa đam mê dục vọng,
khiến tôi không ít suy nghĩ viển vông, lẩn thẩn trong tâm hồn. Đêm ngồi
một mình nhìn ánh sao trời, ngắm cảnh nam thanh nữ tú dập dìu qua lại
trên phố phường ngập tràn ánh sáng đèn màu hay nằm thao thức nghe tiếng
gió luồn qua khe cửa, nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên mái hiên... lòng
bỗng dưng tư lự, bâng khuâng vô cớ.
Hình ảnh những khuôn mặt khả ái với mái tóc thề phủ bờ vai, chiếc nón lá
che nghiêng, những tà áo dài nữ sinh tha thướt tung bay trong gió, quấn
quít ôm sát bắp đùi tròn lẳn, những đường gân nổi hình chữ V hấp dẫn
trên cặp mông nở nang ẩn hiện chập chờn sau vạt áo, những bước chân chim
tung tăng đi đến trường với chiếc cặp sách trên tay, e ấp che hờ khuôn
ngực tròn trịa, chắc nịch con gái... làm tôi xốn xang phải ngoảnh mặt.
Nhìn thì phạm tội, ngó lơ cũng chẳng hết tội. Bởi lẻ, không nhìn mà lại
nhìn – do tại cái tâm. Ý niệm giữa Đạo và Đời nẩy sinh trong tư tưởng
tôi những tranh chấp quyết liệt. Và lần nào cũng vậy, phần đời lúc nào
cũng thắng thế. Làm sao để định tâm lại vẫn là suy nghĩ trăn trở trong
lòng. Tôi kiểm điểm rồi nhớ lời thầy dạy, tự nhắc nhở mình: tu tại Tâm,
tu tại Tâm, tu tại Tâm... Tôi quyết định dành thời gian rỗi rảnh trở về
thăm lại chùa hàng tuần. Hy vọng với tiếng mõ câu kinh, với giáo lý giải
kết, với không khí trầm lặng trang nghiêm và lời giáo hóa chân tình của
thầy... sẽ giúp làm dịu đi những xao xác trong lòng.
Tôi nặng đời trần tục, mải miết mê luyến dục vọng, đã vụng về lại thêm
chây lười tu tập mà tiến trình học đạo thì quá cao diệu, thâm sâu và
mênh mông làm sao có thể đạt được tới đích? Tội nghiệp, tôi làm thân tằm
ăn dâu để nhả tơ mong hướng thượng, tô điểm làm đẹp cuộc đời, nào ngờ,
tơ đâu chẳng thấy mà chỉ thấy nhả ra lại toàn là thứ mình đã ăn, chẳng
thể tiêu hóa được. Đời tôi còn vương vấn quá nhiều vọng tưởng, lục dục
thất tình, nên chi là một Phật tử mà lại không dám quy y vì sợ phạm tội,
phạm giới cấm. Nam mô a di đà Phật, lời thầy dạy con biết là không thể
nào thực hiện nổi, xin thầy rộng lượng từ bi tha thứ cho con.
Từ đó, tôi lặng lẽ bỏ cuộc.
2- Lần thứ hai tôi nghe tiếng súng vang rền trong thành phố quê hương
vào tết Mậu Thân 68, nơi đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân đoàn I – Quân khu
I.
Lần đầu tiên, biến cố Phật Đản 1963 đã đẩy những người tu hành ra khỏi
mái chùa tĩnh lặng. Phật giáo đứng lên đấu tranh. Tình hình chính trường
miền Nam năm 63 xáo trộn dữ dội đã là nguyên nhân đưa đến kết quả hàng
loạt những biến động mà hệ lụy khởi đầu là vụ Phật Đản miền Trung. Lợi
dụng thời cơ ngàn vàng, bọn tả khuynh mỵ dân khoác áo yêu nước, bọn tình
báo chiến lược Cộng Sản đội lốt nhà tu hay bọn hoạt đầu chính trị ẩn
phục trong trường đại học, trung học, cơ quan chính quyền... đã xách
động sinh viên học sinh và đồng bào Phật giáo đồ thuần thành xuống đường
chống chính phủ vì đạo pháp bị bức tử, trong lúc những người lãnh đạo
miền Nam còn đang bận tâm ra sức xâu xé lẫn nhau để tranh giành quyền
lực và ngôi vị.
Nước Việt tự hào bốn ngàn năm văn hiến nhưng đã gần một thế kỷ trôi qua
vẫn không sản sinh ra nổi một vị anh hùng tuấn kiệt để thống nhất sơn
hà, lèo lái vận mệnh tổ quốc đang hồi phong ba nghiêng ngửa. Miền Nam
không có một lãnh tụ tài đức vẹn toàn để vỗ về an dân, vạch rõ thủ đoạn
“mượn dao giết người”, xúi dục Phật giáo loạn động đất nước hòng mưu
toan cưỡng chiếm trọn vẹn lãnh thổ nước Việt của bọn tình báo nước ngoài
và Cộng sản. Việc nước, việc dân hầu hết đều do bàn tay điều hướng của
ngoại bang, đứng đầu là Mỹ.
Miền Bắc thì càng tệ hại hơn nữa. Bọn cầm quyền Bắc bộ phủ điêu trá và
đầy tham vọng, mượn lốt áo yêu nước thương nòi rồi toa rập với bọn Sản
quan thầy Nga - Tàu, bất kể thị phi trắng đen, nhẫn tâm gây ra cuộc
chiến huynh đệ tương tàn khốc liệt. Quê Mẹ Việt Nam một ngày bỗng hóa
thành là võ đài cho cuộc thư hùng sinh tử giữa hai anh chàng cao bồi
khổng lồ, mà mỗi bên đều kéo theo một đám chư hầu đông đúc của hai phe
Quốc - Cộng. Từ đó, hận thù chết chóc gieo rắc triền miên xuống đầu
lương dân 3 miền nước Việt.
Trong chiến tranh, lớp trẻ là nguồn lực dồi dào nhất có thể huy động bất
cứ lúc nào để bảo vệ tổ quốc. Họ nhận lãnh trách nhiệm đối với quê
hương như một niềm vinh dự to lớn nhưng cũng là thành phần chịu nhiều
thiệt thòi nhất. Chưa kịp hiểu rõ đời đã bị đẩy vào đời. Chiến tranh
bùng phát ào ạt như ngọn lửa táp ngang mày.
Tôi có lệnh gọi động viên khi đất nước còn mang cái tang chung của mùa Xuân Mậu Thân 68.
Số
tôi học hành không đạt, Đạo hạnh cũng chẳng thông, bây giờ tôi nhập Đời
học cách giết người, uống rượu, tà dâm, dối trá mà trong trí vẫn thuộc
nằm lòng năm điều răn cấm của Ngũ giới nhà Phật là: không sát sanh,
không uống rượu, không nói láo, không tà dâm, không trộm cướp; Còn Nho
giáo thì có Ngũ thường là: bất nhơn, bất nghĩa, bất lễ, bất trí, bất
tín. Tôi ngẫm, mình chỉ còn thiếu một cái nữa là phạm đủ ngũ giới, ngũ
thường. Mặc cảm tội lỗi dằn vặt, hành hạ không ít. Tôi sống lặng lẽ cô
đơn, xa lánh mọi người.
Mang tâm trạng bất ổn đó, tôi bước vào quân trường. Thời gian trui rèn,
thao luyện đổ mồ hôi. Ngày, bận bịu tất bật với những bài học tác xạ,
chiến thuật, lãnh đạo chỉ huy, tác chiến trong rừng, trong thành phố...
Đêm, không nằm trực tuyến thì tập dạ hành hay quân phong quân kỷ, trình
diện dã chiến... Từ mờ sáng đến tối mịt, lúc nào quân trường cũng rầm
rập tiếng đếm nhịp bước đều, đâu đâu cũng nghe vang vang hành khúc:
“Đường trường xa... Đoàn hùng binh...” Thân xác mệt mỏi rã rời, đầu óc
trơ lỳ chai cứng.
“Cư An Tư Nguy“ mang trên vai áo trong quân trường Thủ Đức tưởng nhẹ
tênh mà thật ra lại quá nhọc nhằn, nặng nề. Khi an không quên lúc nguy,
khi vững đừng xao lãng có thể mất, khi trị phải nhớ lúc loạn... Cho hay,
khi tổ quốc đã tin tưởng giao phó, ủy thác lớp người trẻ trọng trách
bảo vệ núi sông thì không thể chểnh mảng coi thường được. Thế rồi lâu
dần cũng quen. Đời Sinh viên Sĩ quan càng lên cấp trưởng càng nhẹ nhàng,
nỗi lao nhọc khó khăn ban đầu vơi dần đi, giúp tôi loại bỏ được chán
chường, quân bình lại tâm lý. Tôi thấy mình trưởng thành lên, tự tin hơn
và yêu đời ra. Có lẽ, nghiệp dĩ nhà binh với đôi giày saut và bộ quần
áo trận thích hợp với cuộc đời tôi hơn. Hãnh diện từ đấy mà gian nan
cũng bắt đầu từ đấy.
Thời gian lặng lẽ trôi, hết giai đoạn một qua giai đoạn hai rồi đến ngày mãn khóa.
Chọn đơn vị. Ai cũng sợ đi vùng I, tôi chọn.
Ở đâu mà chẳng là quê hương mình. Chọn binh chủng. Thứ lính ít người
muốn, tôi tình nguyện. Lính gì cũng là lính, cũng phải đánh giặc giữ
nước chứ có ở nhà tà tà bát phố đâu. Tôi vốn dĩ ghét chiến tranh. Chiến
tranh chết chóc, điêu tàn ai mà không ghét. Tuy nhiên, vì yêu tự do,
chống đối mọi hình thức độc tài, nên đã vào lính thì phải chiến đấu,
phải là lính “thứ thiệt“ mới là lính, mặc dầu đời lính tác chiến gian
nan, khổ cực, sống chết chẳng ai lường trước từ quan, cai cho đến đơ
dzem cùi bắp. Vất vả không ít, bị xài xể cũng nhiều. Tháng nào không
băng rừng vượt núi. Tuần nào không chết chóc bị thương. Đánh giặc ví như
ăn uống hàng ngày. Chiến trường luôn thúc giục, réo gọi người lính ra
đi. Lại lên đường, lại nhập trận, không từ chối tránh né được. Kỷ luật
mà. Lính nào mà không kỷ luật. Không kỷ luật, không có quân đội. Ở đâu
người lính cũng sẵn sàng. Chết sống do phần, thương vong có số, đời
người dài ngắn bởi trời cả. Bom rơi đạn lạc là chuyện thường tình, số
chết thì chổ nào cũng chết, có trốn ở nhà cũng ăn đạn pháo kích tiêu
tùng.
Người lính chiến VNCH kiêu hùng bất khuất, hào khí ngất trời là ở chỗ
đó. Họ hy sinh cho nhau lúc hiểm nghèo dễ dàng, tự nhiên vô cùng như đời
vẫn thường nói: xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Anh hùng, tử sĩ mấy ai
nghĩ tới lúc thập tử nhất sinh đó. Họ giết nhau cũng bình thường, nhưng
không hề chủ tâm nghĩ rằng mình phải giết người để trở thành anh hùng,
mặc dầu hiếm kẻ anh hùng nào mà lại không giết người. Điều khác nhau của
người quốc gia với kẻ thù cộng sản là ở chổ đó.
Cứ nghĩ thế rồi lòng thanh thản, tôi trải qua hết trận nầy đến trận khác
chẳng mấy khó khăn. Hao hụt thì bổ sung. Bạn bè chết, buồn phát khóc
cũng không tồn tại lâu, mà vui với bạn mới cũng chỉ trong giây lát bất
chợt. Vui buồn lẫn lộn. Thương tật, chết chóc như người bạn chung đường,
chung lối. Nỗi đau chiến tranh người lính chứng kiến hàng ngày tưởng
như sờ nắm, cầm bắt được. Chiến tranh thảm lắm, tự nó vốn đã tàn bạo.
Dân Việt chúng ta quá khổ, cái khổ lại quá lâu, quá nhiều. Mỏi mòn con
mắt trông đợi thái bình, an cư nhưng chẳng thấy đâu, chỉ toàn là hy vọng
hão huyền, ảo tưởng.
Thực sự thì người lính nào cũng muốn sống và sợ chết cả, họ chỉ không
còn nghĩ đến cái chết khi súng đã nổ. Người bộ đội Cộng Sản đi vào cuộc
chiến với lòng sắt máu căm hờn, với hành động vô nhân của những con
người máu lạnh. Còn người lính Cộng Hòa đi vào cuộc chiến với tâm trạng
bất đắc dĩ phải tự vệ, chấp nhận chiến tranh như tai trời vạ nước. Họ
hành động chống trả như một phương thức kháng cự. Anh đánh tôi, tôi đánh
trả. Anh muốn tàn sát tôi, tôi phải tiêu diệt anh. Quân dân miền Nam
chiến đấu quyết liệt để tự bảo vệ, để sinh tồn. Cứ thế, chiến tranh tiêu
hao cạn kiệt hết tài nguyên và tiền bạc, phung phí dần mòn hết quãng
tuổi xuân của thanh niên cả hai phe đối nghịch.
Đời quân ngũ, người lính bận bịu quân hành nên hiếm hoi có dịp trở về
thăm chùa, thăm thầy. Thỉnh thoảng hỏi mẹ, biết tin thầy khỏe. Tôi mừng.
3- Miền Nam bại trận. Một ngày, tất cả bỗng
điêu linh, đảo lộn theo quốc biến tháng Tư. Vận nước và thân phận con
người bị cuốn hút theo cùng giai đoạn lịch sử nghiệt ngã. Người lính
Cộng Hòa lũ lượt kéo nhau vào tù, cô đơn chống chọi với số phận. Ở trong
tù, người lính càng hiểu rõ hơn người Cộng Sản. Trí trá, giảo hoạt, tàn
bạo, sắt máu trong cái gọi là cải tạo hầu hủy diệt đời sống tinh thần
và sinh mạng đối phương mà không cần phải tra tấn, giết chết. “Trại cải
tạo” tức là nơi nhốt tù, dành cho những người tù lưu đày khổ sai không
có bản án. Người Cộng sản Việt Nam tiếp thu tất cả những tư tưởng hận
thù, hành động ác độc, man rợ của Chủ nghĩa Xã hội từ quan thầy Nga, Tầu
và họ đem ra áp dụng tại quê hương mình, xem ra còn xuất sắc hơn cả bậc
thầy của mình. Nhục hình trong trại cải tạo không cần phải thường xuyên
là đánh đập, hành hạ, tra tấn mà còn tàn độc nham hiểm hơn là tạo sự
đói khát, lo sợ triền miên, đau đớn dai dẳng của thể xác và tinh thần.
Lao dịch nặng nề cực nhọc, bất kể mưa nắng nóng lạnh. Đau ốm không thuốc
men. Cấm mua bán đổi chác, không sách vở báo chí, không nói năng hát hò
linh tinh, không tiếp xúc xã hội bên ngoài, không liên hệ người khác
đội, không thư từ nói thật đời sống trong trại tù... Hàng trăm thứ không
biến dần người tù thành đần độn.
Đói phải nói là no, ốm yếu phải nói là mạnh khỏe, cực khổ phải nói là
sung sướng, bất hạnh phải nói là hạnh phúc... Sự giả dối khiến người tù
đau khổ, tủi nhục, hầu triệt tiêu ý chí, nghị lực họ, biến họ thành
những cái xác vô hồn. Những sự thật phũ phàng tàn nhẫn diễn ra thường
xuyên, quen thuộc trong sinh hoạt hàng ngày khiến con người chai cứng,
lạnh lùng, dửng dưng không còn cảm xúc. Sự lừa lọc dối trá, nói xuôi nói
ngược cách nào cũng được, thay trắng đổi đen như trở bàn tay... khiến
người tù không còn tin vào bất cứ ai, bất cứ điều gì.
Nói đời sống trong tù quá tồi tệ, không ai dám. Bảo nhà tù Xã Hội Chủ
Nghĩa tốt, nhân đạo thì bị phê bình là mỉa mai chế độ. Không phát biểu
thì cho là “nín thở qua sông“. Quần áo cả năm mới được phát một bộ nên
phải mặc rách, vá chùm vá đụp thì bị phê bình là bôi bác lòng nhân đạo
của “cách mạng”... Tù lao động khổ sai ai mà không mặc rách, mặc vá. Đi
làm ngoài đồng trên nương, may mắn nhặt được củ khoai sót cắn ăn ngấu
nghiến cho đỡ đói, tối về quản giáo phê bình, bắt cả đội phải ngồi thâu
đêm để phân tích mổ xẻ, đào bới thành to chuyện. Nào là ăn uống mất vệ
sinh, vi phạm nội quy trại, nào là phá hoại tài sản XHCN, cuối cùng quy
cho cái tội khủng khiếp: phản động. Biết bao nhiêu câu chuyện cười ra
nước mắt trong tù. Cứ thế, năm tháng lê thê lạnh lùng trôi qua, khái
niệm về thời gian mất dần hết, người tù tự hủy diệt ngay chính đời mình
mà họ không hề hay biết hoặc chẳng cần biết đến làm gì.
Tôi đã thấy nhiều người còn sống, còn thở, còn ăn uống đi đứng như những
chiếc bóng âm thầm, những thây ma biết cử động. Đó là những con người
câm lặng, mạng sống mỗi ngày một còm cõi tiêu hao, từ thể xác đến tinh
thần. Cứ thế, họ mờ dần mờ dần rồi một ngày bỗng biến mất vĩnh viễn trên
cõi đời. Họ ra đi âm thầm, lặng lẽ như họ đã sống cuộc đời tù đày lặng
lẽ, âm thầm.
Tôi còn trẻ, còn nghị lực và ước vọng tương lai nên nhủ lòng phải gắng
mà sống, cố bức thoát ra khỏi vòng kiềm kẹp nghiệt ngã, nham hiểm của
nhà tù Cộng Sản thật im lìm đừng để họ biết đến. Nhớ lời thầy dạy ngày
xưa, tôi tập suy nghĩ, nói năng, đi đứng, im lặng theo chánh pháp để tự
bảo vệ mình, không cho kẻ thù có cơ hội xúc phạm đến nhân cách và đày ải
thể xác. Tôi suy nghĩ đến phương pháp rèn luyện thân thể theo phép thở
Yoga và thiền định.
Trong tù không đi, không ngồi thiền được thì nằm thiền (hành thiền, tọa
thiền, ngọa thiền). Tôi quán tưởng đến Phật, thành kính nghĩ về Phật với
tấm lòng từ bi bác ái sẽ cứu giúp tôi thoát khỏi tai kiếp hiểm nghèo.
Thời gian “nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại“ nó ảo hay thật, tôi
chẳng muốn biết hay không dám biết, chỉ nhớ rằng một ngày, lời cầu xin
đã cảm ứng, phép lạ nhiệm mầu hiển hiện giúp tôi vượt qua được mọi khó
khăn, gian khổ, tủi nhục nhất của đời người để sống còn. Tôi trở về làm
con người trên quê hương mình.
Ra tù, về với gia đình, với sinh hoạt XHCN, tôi mới nhìn thấy hết cảnh
xót xa cay đắng của người dân, mới thấu rõ được nỗi khó khăn lam lũ của
vợ hiền. Một xã hội bẩn thỉu và kỳ cục. Mọi cái hay nhất, đẹp nhất,
tuyệt vời nhất đều do công ơn của đảng. Kẻ có đảng tịch được hưởng mọi
ân sủng, người ngoài đảng mặc xác. Thương đàn con nheo nhóc, miếng ăn
cái mặc lúc nào cũng sừng sững trước mắt, ám ảnh hàng ngày hàng giờ, cả
trong giấc ngủ chập chờn. Tôi lao vào cuộc mưu tìm sinh kế, bất kể ngày
đêm khuya sớm, nắng mưa đất trời, bất kể răn đe hù dọa, chỉ mong sao
kiếm ra nhiều tiền lo cho các con đến tuổi ham ăn chóng lớn. Mọi thứ ăn
mặc, học hành, phải không như thúc hối bên lưng khiến tôi nhức nhối tâm
can.
Đêm thao thức, tôi lại nghĩ đến Đức Bồ Tát cứu nạn cứu khổ. Sáng dậy,
tìm lên chùa thắp hương đảnh lễ cầu nguyện chư Phật, xin Ngài dang tay
cứu giúp lần nữa. Tôi tìm đến thăm thầy. Thầy lúc nầy đã già lắm, lưng
còng tai lãng, tay lần tràng hạt run rẩy, hàng mi bạc che khuất ánh mắt
tinh anh ngời sáng từ bi nhưng tâm thầy thì vẫn linh tuệ, trí thầy vẫn
minh mẫn. Thầy bảo họa phúc thường vẫn đi kèm như hình với bóng và cẩn
trọng dặn dò tôi kiên nhẫn chờ đợi, chớ vọng động- Sống là động nhưng
lòng luôn bất động, nhất là giữ cái Tâm đừng để chao đảo, nghiêng ngả-
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. Hiện tại chỉ là thử thách, là rèn
luyện, hậu vận rồi sẽ khá hơn, không đắng cay nghiệt ngã mãi như vậy.
Thầy như có huệ nhãn nhìn xa thấy trước. Lời thầy bóng gió như tiết lộ
huyền cơ.
4- Đầu năm 92, gia đình tôi được qua Mỹ. Lời thầy quả ứng nghiệm. Từ nay trên bước đường lưu vong, tôi trở lại làm con người trên xứ người.
Ở xứ người, trong cuộc mưu tìm sinh kế buộc tôi phải bôn ba ngược xuôi
qua nhiều tiểu bang, thành phố, thay đổi nhiều công việc và chỗ ở, nhưng
dần dần rồi cũng ổn định tất cả.
Trong gia đình, tôi thường đem sự thật của đời, của mình đã trải qua để
làm gương dạy dỗ con cháu. Tôi ví đó như là những dòng suối, soi rọi
chính hình ảnh của tâm hồn, của một quãng đời tuổi trẻ lãng đãng ngông
cuồng, lao đao chìm nổi. Bảo là dạy con cháu nhưng thật ra là tôi đang
học, đang tự kiểm điểm lại chính mình, đang thể nghiệm chân lý vô thường
của con người. Khơi gợi trong dòng suối cuộc đời, tự tâm, tôi như nhìn
thấy lại từng khoảnh khắc thời gian, gạn lọc được cái đúng sai, tốt xấu,
phải trái, nên hư... để cuối cùng, trước sau, mình biết mình cần phải
dạy con cháu những điều gì. Trong dòng suối trong lành và trung thực ấy,
tôi thấy mình như trăm tuổi, là hình bóng một con người ngược xuôi tất
tả theo dòng thời gian bất tuyệt.
Vốn biết mình tài hèn đức bạc, không thể làm chuyện an bang tế thế, lấp
biển vá trời, nên chọn từ những mảnh vỡ của đời, tôi góp nhặt lại, đem
ghép thành chiếc gương không tì vết và thật trong suốt như Minh Tâm
Kính, ước mong con cháu soi rọi thấu rõ được bản thân mà chọn hướng đi
đúng đắn cho cuộc đời, đừng bao giờ để mắc phải sai phạm hầu thoát khỏi
bóng tối hãi hùng của tội lỗi và đau khổ. Riêng tôi, phần đời còn lại
tôi lấy hạnh phúc của gia đình và tha nhân làm hạnh phúc cho chính mình.
Cuối đời, tôi tìm niềm vui trong những trang sách. Tôi chọn văn chương
làm nơi gởi gắm tâm hồn và giải tỏa những uẩn khúc muộn phiền còn rơi
rớt lại sau cuộc chiến, sau tháng năm đăng đẳng trôi giạt lạc loài trên
xứ người.
Thời gian như bóng câu, bận bịu hoài chuyện làm ăn rồi cũng đến lúc được
thư nhàn. Đứa con gái út, ngày ra đi chưa đầy tám tuổi nay đã trưởng
thành, tốt nghiệp cao học, có công việc làm ăn cố định. Mấy đứa lớn thì
đã yên bề gia thất, có cuộc sống riêng tư no đủ. Còn lại hai vợ chồng
già, tôi kiếm cái job nhẹ nhàng thoải mái làm cho thư giãn thần kinh,
sức khỏe. Rảnh rang, đi chơi đây đó thăm đồng hương chiến hữu, biết thêm
cảnh trí đời sống quê người. Cuối tuần, dành thời gian chở cháu nội,
cháu ngoại đến chùa Huệ Quang học tiếng Việt, để nhắc nhở bầy trẻ đừng
bao giờ đánh mất cội nguồn, lãng quên tiếng mẹ đẻ, đồng thời cũng vay
mượn hình ảnh cảnh chùa nơi quê người đất khách mà tưởng nhớ Thầy xưa
chốn cũ. Thầy tôi nay đã quá vãng, thọ 100 tuổi.
Mười bảy năm lưu lạc xứ người. Nhìn lại chặng đường đã qua, cũng có cái
được, cái mất. Cái được thì quá ít ỏi nhưng cái mất thì nhiều vô số. Tuy
nhiên, được hay mất ở đời rồi cũng đến lúc chẳng còn là điều quan trọng
nữa. Ý nghĩa phù du của cuộc sống cho đến một ngày nào đó rồi ra ai
cũng hiểu. Đời sống sẽ có lúc lắng đọng, không còn là nỗi chập chùng lo
toan, muộn phiền.
Cứ thế, thời gian lặng lẽ cuồn cuộn trôi nhanh chóng vánh. Rồi thây kệ
những nỗi đau riêng, tôi đã cố làm sao mỗi ngày còn sống là một ngày
hoan hỷ và ý nghĩa - thời gian ngắn ngủi của nhiều nụ cười thân mến và
của những lời nói chân thành. Tôi đã cố gắng quên tất cả, không nhắc nhở
đến quá khứ làm gì nhưng đó là điều không dễ dàng. Tôi đã học cả đời để
cố quên, xem thường mọi thứ, nhưng càng gắng quên thì nỗi nhớ lại càng
nhói buốt, ray rứt. Tôi đang tìm cách để thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn
cay nghiệt của dĩ vãng đau thương và đoạn tuyệt với những hệ lụy ràng
buộc vướng bận của cuộc đời trần.
Riêng với Thầy kính yêu, tôi lại muốn nhớ, vạn lần không muốn đánh mất
hơi hướm, bóng dáng, kỷ niệm ngày xưa. Cho hay ở đời có cái cần học để
quên cũng có cái cần học để nhớ. Và hôm nay trên bước đường tha phương,
tôi đang khắc khoải nhớ về một quê hương yêu thương, cách trở nghìn
trùng. Nỗi nhớ đó luôn quặn thắt làm trĩu nặng lòng mình./-
Chesterfield VA, Aug 14.2008
No comments:
Post a Comment