hoànglonghải
1)-Tôi được “tha ra khỏi trại cải tạo” - câu ghi trong
“lệnh tha” ngày 2 tháng 7 năm 1982, tính ra, kể từ ngày “nhập trại” ở trường Taberd, 24 tháng 6 năm 1975 đến khi được tha là 7 năm 10 ngày, kể cả hai ngày nhuận trong các năm đó. Tôi tính từng ngày, cũng dễ hiểu thôi: “Nhất nhật tại tù…” mà.
“lệnh tha” ngày 2 tháng 7 năm 1982, tính ra, kể từ ngày “nhập trại” ở trường Taberd, 24 tháng 6 năm 1975 đến khi được tha là 7 năm 10 ngày, kể cả hai ngày nhuận trong các năm đó. Tôi tính từng ngày, cũng dễ hiểu thôi: “Nhất nhật tại tù…” mà.
Về
tới Saigon - bây giờ người ta gọi là “thành phố Hồ Chí Minh” - Các
“chú” Công An, Bộ Đội gọi một cách “thân thương” là “thành phố “bác” -
dân Nam bộ chọc quê bộ đội gọi là “thành phố bát” - chữ “t” - người Bắc
đọc là “tờ” thay vì chữ “c”, đọc là “cờ”, tôi phải “đi tìm nhà. “Ngày
tôi ra đi”, nhà ở đường Trương Minh Giảng - tên cũ - , đã bị tịch thu
hồi Đỗ Mười “đánh tư sản”, vợ tôi dắt sáu đứa con “chạy loạn” lòng vòng
quanh “thành phố “bát”, như đàn kiến trong truyện Kiều: “Kiến trong miệng chén có bò đi đâu!” “Có chạy đằng trời, khỏi tay “chúng ông”.
“Ông cách mạng” cảnh cáo như vậy. Nay “mấy mẹ con” tạm trú ở Cư xá
Thanh Đa, lô A. Nhìn quang cảnh chung quanh, tôi nghĩ ngay: “Chỗ nầy
không phải nơi con mình ở”. Tôi bị ám ảnh bởi câu chuyện “Mạnh mẫu dời
nhà” (1) trong “Cổ Học Tinh Hoa” và kinh nghiệm 10 năm “gõ đầu trẻ”. Quả
thật “mấy đứa học trò ở phố chợ” làm phiền tôi không ít, khác hẳn với
mấy đứa “học trò nhà quê”. Cái khôn lanh của bọn trẻ ở phố là con dao
hai lưỡi.
Đó
là chuyện ngày xưa - xưa là thời chế độ cũ và trước nữa. còn bây giờ,
có hai mái tranh che mưa nắng, che mưa ở ngay đất “Sai thành hoa lệ” cũ,
đã là may, làm gì có chuyện bà mẹ thầy Mạnh Tử muốn dời nhà đi đâu là
chỉ có “ba mươi giây”. “Ngày xưa qua rồi”! Bây giờ là “đời hộ khẩu” mà,
chỉ vậy đó thôi.
2)-Sự trở về của tôi là một mối thất vọng lớn của vợ và các con tôi.
Như
mọi gia đình miền Nam trước 1975, người chồng, cũng như người cha là
nguồn nuôi sống của vợ con. Người chồng đi làm hay ở lính, công chức, tư
chức, thợ hồ, thợ mộc, vân vân…, là cột trụ gia đình. Người vợ lo “tề
gia nội trợ”, buôn bán thêm “giúp chồng”. Tình hình chung như vậy, nhất
là khi chiến tranh chưa khốc liệt, như kể từ sau “biến cố tết Mậu Thân”.
Gia
đình nhỏ của tôi, cũng giống như tất cả các gia đình miền Nam hồi đó,
nhất là khi tôi còn cầm cục phấn đứng giảng bài cho học sinh trước bảng
đen hay sau khi tôi nhập ngũ, mỗi khi có khó khăn tiền bạc - lương tiền
không đủ tiêu - thì mẹ tôi, tôi gọi đùa là “bà già Mỹ quốc viện trợ”. Mẹ
tôi gom ở các anh chị tôi, mỗi nơi ít chục ngàn, “chi viện” cho tôi,
cũng bằng vài tháng lương, coi như lương tháng thứ 13, 14… “dư sức qua
cầu”.
Thế
rồi tôi đi ở tù! Vợ tôi ở nhà lo nuôi sáu đứa con đã khó khăn, lại còn
bị “đánh tư sản”, nhà bị “khóa chốt”, khó khăn chồng chất. Mẹ tôi thì đã
qua đời khi tôi đi tù được hai năm. Vả lại, nếu mẹ tôi còn sống, cũng
khó cho mẹ tôi đấy. Dưới chế độ mới, hay nói theo cách nói của “cán bộ
Cộng Sản”: “dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin” - mẹ tôi khó tìm nơi
các anh chị tôi chút ít “tiền còm” để giúp vợ tôi. Ai cũng khó khăn cả,
gian khổ cho toàn miền Nam chớ riêng gì gia đình ai. Các anh chị tôi
cũng vậy. Thương mẹ lắm nhưng việc dắm dúi đưa tiền cho mẹ tiêu giảm đi
rất nhiều.
Gặp
việc khó, vợ tôi nói với các con “Để chờ ba về”. Trong trí óc ngây thơ,
“tin tưởng vào cách mạng”, vợ tôi nghĩ tôi chỉ “đi học” năm bữa nửa
tháng rồi về, như “cách mạng thông báo” - “Cách mạng trước
sau như một” mà, “Nói sao làm vậy” mà, chớ đâu có ngờ “việc học” kéo
dài tới 7 năm hơn, mà cái ý kiến về sự trông cậy “để chờ ba về” in đậm
trong trí óc cô ấy, như một định kiến từ khi chúng tôi còn yêu nhau,
chưa cưới, khó gở bỏ đi được.
3)-Dĩ
nhiên, sự trông cậy đó tắt đi rất nhanh khi tôi ra tù được vài tháng.
Có lẽ vợ và các con tôi không nghĩ tôi là “người đàn ông bất tài” - tôi
hy vọng như thế - nhưng “rồi một hôm”, vợ chồng tôi đến thăm một người
bạn, trước kia từng làm “chánh sở giáo dục”, cũng đi cải tạo về. Anh ấy ở
nhà ngồi lặt rau muống, trong khi vợ anh ấy “chạy gạo” chưa về, trông
cảnh mà nản lòng.
Ông
Trần Tế Xương thời đại chúng ta, trông thê thảm hơn ông Trần Tế Xương
hồi đầu thế kỷ 20 nhiều. Dù bà vợ ông Tú Xương ngày xưa “chạy ăn từng
bữa toát mồ hôi” thì ông Tú vẫn “giày “dôn” anh diện, ô Tây anh cầm”, có
đâu như người đàn ông ngày nay sau khi “học tập” về - ông nào “giác ngộ
chủ nghĩa Mác” rồi, “học tập tốt” được tha - thì về ngồi “lặt rau
muống” hay “nhặt gạo sâu” mua ở hợp xác xã của phường.
Cái
“hào hoa phong nhã” của người sĩ quan phi công nay trở thành “phong đòn
gánh” và hình ảnh của người “cánh bằng lướt gió” bây giờ hiện ra là
“tên giặc lái ngụy” trong tù.
Thời thế đổi thay!
Trong
chế độ ấy, tôi là “người cùi”. Nói theo nghĩa bóng, nghĩa là tôi không
làm được việc gì để có tiền giúp - giúp chớ chưa nói là nuôi - vợ con.
Vợ tôi vẫn một mình cáng đáng mọi việc: kiếm gạo nuôi con ăn học, như bà
Tú Xương ngày xưa: “Một thân buôn bán ở ven sông, Nuôi nỗi năm con với
một chồng”. Câu thơ tiếp sau đó là hình ảnh một con cò: “Lặn lội thân cò
nơi quãng vắng…” Từ xưa đến giờ, hình ảnh con cò thường là hình ảnh
người đàn bà Việt Nam. Bà Trần Tế Xương đã vậy. Mẹ tôi cũng vậy và bây
giờ chính là vợ tôi. Biết các con tôi ngày sau sẽ ra sao, trong cái “chế
độ ưu việt” nầy! Người Việt chúng ta, đâu có thể nghĩ dễ dàng như người
Tây phương: “Qué sera, sera…” như Doris Day thường hát.
4)-Gần
tết rồi mà cái khó chưa chịu buông gia đình tôi, và hàng chục triệu gia
đình người dân Nam bộ. Gạo miền Tây không lên được. “Thành phố bác”
đang bên bờ vực thẳm của nạn đói. Không lý năm Quý Hợi mà dân Nam bộ đói
như dân Bắc kỳ năm Ất Dậu hay sao? Năm Ất Dậu đói là vì chánh sách cai
trị của ngoại bang, là Tây / Nhật. Vậy thì năm Quý Hợi nầy mà dân Saigon
đói, không phải vì chính sách cai trị của ngoại bang, mà chính là vì ách cai trị của nội bang.
Nội bang chính là Việt Cộng. Người miền Nam ngồi trên “đồng bằng sông
Cửu Long” - “Vựa lúa của miền Nam” mà đói gạo ăn thì có sự vô lý nào kỳ
quặc hơn?
Gần
ba mươi tết vợ tôi bị tịch thu một “xe gỗ ván sàn” từ trong rừng La Ngà
mới ra tới Quốc Lộ 15. Đây chẳng phải là “rừng vàng biển bạc” gì cả như
lời Hồ Chí Minh thường mượn câu tục ngữ nầy để tuyên truyền “chống Mỹ
ngụy”. Nhìn bản đồ, người ta thấy được một “chuỗi mật khu Việt Cộng” ở
miền Đông Nam Bộ: sát biên giới Kampuchia - Kampuchia là “hậu cần Việt
Cộng - là mật khu Dương Minh Châu - từ Dương Minh Châu đi vào vùng Trị
An, nơi bộ đội Việt Cộng thường “tập kết” trước khi vượt quốc lộ 15 ở
Đinh Quán. Định Quán là nơi Tây thua liểng xiểng trong cuộc “Chiến tranh
Đông Đương lần thứ nhất” khi chúng muốn “khóa” con đường giao liên nầy.
Qua khỏi Định Quán là vào La Ngà; từ đó con đường giao liên nối tới Võ
Đắt / Võ Xu - là nơi ông Ngô Đình Nhu gặp Phạm Hùng? Kế Võ Đắt / Võ Xu
là căn cứ 5, căn cứ 6 trên Quốc Lộ 1. Bên kia Quốc Lộ 1 là mật khu Mây
Tàu.
Từ
kinh nghiệm trong hai cuộc chiến vừa qua, và sợ dân chúng vùng Giốc Mơ,
Gia Kiệm… - phần đông là dân công giáo di cư - tiếp tế cho Phục Quốc
trong rừng La Ngà, Việt Cộng cho “khai thác trắng” - có nghĩa là “triệt
hạ rừng” từ vùng Trị An, La Ngà xuống tới Long Khánh: gỗ cho làm ván sàn
xuất khẩu, rừng trở thành trơ trụi. Vì vậy, cán bộ có “chỉ tiêu gỗ” bán
chui ra ngoài dân chúng, làm giàu rất nhanh. Dân Saigon, trong đó có vợ
tôi, qua đó, một thời mua gỗ làm ván sàn xuất khẩu, qua được một mùa
đói kém vào những năm 1982, 83. Những tên không có “chỉ tiêu gỗ” bắt
những tên có gỗ bán ra, chỉ là tranh ăn mà thôi, chớ có “xây dựng bằng
mười ngày nay” như Hồ Chí Minh hứa hẹn đâu! Người dân đen gánh chịu hậu
quả.
Mất gỗ - là mất cả vốn lẫn lời - vợ tôi về nhà nằm dài, nghĩ đến tết sắp đến, thương con mà chảy nước mắt.
5)-Tôi là người chồng bất tài.
Trưa
ba mươi tết, tôi ghé nhà anh tôi “thắp nhang cho mẹ” và “chúc tết” anh
chị tôi. Mẹ tôi thờ ở đây. Tôi không than van gì về khó khăn hiện tại,
nhưng anh tôi hiểu rất nhanh về nỗi túng cực của tôi. Khi tôi ra về, anh
tôi sai con trai cột vào “porte baggage” xe đạp của tôi một bao gạo lớn
bằng bao cát thời chiến tranh. Loại gạo “hợp tác xã”, nhà anh tôi không
ăn: Gạo lẫn nhiều sỏi, cát, trấu và xay không kỹ.
Trên
đường về, tôi ghé lại nhà chị tôi. Tôi dựng xe trước cửa hàng nhà chị.
Nói chuyện một lúc, trời tối đã lâu, tôi nói với chị: “Đường xa, thôi em
về.”
Chị tôi hỏi. (như chiếu lệ vì biết gia cảnh tôi hiện nay):
-“Tết em có mua sắm gì không?”
-“Không chị à! Đi tù 7 năm về, tết cũng vậy!”
Chị tôi lại hỏi:
-“Em chở gì sau xe?”
-“Gạo “hợp tác xã.” Sau một lúc ngần ngừ, tôi nói tiếp: “Nhà anh L. không ăn gạo nầy, cho em đem về ăn.”
Chị
tôi không nói. Hình như hàm răng trên của chị tôi cắn nhẹ vào môi dưới!
Chị tôi khóc hay sao? Bỗng chị ấy ôm tôi, gục đầu lên vai tôi. Tôi nghe
tiếng chị nói, nghẹn ngào: “Chị đâu có ngờ em cực đến vậy. Xin cái
người ta bỏ đem về ăn.”
Tôi cải chính: “Em không xin. Anh ấy tự cho đó chớ.”
Chị tôi nói, không còn tiếng khóc: “Gạo đó nhà cậu L. dành nấu cho chó ăn đó em. Thời buổi nầy mà nuôi một bầy chó!”
Bây giờ tới phiên tôi: Tôi thấy nghẹn ở cổ.
Tôi
vội bước ra cửa, kéo chiếc xe đạp đứng lên, rồi lên xe phóng đi, không
nhìn lui để xem thử chị tôi có đứng trông theo hay không!
6)-Chiều
mồng một tết, các con tôi đi đâu cả. Có lẽ chúng sang chơi nhà cậu mợ ở
phía bên kia chợ Thanh Đa. Chỉ còn tôi và vợ tôi ở nhà!
Nhà
tôi không thờ ai để người ngoài có thể biết trên bàn thờ có thắp sáng
nhang đèn hay có chưng dưa hấu, thịt mỡ, dưa hành... Giữa nhà chỉ thắp
một bóng đèn điện như ngày thường.
Suốt
từ sáng tới trưa, nhà không đỏ lửa. Suốt từ tối qua tới giờ, vợ tôi nằm
im trong buồng, trừ vài lần vợ tôi vào toilet. Xong, cô ấy lại vào
buồng nằm. Tôi biết vợ tôi buồn lắm. Tôi cũng không nói gì. Tôi nể vợ
hay tôn trọng sự đau khổ của người mẹ, người vợ thấy mình bất lực.
Chiều
lại, tôi mở bao gạo đem về chiều hôm qua, đong ba loon, đổ vào cái thau
nhựa, ngồi lượm sỏi, trấu. Vợ tôi đi ngang, nhìn liếc, nhắm bộ không
vui, nhưng không nói gì! Lượm gạo xong, tôi nấu cơm. Biết chừng không ăn
hết, nhưng tôi cứ nấu cả ba loon; biết đâu các con về, sẽ có gì ăn đỡ
đói.
Cơm
chín; tôi mở tủ, lấy hũ ruốc Huế ra. Kinh nghiệm bảy năm tù cải tạo dạy
cho tôi nhiều việc mà trước kia, tôi chưa từng làm bao giờ: Múc một
muỗng ruốc, “tao” với nước trong, gạn lấy nước đổ vào cái chảo nóng - có
“tóp” mỡ thì càng tốt - chờ sôi, đổ ra chén, thêm một ít ớt trái, chút
đường, ăn với cơm, có rau lang hay rau muống luộc, là món ăn ngon tuyệt
của nhà nghèo.
Xong, tôi đi vào buồng, gọi vợ tôi ra cùng ăn với tôi. Vợ tôi trả lời: “Anh ăn đi, em không đói!”
Không
đói! Không phải vậy. Vợ tôi giận anh tôi mấy năm nay! Sau bị đánh tư
sản, gặp hoạn nạn, khó khăn, nhất là sau khi mẹ tôi qua đời, anh chị em
cắn đắn nhau. Ai cũng quên câu mẹ tôi thường dạy khi chúng tôi còn nhỏ
“Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. Câu ca dao đơn giản như vậy mà không
ai nhớ lời mẹ dạy cả hay sao?
Biết
khó nói gì thêm với vợ, tôi ra bàn, ngồi ăn một mình. Gạo đã dở, mà
hình như có thêm vị đắng vì tình cảm anh chị em sứt mẻ. Tôi cố nhai, cố
nuốt cho xong chén cơm.
Anh
chị em nhà tôi vậy là mắc bẫy Cộng Sản cả đấy. Đánh phá gia đình người
miền Nam không phải là mục tiêu của người Cộng Sản Bắc Việt khi tấn công
miền Nam để xây dựng “xã hội xã hội chủ nghĩa” hay sao? “Cách mạng
triệt để” mà! Trong chế độ mới, làm sao Cộng Sản có thể để tồn tại cái
khung cảnh gia đình đầm ấm mà chúng ta từng đọc trong “Quốc Văn Giáo
Khoa Thư”: Cha tôi ngồi đọc báo, mẹ tôi ngồi đan áo, chúng tôi ngồi học
bài, v.v… Đó là hình ảnh một gia đình tư sản hay tiểu tư sản, thành phần
“giai cấp bóc lột và… phản động” mà Cộng Sản cần triệt hạ!
Khi
người chồng đi cải tạo về, ngồi lặt rau muống hay lượm gạo cho vợ con,
làm sao họ còn được cái ý chí mạnh mẽ đề kháng hay phục hồi chế độ cũ,
một chế độ mà Cộng Sản cho rằng “giai cấp thống trị miền Nam hưởng nhiều
đặc quyền, đặc lợi”.
Trong
chế độ mới, tôi là người bị “cùi”. Cả triệu người, sau khi được “tha ra
khỏi trại cải tạo” đều bị “cùi”. Đó là chính là cái mục đích sau cùng
của việc cải tạo. Sức đề kháng hoàn toàn bị triệt tiêu. Nếu cái sức đề
kháng đó được phục hồi, nó sẽ có sức mạnh gấp trăm lần trước kia, vì sức
mạnh của nó được tăng thêm bởi lòng hận thù.
Tôi cảm nhận một cách rõ ràng sự tan vở của gia đình tôi, bởi những đòn đánh chí tử vào cái bao tử của từng người, từng gia đình miền Nam.
Ba
mươi tháng Tư, sau khi đất nước bị Cộng Sản đánh tan tành, tới phiên
người miền Nam lần lượt vào trại cải tạo. Họ bắt đầu một sự tan vở mới:
Tan vở gia đình. Khi họ được “tha ra khỏi trại cải tạo” thì mọi sự đã
thay đổi, gia đình tan vở, ít ra là về mặt tinh thần.
Rõ ràng “Mất đất nước, mất tất cả.”
7)-Uống
nước xong, tôi vào buồng nằm phía sau lưng vợ tôi. Cô ấy nằm quay mặt
vào tường. Tôi đưa tay bỏ lên ngang hông vợ, sờ thấy cái bụng vợ tôi lép
kẹp. Hai hôm nay, cô ấy không ăn gì. Có lẽ cô ấy buồn, như câu mẹ tôi
thường nói ngày xưa vậy: “Tết nhứt mà cái bếp lạnh tanh.”
Tôi
rụt tay lui, rồi đưa mắt nhìn qua khe hở của hai cánh cửa sổ. Ngoài
kia, trời tối lúc nào mà tôi không hay. Trời mùa đông mau tối. Giữa bầu
trời đen, lấp lánh xa xa nhiều vì sao, làm tôi nhớ một ý văn tôi đã đọc
hồi còn đi học. “Mỗi người đi về huyệt mả đều mang một chuỗi hột sao,
kết tinh bằng những giọt nước mắt từ nơi mẹ, và chấm dứt bằng những
giọt nước mắt nhỏ trên ván quan tài. Giữa lúc thoát thai và giờ quá
vãng, đời người đếm biết bao nhiêu giọt mồ hôi và nước mắt. Mồ hôi và
nước mắt biểu hiện cho lao khổ và thương đau, nhưng cũng biểu hiện cho
sức sống. Con người không đổ mồ hôi và nước mắt trong đời mình là con
người bằng gỗ, chất gỗ mất lần nhựa sống, tan rã lần vì mục nát, người
đó có cũng như không.” (2)
Tôi
lại đưa tay gác lên ngang hông vợ. Cô ấy vẫn nằm im. Tôi lại nhìn qua
khung cửa. Những vì sao vẫn lấp như nó đã lấp lánh từ cả mấy ngàn năm
trước. Có phải nỗi khổ của con người cũng đã có từ ngàn xưa… và cả ngàn
năm sau nầy nữa. Nhưng, như đoạn văn trích dẫn trên, nó là biểu hiện cho
sức sống của con người, mà tác giả muốn nhắc nhở chúng ta về ý hương
tích cực với cuộc sống. Cũng nhờ cái ý hướng tích cực đó, những người tù
cải tạo phải gánh chịu bao nhiêu gian khổ trong tù để được về với gia
đình, trong khi gia đình đang tan rã lần vì sự tàn ác và mục rửa của chế
độ.
Rồi
tôi cảm nhận một cách rõ ràng sự bất lực của chính tôi và cái ý hướng
tích cực với cuộc sống đã bị hao mòn lần hồi. Sự bất lực của chính tôi
làm tôi thêm thương vợ và các con, một tình thương chân thật và sâu sắc
từ trước khi tôi cưới cô ấy, cũng như trước khi các con tôi lần lượt
chào đời.
hoànglonghải
(1)-Mạnh mẫu dời nhà (Cổ học tinh hoa - Liệt nữ truyện)
Thầy
Mạnh Tử, thuở nhỏ, nhà ở gần bãi tha ma. Thấy người ta đào, chôn, lăn
khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn khóc. Bà mẹ thấy thế nói:
“Chỗ này không phải chỗ con ta ở được”. Rồi, dọn nhà ra gần chợ.
Thầy
Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước
buôn bán điên đảo. Bà mẹ thấy thế lại nói: “Chỗ này cũng không phải chỗ
con ta ở được”. Bèn, dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy
Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, sách vở,
về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép, sách vở. Bây giờ bà mẹ mới vui
lòng, nói: “Chỗ này là chỗ con ta ở được đây”.
(2)-“Mùa sao”. Lưu Nghi.
No comments:
Post a Comment