Hoàng hậu NAM PHƯƠNG |
Người
Gò Công tôn sùng Trương Công Định. Nhưng Trương Công Định không phải là
người Gò Công, mà là Rể Gò Công. Hoàng Đế Bảo Đại cũng là Rể Gò Công. Rể
Gò Công thì nhiều lắm. Trong bài nầy chỉ đề cập vài điểm đặc biệt lý
thú về Hoàng Đế Bảo Đại mà thôi.
Chuyện tình nào cũng ít được suông sẻ, kể cả nhà vua cũng vậy. Muốn làm rể Gò Công không phải là dễ.
Gái
Gò Công không tự cho mình là đẹp, nhưng tự hào có được Hoàng Hậu Nam
Phương. Hoàng Hậu duy nhứt của triều Nguyễn, qua 12–13 đời vua, trị vì
153 năm, đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan–(Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan
con của Ông Nguyễn Hữu Hào). Người đẹp nhứt thời bấy giờ, bà đã ba năm
liền trúng giải hoa hậu Đông Dương. Người đã chiếm trọn trái tim Hoàng
Đế Bảo Đại khi mới gặp mặt lần đầu tiên trên chiếc tàu D’Artagnan.
Hoàng Đế si tình đến nỗi thà bỏ ngôi vua chớ không chịu bỏ làm rễ xứ Gò.
Thật vậy, khi bị bà Từ Cung từ chối, Bảo Đại nói nếu không lấy được Thị
Lan thì sẽ “ở vậy” suốt đời.
Nếu chọn một trong hai, tôi sẽ chọn Thị Lan chớ không chọn ngai vàng. Đó
là lời thuật của viên bí thư của Bảo Đại.
Ai
ở Gò Công mà không biết Nguyễn Hữu Hào rễ của Ông Huyện Sỹ tức Lê Phát
Đạt đã xây ba nhà thờ: Chợ Đũi, Hạnh Thông Tây và Thủ Đức để dâng cúng
cho dân địa phương. Dân địa phương thường gọi là nhà thờ Huyện Sỹ. Cái
trở ngại lớn nhứt của Bảo Đại đó là triều đình nhà Nguyễn thì chủ trương
chống lại công giáo, chống lại dân Tây mà Tây thì bị xem là kẻ xâm lược
nước mình, còn gia tộc của Nguyễn Hữu Thị Lan thì quốc tịch Pháp và
nặng nhứt là sùng đạo.
Người
Nam Kỳ từ đầu thế kỷ 20 đã truyền miệng nhau câu “Nhất Sỹ, nhì Phương,
tam Xường tứ Định”. Nghĩa là người giàu nhứt Nam Kỳ thời đó là gia đình
Huyện Sỹ (Tỷ phú), tức ông ngoại của Nguyễn Hữu Thị Lan.
Nếu
so với Hoàng Đế cuối cùng của Trung Hoa–vua Phổ Nghi sau khi bị hạ bệ
thì bị đày đi nông trường cải tạo nhiều năm mới được cho về làm công dân
Trung Quốc, thì Bảo Đại–người Rể Gò Công nầy may mắn hơn nhiều, diễm
phúc hơn nhiều cũng là nhờ bà Hoàng Hậu Nam Phương–Người con gái Gò Công
làm nên lịch sử.
Muốn
làm rể Gò Công không phải là dễ. Đầu tiên là việc chống đối của triều
đình. Các quan đại thần, ông nào cũng có con gái lớn chạc bằng hoặc nhỏ
tuổi hơn cũng đều muốn gả cho Bảo Đại. Đó là truyền thống, đó là danh dự
suốt cuộc đời làm quan cho triều đình. Làm Quốc trượng ai ai mà không
ham. Trong đoạn hồi ký “Con Rồng An Nam” ông tâm sự: “M.J Lan có một vẽ
đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi
say mê. Vì vậy tôi ngỏ ý xin cưới cô và cô đã đồng ý nhưng với điều
kiện:
- Gia đình cô đồng ý trước đả.
- Về phía gia đình cô Mariette Jeanne Lan cũng đồng ý nhưng phải thêm các điều kiện sau:
- Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay ngày cưới.
- Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo luật công giáo và giữ đạo.
-Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.
-Phải được Tòa Thánh La Mã cho phép hai người buộc ai.
Tiếp
đó cụ Tôn Thất Nhân nêu lý do: Thị Lan chỉ đậu tú tài toàn phần Pháp
không thể so ra với Trạng Nguyên xứ ta, lại đòi làm Hoàng Hậu nữa thì
không thể chấp nhận được.
Trước
Hoàng Tộc, Bảo Đại thẳng thắn trả lời Tôn Nhân Phủ như sau: “Trẫm
cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu.”
Câu nói lịch sử mà tất cả triều thần đều trố mắt nhìn nhau chịu thua.
Tình yêu là sức mạnh. Tình yêu là trên tất cả.
Cuối
cùng thì tình yêu đã thắng. Ngày cưới được ấn định vào ngày 20 tháng 3
năm 1934. Bảo Đại đúng 21 tuổi, và Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Bảo Đại
chính thức là Rể Gò Công.
Ngày mùng 10 tháng 2 (tức tháng 3 năm 1934) lễ tấn phong Hoàng Hậu được
diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Hoàng Hậu tước vị
Nam Phương Hoàng Hậu.
Bảo
Đại giải thích thêm về hai chữ Nam Phương như sau: “Tôi đã chọn tên
trị vì cho bà Hoàng Hậu mới là Nam Phương. Nam Phương có nghĩa là hương
thơm của miền Nam (Parfume du Sud) và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt
cho phép bà được phục sức màu vàng–màu dành riêng cho Hoàng Đế.” Người
đàn bà duy nhứt trong lịch sử Việt Nam được chỉ dụ đặc biệt nầy.
Trong
hồi ký . . . đã viết về Hoàng Hậu như sau: “Chân dung Nam Phương
Hoàng Hậu mặc quốc phục thật xứng đáng là “Đệ Nhất Phu Nhân”. Trông
gương mặt bà sang trọng mà không kiêu, hiền mà không tầm thường, dễ dãi.
Nụ cười kín đáo nhưng không quá e lệ. Đôi mắt nhỏ mà tinh anh. Chiếc cổ
tròn, thon và cao hợp với khuôn mặt. Dáng bà lại cao nên xứng đôi khi đi
bên cạnh Bảo Đại. Nếu chỉ so sánh về sắc đẹp với những vị đệ nhất phu
nhân khác trên thế giới như Hoàng Hậu xứ Monaco, Phi Luật Tân thì chắc
chắn bà Nam Phương Hoàng Hậu phải được chấm giải nhứt. Nhất không phải
chỉ riêng vì sắc đẹp, mà
nhất về tư cách và đạo đức và cách sống của bà từ ngày trở thành Hoàng
Hậu cho tới ngày tạ thế với tước vị Long Mỹ Hầu rồi tăng thêm là Long Mỹ
Quận Công và Kim Khánh Bội Tinh đệ nhứt hạng cho mẹ vợ là bà Lê Thị
Bình (Con ông tỷ phú Huyện Sỹ) với tước vị Mệnh Phụ Cung Đình đệ nhất
hạng.
Vua Bảo Đại và Hoàng Hậu Nam Phương |
Sau đây là vài chi tiết về người con rể Gò Công nầy:
“Theo Đế Hệ Nguyễn tộc:
Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh, Bảo, Quý, Định, Long, Trường, thì Bảo Đại
thuộc về hệ thứ 5 tức là Vĩnh–Vĩnh Thụy. * Lên ngôi Hoàng Đế năm 12 tuổi
(13 tuổi ta) ngày 8 tháng 1 năm 1925 lấy hiệu là Bảo Đại, và lại tiếp
tục sang Pháp du học.
*Bảo Đại hồi loan:
Tàu D’Artagnan cập bến cảng Saint Jacques (Vũng Tàu) đầu tháng 9 năm
1932. Ông ngỏ lời trước quốc dân là ông sẽ lãnh trách nhiệm làm cho toàn
thể quốc dân được tiến hành trong công cuộc văn minh tiến bộ. Sau đó ông
cải cách guồng máy chính trị cho phù hợp với thời gian lúc bấy giờ.
Như lập thêm Bộ Xã Hội Kinh Tế, Bộ Tài Chánh. . .
“Được phong làm Đông Cung Thái Tử năm vừa được 7 tuổi (năm Khải Định thứ 5) Chiếu chỉ ban ngày 20 tháng 2 năm 1920.
Sang Pháp du học ngày 24 tháng 2 năm 1922 ở biệt thự sang trọng đường Bourdonnais Paris.
Ông vừa học chữ Hán, chữ Quốc Ngữ và cả chữ Pháp. Ông được nhập học trường Lycée Condorcet Puis Sciences Politique.
Ngoài
giờ học ở trường, ông còn học thêm về âm nhạc, đàn dương cầm, chơi quần
vợt, tập lái xe hơi, bơi lội, và tập khiêu vũ với những cô đầm non cùng
lứa tuổi với ông.
*Thân thế:
Nói đến chàng rễ Gò Công Bảo Đại, chúng ta chưa có một manh mối nào về
cha ruột của người Hoàng Đế cuối cùng của Việt Nam nầy. Chỉ biết mẹ ruột
là bà Hoàng Thị Cúc tức là bà Từ Cung sau nầy. Còn cha ruột? Trong sách
sử cũng như các tư liệu đều nói rằng Ông Bửu Đảo tước hiệu là Phụng Hóa
Công là vua Khải Định là cha trên giấy tờ là người bất lực, vô hậu. Chỉ
biết Bảo Đại tên thật là
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh ngày 22 tháng 10 năm Quý Sửu (1913) tại Huế.
Theo nhà nghiên cứu Phan Thứ Lang thì sau khi lược qua những tập di
cảo đồ sộ, lọc ra nhiều chi tiết có liên quan đến việc Vĩnh Thụy chính
là con cụ Hường Đ.
Hành động đầu tiên:
Là một việc nhỏ nhưng lúc bấy giờ là một việc trọng đại, một cách mạng
trong nghi lễ triều đình: Bỏ năm lạy, chỉ có xá ba xá là “Tam khấu lể”.
Lý do là Ông muốn tôn trọng người lớn tuổi, đáng bậc chú, bậc cha, nếu
các vị quan trong triều mà phủ phục quỳ lạy một người tuổi chỉ đáng hàng
con cháu thì khó coi quá.
Còn người ngoại quốc thì chỉ bắt tay theo phép xã giao Tây phương cho được thoải mái.
*Đồng bạc Bảo Đại: Đựơc đúc bằng đồng mỏng. Có giá trị bằng ½ tiền Khải Định
Trong dân gian lúc bấy giờ có câu:
“Hai con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền”.
Sở thích: Gần như cái gì Bảo Đại cũng thích. Đánh bài, khiêu vũ, săn bắn, cởi voi, lái xe, đàn dương cầm. . .
Trong
tài liệu nói rằng ông ném vô sòng bài chiếc du thuyền 250.000 đô lúc
đó, đến nỗi cái lâu đài ở Cannes gần thành phố Nice, miền Nam nước Pháp,
cũng đem nướng luôn. Nhưng cũng có lần được thắng thì cho bà Nam Phương
đi mua sắm hả hê. Có lần đánh ở sòng bài quốc tế Monaco với các tiểu
vương và các nhà tư bản giàu sụ ông thắng đậm và mua ngay cho bà Mộng
Điệp chiếc nhẫn kim cương trị giá mấy triệu đô – là chiếc nhẫn kim
cương lớn nhất vùng Đông Dương lúc bấy giờ.
*Hạ
sanh Hoàng Tử: Đêm ngày 4 tháng 1 năm 1936, người dân đất thần kinh
nghe những tiếng súng bắn mừng báo tin Nam Phương đã hạ sanh, và lờ mờ
sáng lại một lần nữa 7 tiếng súng thần công làm lay động cả Hoàng Thành.
Dân chúng biết đó là Hoàng Nam vì là 7 tiếng súng còn nếu là công chúa
thì sẽ là 9 tiếng súng. Đó là Thái Tử Bảo Long. Bảo Đại chính thức đã có
với Nam Phương Hoàng Hậu năm người con: hai trai và ba gái:
Công chúa Phương Mai, ngày 1 – 4 năm 1937.
Công chúa Phương Liên, ngày 3 – 11 năm 1938.
Công chúa Phương Dung, ngày 5 – 2 năm 1942.
Hoàng tử Bảo Thắng năm 1948.
Hoàng hậu Nam Phương, Hoàng thái tử Bảo Long, các Công chúa Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung và hoàng tử Bảo Thăng khi mới sang Pháp. |
Những tình nhân của Bảo Đại:
Mộng Điệp :
Được
Bảo Đại cưng chiều chỉ sau Hoàng Hậu Nam Phương. Được Bảo Đại tín dụng
truyền chỉ mang Ấn Kiếm (Nguyễn Triều Chi Bảo) sang Pháp cho bà Nam
Phương cất giữ. Bảo Đại và Mộng Điệp có 3 người con:
Phương Thảo sanh năm 1946
Bảo Hồng sanh năm 1954
Bảo Sơn sanh năm 1957.
Lý Lệ Hà :
là người đẹp đã theo sát Bảo Đại từ Việt Nam sang Trung Quốc lưu vong.
Có người tả hai hàm răng của Lý Lệ Hà là hai hàng bạch ngọc và quý hơn
ngọc đã làm cho Bảo Đại say mê và bà Nam Phương phải buồn lòng và lo
lắng vì mối tình nầy.
Bà Đầm Monique Baudot :
Người tình cuối cùng: Khi bà Nam Phương tạ thế thì cựu Hoàng mới có 65
tuổi còn bà đầm Monique Baudot 35 (chỉ nhỏ hơn cựu Hoàng 30 tuổi thôi
mà). Bà đầm nầy với Bảo Long là nước với lửa. Đã choảng nhau, kiện tụng
vì cái ấn kiếm. Ai là chủ quyền của Ấn Kiếm nầy? Và hiện nay đang ở đâu
?
Cặp Ấn Kiếm–Mệnh
danh là Nguyễn Triều Chi Bảo – nầy do vua Bảo Đại truyền chỉ cho thứ phi
Mộng Điệp đã đem từ Việt Nam cùng hơn 600 món bảo vật đến tận tay bà
Nam Phương Hoàng Hậu bảo quản. Trong lúc tiếp nhận có bốn ông giúp bà
đưa vào tủ kiến (các ông Nguyễn Đệ, Nguyễn Duy Quang, Nguyễn Tiến Lãng
và Phạm Bích – con của Phạm Quỳnh).
Khi
bà còn sanh tiền đã nhắc nhở Thái Tử Bảo Long rằng: Đừng bao giờ mở tủ
kiến mà tách hai bảo vật nầy ra hai nơi. Đến khi Bảo Đại viết xong
cuốn sách “Con Rồng An Nam” muốn mượn con dấu để đóng lên quyển sách cho
thêm phần giá trị thì Bảo Long nhất quyết không cho, viện dẫn lý do là
Mẫu Hậu đã có dặn. Vì thế mà có cuộc tranh chấp kiện tụng ra tòa.
Tòa xử : “Bảo Đại giữ Quốc Ấn, còn Bảo Long được giữ Quốc Kiếm.” Đến nay không biết hai báu vật–hai linh vật nầy đang ở đâu?
Một
người Pháp nói rằng: “Chiếc ấn là vật có hồn.” Suy nghiệm thì ấn
kiếm–Nguyễn Triều Chi Bảo là có hồn thật. Cây Quốc Kiếm vì lý do nào đó
mà bị gãy đôi là điềm chia đôi đất nước 1954. Khi Quốc Ấn và Quốc Kiếm
tách rời nhau thì dân Việt Nam cũng bị chia lìa, chồng xa vợ, vợ
xa chồng vì tù đày, vì vượt biên, và mỗi người mỗi nẻo. Những người suy
tư đến vận mạng dân tộc, đất nước muốn hai linh vật nầy được châu về hợp
phố vì hai báu vật nầy vốn là vật bất khả phân.
* Phần Chót
: Rể Gò
Công
Cựu Hoàng Bảo Đại–Vị vua cuối cùng của Triều Nguyễn cũng là vị vua
cuối cùng của Việt Nam đã qua đời lúc 5 giờ sáng ngày thứ năm ngày 31
tháng 7 năm 1997, thọ 83 tuổi.
Đám tang của cựu Hoàng Bảo Đại đã được chính quyền nước Pháp, điện Elysée đứng ra lo liệu.
Ngày
chúa nhật 5 tháng 10 năm 1997, tại chùa Viện Phật Giáo Pháp ở ngoại ô
Paris, có tổ chức một lễ cầu siêu 49 ngày cho cựu Hoàng Bảo Đại
rất trọng thể gồm 1000 người Việt Nam tham dự, có cả bà chị ruột của Nam
Phương là bà Bá Tước Didelot (92 tuổi), Hoàng Tử Vĩnh San, con vua Duy
Tân, giáo sư Vũ Quốc Thúc cùng nhiều Ông Bà cùng thời với ông tham dự.
(Bà Thứ Phi Monique không có mặt vì không được mời).
Điều
làm nhiều người Việt Nam tham dự ngạc nhiên và cảm động đến ứa lệ
là Thái Tử Bảo Long–Mà người ta đồn rằng đã quên tiếng Việt–cảm tạ quan
khách bằng tiếng Việt chững chạc, rõ ràng trên máy vi âm. Điểm đáng nói
là các Hoàng Tử và Công Chúa mặc đại tang màu trắng tiến vào đại sảnh
quỳ lạy trước bàn thờ rất thuần thục và đã lạy trả những người đến
niệm hương. Sau buổi lễ các hoàng tử và công chúa trong tang phục đứng
chờ ở cửa để ân cần cảm tạ quan khách từng người đúng cổ tục. Theo các
báo chí, bưổi cầu siêu nầy đã quy tụ đầy đủ các tôn giáo như Công Giáo,
Phật
Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài. Các người tham dự đều có một nhận xét chung là
dù các con cái phải sống lưu vong nơi đất khách từ lâu vẫn còn giữ
truyền thống Việt Nam, thật xứng đáng là con của Cựu Hoàng.
Ngoài
ra, buổi lễ có treo cờ vàng ba sọc đỏ, có cử quốc thiều, có cử bài
“Đăng Đàn Cung” và giữ phút mặc niệm rất trang nghiêm. Điều nầy cũng
ghi cảm xúc đầy ý nghĩa cho những người tham dự về tinh thần Quốc Gia
Dân Tộc.
Trần Văn Nhựt
No comments:
Post a Comment