Gã cán bộ mở ổ khoá rồi phải dùng hết sức mạnh kéo tấm cửa sắt ra. Tấm
cửa nặng nề di chuyển cà lên thềm cửa gây ra tiếng kêu kèn kẹt nghe ghê
cả răng. Nó rất dày, có lẽ đã trải qua thời gian hàng trăm năm nên bị
sét rỉ ăn mòn đến độ đã khuyết bể đi nhiều mảng và trệ xuống. Có một
mảng thủng gần đáy cửa rộng đến nỗi có thể thò tay qua lại được. Gã cán
bộ đẩy tôi vào phòng, đóng cửa lại rồi khoá ổ khóa bên ngoài.
Dù đã gần tối và cửa đã đóng nhưng bên trong còn thấy được khá rõ nhờ
ánh sáng rọi vào từ những mảng thủng trên mái nhà. Tôi chưa kịp quan sát
chung quanh thì một người đàn ông cao lênh khênh tươi cười niềm nở bước
đến chào hỏi tôi. Đó là một ông già chừng sáu mươi tuổi, mặc chiếc áo
sơ mi ca-rô bỏ ngoài quần tây dài. Ông ta khá đẹp lão, lưng còn thẳng,
mắt sáng và sắc. Ông hỏi thăm tíu tít nhưng với giọng khào khào, quá nhỏ
như nói thầm, rất khó nghe. Tôi phải nghênh tai mà vẫn chỉ nghe tiếng
được tiếng mất. Sau một hồi nói chuyện, ông xưng là Nguyễn Trinh Đ.,
linh mục xứ đạo xã Phước Tỉnh thuộc tỉnh Phước Tuy cũ.
Căn phòng khá chật, chỉ có thể kê hai cái giường bố cá nhân song song,
thừa một chút khoảng trống đầu đuôi và chừa được một lối đi hẹp ở giữa.
Nhưng trong phòng chỉ có một chiếc giường của ông Đ. Giường kê sát một
bên vách, có mùng chống muỗi treo sẵn thả buông thõng phía sát bên vách,
phần ngoài dựng sẵn hai thanh gỗ nhỏ làm cóng mắc mùng. Phía trên trần,
ông Đ. có căng một tấm poncho để che mưa.
Bốn mặt vách, ngoại trừ một khoảng kê giường của ông Đ., đều loang lổ
dấu nước chảy, dấu rêu mốc và nhiều chỗ vôi lở loét hoen ố.
Nền phòng thì lại càng tệ hơn, dơ dáy, vài chỗ trơn trợt vì rêu mọc. Lớp
da tô xi-măng bị tróc lên quá nhiều để lộ ra bao nhiêu mảng cát thâm ố.
Nhất là ở các góc vách, cát bị trôi xói thành những kẽ hở chuột có thể
chun vào ở được. Cả phòng thoang thoảng mùi ẩm mốc lẫn mùi khai khai của
nước tiểu.
Phía trên mái, ngói bể trụt tạo thành nhiều lỗ hổng thấy cả trời.
Tôi thấy phần nền nhà còn nguyên vẹn nhất trong phòng lại chính là phần
sát vách đối diện chỗ ông Đ. kê giường ngủ, nhờ phần trên mái chưa bị
thủng. Thế là tôi chọn chỗ nằm ở đó, song song với chỗ nằm ông Đ.
Ông Đ. vẫn đứng nói chuyện và nhìn tôi sắp xếp chỗ nằm. Xong xuôi, tôi
nhìn chỗ kê giường của ông Đ. và cảm thấy vừa mừng vừa ngạc nhiên. Tại
sao khi trong phòng chỉ có một mình ông, ông Đ. không chọn chỗ tôi bây
giờ mà lại chọn chỗ xấu như vậy? Phần trên mái phía bên ấy là chỗ bị dột
nặng nhất, ông phải treo một tấm poncho cản nước khi mưa. Phần dưới nền
thì lỗ hổng lỗ hê lởm chởm gần khắp. Nếu ông Đ. chiếm mất cái chỗ tốt
của tôi bây giờ thì chắc tôi cũng khốn đốn vì tôi thiếu đồ trải và đồ
che mưa.
Nhìn tổng quát một lượt, tôi có cảm tưởng phòng này là một ngôi miếu đã
bỏ phế lâu ngày mà hai chúng tôi là lữ khách tạm trú. Tôi hỏi:
-Sao khi ở một mình tự do, ông không chọn bên này mà lại chọn bên ấy?
Ông Đ. ngập ngừng một chốc rồi nói:
-Tôi đã có tấm poncho lại có giường nên nằm chỗ nào cũng được, chỗ đó
tốt, tôi để lại phòng hờ cho người khác có thể thiếu đồ đạc vào ở.
Nghe câu nói ấy, tôi rất nể phục đạo hạnh của một bậc tu hành. Lát sau
tôi biết được ông Đ. đang bị bệnh ho. Ông ho nhiều, kéo dài từng cơn,
nhưng không khạc đờm. Tiếng ho có lúc nghe như xé ruột xé gan. Tôi nhìn
kỹ thấy người ông ta quá gầy, trông cao lêu nghêu. Có thể ông cao khoảng
một thước tám.
-Ông bị tội gì mà phải vô đây?
-Giúp người vượt biên!
-Ông ở phòng này lâu chưa? Thăm nuôi có đều không?
-Ở phòng này thì mới hơn ba tháng nhưng ở khám đường này thì đã lâu, bị
cấm tuyệt không được cho thăm nuôi. Trước tôi to và khỏe lắm chứ đâu có
như bây giờ!
Tôi chỉ biết mỉm cười với ông mà không an ủi được lời nào. Từ khi vào
phòng, tôi đã cảm thấy mắc tiểu quá chừng nhưng chưa tiện hỏi. Tới lúc
ấy, không thể nín nổi nữa, tôi buộc phải lên tiếng:
-Cầu tiêu mình ở đâu?
-Phòng này làm gì có cầu tiêu. Khi kẹt lắm thì kêu xin cán bộ còn thường thì mỗi tuần được đi một lần, chỉ một lần.
Tôi nghe nói mà đâm hoảng:
-Ông nói thật à?
Ông Đ. cười:
-Chẳng lẽ tôi đùa ông?
-Thế mắc tiểu thì làm sao?
-Ông cứ cho xuống mấy cái lỗ chuột đó. Từ nay lỗ bên đó của ông, bên này của tôi! - ông Đ. vừa nói vừa chỉ vào hai góc phòng.
-Mình đang tiểu nửa chừng lỡ cán bộ mở phòng thì sao?
-Ông khỏi lo, muốn mở cửa phòng cũng lâu lắm, ông đủ thì giờ để... ngưng mà.
Hèn gì mà từ khi vào phòng tôi đã cảm thấy có mùi khai. Nhìn kỹ hai góc
vách bên trong lại có nhiều dấu vết rong rêu không đẹp mắt tí nào. Trời
mùa mưa thật mau tối. Lát sau thì cán bộ lại đến mở cửa để tù nhà bếp
đưa cơm và cũng để điểm danh luôn thể. Không thấy có nước uống. Còn cơm
là hai lát bột lộn khoai mì mỏng cho hai người với một vá canh cải bẹ
xanh được một dúm xác nấu với muối. Tôi ngốn một chút là hết nhẵn phần
mình. Khi ấy trời bắt đầu mưa rả rích. Thỉnh thoảng, những giọt nước từ
trên mái rơi xuống bắn toé ra những giọt li ti đập vào mặt tôi, tạo một
cảm giác mát mát dễ chịu. Tôi nhìn sang giường ông Đ., dù chưa tối hẳn,
ông đã buông mùng. Ông ngồi thẳng lưng quay mặt vào vách, động môi lầm
thầm một cách đều đặn, tôi đoán là ông đọc kinh. Thân hình ông gần như
bất động. Nhìn ông lúc này, trong đầu óc tôi chợt nảy ra hình ảnh những
nhân vật kỳ dị đang ngồi luyện công trong các truyện kiếm hiệp Tàu. Đúng
đây là một ngôi cổ miếu mà ông Đ. và tôi là hai thầy trò đang tu luyện
trong đó! Trời mưa nặng hạt hơn. Nước dột cứ dồn trên tấm poncho của ông
Đ. để tạo thành những giọt lớn, rơi xuống nền nhà tạo ra những âm thanh
“tróc, tróc” đều đặn, buồn buồn. Bóng đêm ma quái phủ xuống dần. Tôi
bỗng cảm thấy nhớ nhà da diết, thấy nỗi cô đơn tràn ngập hồn mình. Cha
mẹ, vợ con tôi giờ này có tưởng tượng nổi tôi đang nằm trong một ngôi
nhà thế này không? Căn phòng này quả mang hình ảnh một ngôi cổ miếu
hoang phế thật. Nó chật hẹp, ẩm thấp, tường vách, nền, mái đều mang vẻ
hư hoại bởi sự tàn phá của thời gian. Trong đó có hai quái khách một già
một trẻ da xanh như tàu lá, nhịn đói nhịn khát, âm thầm luyện công...
Nghĩ tới đây, tôi bất giác thốt thành tiếng:
-Không biết thầy trò ta bao giờ được xuống núi đây?
Ông Đ. tưởng tôi nói gì với ông, quay lại nhìn tôi một cái làm tôi hơi
ngượng. Tôi lắc đầu cười trừ. Ông Đ. lại quay mặt vào vách tiếp tục động
môi lầm thầm... Tôi thiu thiu ngủ được một chốc thì giật mình tỉnh dậy.
Trong bóng tối mịt mù của căn phòng đóng cửa không đèn đuốc giữa một
đêm không trăng sao, tôi bỗng nghe tiếng nói chuyện thì thào của ông Đ.
Ông ta nói chuyện với ai giờ này? Trong phòng chỉ có hai người, tôi và
ông thôi chứ còn ai nữa đâu? Ông ấy đang mê sảng chăng? Hay ma nhập
chăng? Tôi rởn óc nghĩ tới trong căn phòng giam lâu đời này thì nhất
định không thiếu chi người đã bỏ mạng, thiếu chi những oan hồn? Tôi rùng
mình mấy cái rồi tự trấn tĩnh được. Tôi cố lắng tai nghe ông Đ. nói
những gì. Rõ ràng là giọng nói chuyện chứ không thể là giọng đọc kinh,
tôi không thể lầm lẫn tiết nhịp âm điệu giữa những bài kinh và những câu
nói chuyện có ngắt quãng thường tình được. Trong những câu nói thì thào
của ông, tôi còn nghe vài lần ông nhắc đến tên tôi nữa. Lòng tôi hoang
mang thắc mắc phải chăng chính ông ta là một người tù “cò mồi” đang báo
cáo gì đó với cán bộ công an? Không thể được, vì tôi có nghe được tiếng
ai khác nữa đâu! Chẳng lẽ trong phòng có máy vô tuyến? Ông Đ. nói chuyện
thật say sưa, dai dẳng. Dai dẳng đến độ cơn mệt mỏi, cơn buồn ngủ của
tôi đã thắng óc tò mò, nhận chìm tôi vào giấc ngủ trước khi ông Đ. chấm
dứt cuộc nói chuyện với kẻ vô hình...
Sáng hôm sau, khi cán bộ mở cửa điểm danh, mỗi người chúng tôi được phát một lon gô nước trong. Tôi hỏi:
-Nước phát sao hà tiện quá, mỗi ngày phát mấy lần?
-Ông Đ. cười:
-Bấy nhiêu cả rửa mặt súc miệng cả uống trong ngày đấy! Ông liệu lấy mà dùng!
Cuộc nói chuyện kỳ lạ của ông Đ. hồi hôm đã làm tôi phải dè chừng. Tôi
không dám nói chuyện cẩu thả với ông. Tôi phải cố nói chuyện hài hoà để
tạo sự thân mật, tin tưởng với ông Đ., rồi mới thăm dò:
-Hằng ngày ông vẫn đọc kinh chứ?
-Vâng. Đọc chứ sao không?
-Ông đọc kinh vào lúc nào? Không sợ cán bộ bắt gặp à?
-Tôi vẫn đọc sau khi ăn cơm chiều, khoảng năm rưỡi sáu giờ, lúc đó điểm danh rồi, tụi nó không đến các phòng nữa.
Tôi ngẫm nghĩ: Vậy thì đúng rồi, sau bữa cơm chiều, lúc ông quay mặt vào
vách nói lầm thầm, chính là lúc ông đọc kinh. Còn lúc ông thì thào giữa
đêm, chắc chắn là ông nói chuyện với ai rồi! Hay là ông chớm bệnh tâm
thần? Không thể được! Ngoài chứng bệnh ho khan và bị yếu thanh quản,
tiếng nói không cất lên được, trông ông ta còn minh mẫn sắc sảo lắm mà!
Thế là cả ngày đó tôi suy nghĩ cố tìm cho ra cái đáp số bí ẩn kia.
Đến gần mười giờ thì chúng tôi được phát phần ăn sáng. Tới năm giờ chiều
lại được phát một lần nữa. Bữa nào cũng gần gần như nhau, chỉ có miếng
bột khoai mì luộc và một vá canh cải nấu muối, chẳng mấy đổi thay.
Cũng như chiều hôm trước, sau khi ăn xong bữa cơm chiều, ông Đ. lại
buông mùng rồi ngồi ngay ngắn, quay mặt vào vách lầm thầm đọc kinh. Tôi
thì nằm hoài niệm chuyện xưa hoặc nhẩm ôn những vần thơ cổ để tự ru mình
vào giấc ngủ.
Rồi cũng như hôm trước, gần nửa đêm tôi lại thức giấc, lại nghe tiếng
nói chuyện thì thào của ông Đ. Đêm này tôi đã quen tiếng ông hơn và cũng
nhiều lần nghe ông nói đến tên tôi. Tôi lại cố lắng nghe nhưng không
cách nào hiểu được ông nói gì. Trời tuy tạnh nhưng vẫn không trăng sao
nên trong phòng vẫn tối om. Nhiều lần tôi muốn gọi ông nhưng rồi lại cố
dằn để theo dõi. Cuối cùng tôi lại chịu thua lối nói chuyện dai dẳng của
ông mà thiếp vào giấc ngủ...
Ngày thứ ba, trong khi tôi đang ngầm cố nhận xét về con người ông Đ. để
tìm ra thêm chút bí ẩn nào ở ông thì gã cán bộ võ trang đến mở cửa kéo
ra he hé:
-Đi cầu đi! Từng người một! Không được đi linh tinh đấy!
Nói xong, gã cán bộ võ trang bỏ đi mất. Tôi hơi bỡ ngỡ, đưa mắt nhìn ông Đ. dò hỏi:
-Đi cầu ở đâu đây ông?
Ông Đ. chỉ cái phòng để đi cho tôi rồi nói:
-Ông đi trước đi, cứ thong thả, mỗi lần cho đi cầu nó đợi chứ không thúc
hối gì đâu, bao giờ thấy mình về rồi nó mới đến khoá cửa lại.
Nhưng hôm ấy, tôi bị táo bón nên không mắc cầu. Tiểu tiện xong, tôi ra
sân hít không khí mấy cái rồi trở về liền. Tôi không mang giày dép, bước
chân đất rất nhẹ nên đến cửa phòng mà ông Đ. vẫn không hay. Cánh cửa
ông Đ. đã khép lại. Tôi chưa vội kéo cửa mà dán mắt ở một lỗ hở nhìn vào
phòng. Tôi bỗng giật mình, ông Đ. đã vén tấm mùng, chúi mặt ghé sát
miệng vào vách, đang nói chuyện với ai đó. Bây giờ thì tôi đã hiểu phần
nào của sự bí mật. Tôi thối người lui và đằng hắng rồi kéo cửa. Ông Đ.
vội buông tấm mùng bước ra hỏi tôi:
-Sao ông đi gì nhanh đến thế?
-Tôi bị bón quá không đi được.
Thế là tới phiên ông Đ. đi. Ông ôm cái hộp ông thường dùng đi vệ sinh
theo để đổ. Đó là một cái hộp kẽm vốn dùng để đựng một loại bánh ngọt
thượng hạng, vẻ ngoài trông còn mới và đẹp. Người ngoài nhìn thấy, có
thể tưởng rằng ông Đ. đang mang quà cho ai. Theo ông kể, đã có một lần
ông bị dùng dằng rất lâu khi đi cầu vì gặp một cán bộ mới đến trại xét
hỏi về cái hộp ấy.
Đợi ông Đ. đi khuất, tôi liền bước sang vén cái mùng ông ngay chỗ ông
vừa nói chuyện để quan sát. Nhưng tôi không thấy gì ngoài mấy lỗ lõm của
bức vách, có lẽ do người ta đóng đinh để treo móc gì đó làm lở ra, dấu
đã cũ. Ở phòng này, những lỗ như thế rất nhiều. Thật khó hiểu. Bức vách
này dày hơn nửa thước tây chứ vừa gì! Bên này nói bên kia làm sao nghe
được? Tôi thử tìm đi tìm lại vài lần vẫn không thấy dấu vết gì khác lạ. Ý
nghĩ ông Đ. mắc chứng bệnh tâm thần lại lởn vởn trong đầu tôi. Thế là
tôi trở về chỗ mình, lòng vẫn đầy thắc mắc. Tôi tự hứa phải quyết tìm
cho ra sự bí mật này.
Rồi đêm thứ ba, trong phòng lại diễn ra cảnh tương tự như hai đêm trước.
Tôi đã nhiều lần nhỏm dậy định bước sang chỗ ông Đ. nhưng rồi lại thôi.
Tôi cũng muốn gọi ông mà hỏi nhưng phần sợ, phần tiếc, không mở miệng
nổi. Đến hôm sau, khi ăn trưa xong, ông Đ. bỗng hỏi tôi:
-Ông Nguyễn Kha ở phòng A4 là bạn ông hả?
Quả thật tôi có người bạn tên Kha, người ta ghép anh cùng vụ và đưa đến
trại này một lần với tôi. Nhưng mấy ngày qua ông Đ. có tiếp xúc với ai
đâu mà biết? Có chuyện gì đây? Tôi đâm ra hoang mang lo lắng. Để chứng
tỏ mình thành thật, tôi nói:
-Vâng, tôi có người bạn tên Nguyễn Kha, một bạn khác là Lê Đình Khôi
cùng đến đây một lượt, nhưng tôi không biết mấy anh ấy hiện bị nhốt ở
phòng nào.
Ông Đ. nhanh nhảu thì thào:
-Ông Kha ở phòng A4 với cha Hương, cũng ở Phước Tỉnh và bị bắt một lần
với tôi. Còn ông Khôi thì ở phòng A3 với cha Nguyễn Minh, tuyên úy công
giáo tiểu khu Bình Long, ngay cạnh phòng mình.
Nghe ông Đ. nói, tôi nhẹ nhõm người. Đây là dịp thuận tiện nhất để tôi có thể tìm hiểu những thắc mắc mấy hôm nay, tôi hỏi:
-Làm sao ông biết rõ ràng như thế?
Đến phiên ông Đ. lúng túng:
-Tôi... cũng nghe người ta nói vậy thôi.
-Nhưng ông nghe trong trường hợp nào? Ai nói với ông chứ?
-À, hôm qua đi cầu, tôi nghe một anh tù nói.
Tôi tiến tới luôn:
-Tôi biết rồi, hằng đêm khi tôi ngủ, ông vẫn liên lạc với người ta để biết tin tức phải không?
Có lẽ ông Đ. nghĩ tôi đã biết chuyện, ông tỏ ra sợ hãi, năn nỉ:
Ông bỏ qua đi, trong tù buồn quá phải tìm cách nói chuyện một chút để
giải khuây. Ông có muốn nói chuyện với ông Khôi hay nhắn gì ông Kha
không?
Tôi sáng mắt lên:
-Có thể nói chuyện với mấy ông ấy được hả? Khi nào?
Ông Đ. cười:
-Ông muốn nói khi nào cũng được hết!
-Ngay bây giờ cũng được à? Cho tôi nói chuyện với ông Khôi đi!
-Được ngay!
Ông Đ. vén mùng lên, nhón hai ngón tay vào một trong những cái lỗ mà hôm
qua tôi nghĩ là do đóng đinh mẻ đi, lấy ra một cục đá phủ vôi. Ông gõ
tay vào vách ba cái thì tôi cũng nghe bên kia gõ đáp lại ba cái. Tôi
thấy ông Đ. ghé mắt vào nhìn qua cái lỗ ấy. Sau đó, ông ghé miệng vào
nói:
-Cha Minh đó hả! Cha khoẻ không? Ông Trọng ở phòng tôi muốn nói chuyện với ông Khôi!
Ông Đ. đưa tay ngoắc tôi lại và nhường chỗ cho tôi. Tôi cũng ghé mắt
nhìn qua cái lỗ và tôi bắt gặp một con mắt có vẻ cười. Ông Đ. giục:
-Nói chuyện đi!
Tôi ghé miệng vào lỗ:
-Anh Khôi đó hả? Khoẻ không?
Nhưng người bên kia tường không phải Khôi mà là ông cha Minh. Ông Minh
thăm hỏi tôi một cách niềm nở như với một người bạn thân. Sau những lời
xã giao thân tình, ông Minh nhường chỗ cho Khôi. Thế là tôi và Khôi nói
chuyện với nhau một hồi. Cứ thay nhau bên này nói thì bên kia đặt tai
vào lỗ mà nghe rồi làm ngược lại. Chúng tôi hết nói thì tới phiên ông Đ.
nói chuyện với ông Minh. Khi nói xong, ông Đ. lại nhém miếng đá bọc vôi
vào lỗ hổng. Thế là xong, ai mà biết ở đó là cái lỗ có thể nhìn xuyên
qua bên kia vách? Không ai ngờ những bức vách dày như vậy lại được đục
thủng để nói chuyện với nhau ba phòng liên tiếp!
Từ khi chuyện liên lạc giữa các phòng tù được “bạch hoá” đối với tôi,
ông Đ. ngày nào cũng thả sức nói chuyện xuyên tường. Liên tiếp ba phòng
từ phòng A2 đến A4, hễ phòng nào có chuyện gì là cả ba phòng đều biết.
Tôi không hiểu sao ông Đ. bị ho hơi nặng, giọng khào khào nói không nổi
mà cứ ưa nói chuyện liên miên như thế. Mỗi lần nói phải ép miệng vào cái
lỗ. Nhiều khi đang nói, ông lại phải dừng để ho và ho cả vào cái lỗ nói
chuyện. Đó cũng là một lý do khiến tôi không mấy thích thú khi phải
liên lạc với các bạn ở phòng khác. Lại nữa, nói chuyện như thế có thể
nguy hiểm đến chết người như chơi nếu cán bộ bắt gặp nên tôi cố tránh
bớt. Ở khám đường Bà Rịa, cán bộ đánh chết tù là chuyện không hiếm hoi
gì. Vì thế khi có ai gọi, bất đắc dĩ tôi phải tiếp chuyện mà thôi.
Phải nói là ông Đ. quá ghiền nói chuyện. Có lẽ vì lâu nay bị biệt giam
một mình ông không biết nói chuyện với ai. Nếu có nói chuyện xuyên tường
thì cũng phải dè chừng và có giới hạn vì chưa chắc người bên kia tường
đã thích nói. Bởi thế, mới ở chung với ông một thời gian ngắn, tôi đã
được biết khá nhiều về khám đường này, về bản thân ông.
Người trưởng khám đường Bà Rịa là thiếu úy công an Năm Huê. Ông này tuổi
non năm mươi, người xanh xao ốm yếu, lúc nào cũng tỏ ra rất thù hận
người quốc gia. Ông ta từng chỉ vào đám tù chính trị mà nói với bọn
thuộc cấp:
-Đây là những người đã từng giết hại cha mẹ, anh em, vợ con của các đồng
chí. Nay tôi cho phép các đồng chí tuỳ ý đền đáp thật xứng đáng với tội
lỗi của chúng!
Do đó, đám cán bộ ở khám đường, phần nhiều còn rất trẻ, đã thả sức hành
hạ tù mà không hề bị ai ngăn cấm. Vì thế, án mạng ở đây xảy ra rất
thường. Phó khám đường là Năm Bình, một người thuộc sắc dân thiểu số. Gã
này ít nói nhưng hay đánh đập tù.
Người nổi bật nhất ai cũng khiếp sợ là cán bộ Sơn. Gã là kẻ chuyên nghề
đánh tù rất tàn nhẫn, bất kể hậu quả. Hàng chục tù nhân ở đây đã trực
tiếp hoặc gián tiếp bị chết vì một tay y.
Hồi ấy, trại tù Bầu Lâm do đại úy Trần (hay Bùi?) Tấn Công làm trưởng
trại. Ông Công đem cả gia đình về sống bên cạnh trại. Phải nói đó là một
gia đình làm ăn gương mẫu. Họ cũng thức khuya dậy sớm lo trồng trọt,
chăn nuôi cần mẫn lắm. Có lẽ thấy vợ con lao nhọc không đành lòng, ông
Công thường mượn một số tù “tín nhiệm” về gánh nước tưới cà-phê, xới đất
làm cỏ hoặc tắm rửa cho đàn heo giúp gia đình. Để đáp lại công những
người tù này, bà Công bán rẻ cho họ gà, vịt, rau cải để họ dùng. Có lần
bà còn xin với ông cho phép họ làm thịt một con chó để nhậu với nhau
nữa.
Nhằm kỳ thu hoạch đậu phộng, ông bà Công nghĩ ra cách kiếm lợi thêm là
nấu đậu chín để bán cho tù. Việc này, ông bà giao cho người con gái
chừng hai mươi tuổi lo. Trại Bầu Lâm đang khẩn hoang một khu vực rộng
mênh mông, nhiều khe suối, đi lại cũng khá vất vả. Vì thương con gái,
ông Công lựa một anh tù khỏe mạnh theo gánh đậu cho cô bán. Dĩ nhiên là
kết quả rất khả quan. Nhưng một chuyện bất ngờ xảy đến là sau vụ thu
hoạch đậu phộng thì nàng ái nữ của ông trưởng trại mang bầu. Thế là anh
tù gánh đậu phộng bị kỷ luật, đưa về khám đường Bà Rịa thọ phạt. Anh ta
được cán bộ trực ngày chính là Sơn tiếp nhận. Sơn liền đưa anh ta vào
một phòng riêng biệt làm việc liền. Sáng hôm sau thì anh tù này chỉ còn
là một cái xác, lý do được đưa ra là anh ta dùng dây dù để thắt cổ tự
tử. Anh ta tự tử hay không thì những người tù đem anh ta đi chôn biết rõ
hơn ai hết.
Vụ khác, trong một lần thăm nuôi trước đây, một bà mẹ thăm nuôi con, quà
có một gói cà-phê và một lon gô đường cát. Những món quà gởi vào thường
được kê đủ trên một mảnh giấy. Khi anh tù kia đọc theo tờ kê hàng thì
tìm mãi vẫn thiếu gói cà-phê. Sơn hỏi thì anh tù cứ thật mà trả lời. Sơn
nổi giận cho xáo đổ hết mọi thứ của anh tù ra để tìm. Cái khổ là vì gói
cà-phê lại nằm dưới đáy lon gô đựng đường cát nên mới xảy ra chuyện.
Sơn kết tội là anh tù cố ý vu khống cán bộ ăn bớt đồ thăm của tù. Thế là
Sơn dùng một thanh gỗ đánh anh tù một trận nên thân. Anh tù về phòng
đau nằm liệt chẳng ăn uống gì được. Mấy ngày sau thì anh ta chết.
Một lần khác nữa, có một anh tù báo cáo là anh mất một gói tôm khô. Anh
cũng cho cán bộ biết tên bốn tội phạm hình sự đã lấy và chia nhau ăn.
Sơn hỏi thì bốn tên này không dám chối, nhận hết. Thế là Sơn đem cả bốn
tên ra dùng còng số tám còng hai cánh tay quặp ra sau lưng rồi dùng dây
mắc vào còng rút ngược lên theo bờ tường. Sau một lúc thọ phạt, cả bốn
đứa đều ói máu miệng và đều bị đứt mấy sợi gân ngón tay, chịu thương tật
vĩnh viễn. Chuyện ở khám đường vẫn còn nhiều, trên đây tôi chỉ ghi vài
chuyện điển hình.
Tiếp đây là chuyện ông Đ. kể về chính ông: Trước kia ông ở miền Bắc,
chịu không nổi sự áp bức của cộng sản nên trốn vào Nam. Ông từng làm
linh mục lãnh đạo nhiều xứ đạo, từng du lịch Đài Loan, Hồng Kông. Nghe
thì nghe thế thôi, tôi không để ý lắm. Nhưng có một chuyện ông tỏ ra
phẫn uất nhất, nhắc nhở bao nhiêu lần làm tôi nghe riết rồi cũng nhập
tâm: “Bọn vong ân bội nghĩa!”
Trước khi về hành đạo tại Phước Tỉnh, có một thời gian ông Đ. hành đạo ở
xứ đạo Sông Bé. Lúc ấy, vùng này còn nhiều rừng gỗ quí chưa được khai
thác. Xứ đạo của ông cũng có một nhà thờ lớn để giáo dân hành lễ. Nơi
này không được an ninh lắm. Quân đội Cộng hoà vẫn đóng gần đó, nhưng về
đêm thì bộ đội và du kích cộng sản cũng hay lui tới thăm viếng. Thành ra
cái thế ông Đ. phải ăn ở cho vừa lòng cả đôi bên. Cũng vì thế, ông Đ.
dần quen biết với viên bí thư huyện uỷ sở tại. Viên bí thư này tỏ ra rất
mực kính nể ông Đ., cư xử hết sức đứng đắn, nên trong đầu óc ông Đ.
cũng dần xoá đi cái mặc cảm về người cộng sản thời 45-54. Quà cáp của
viên bí thư thường là thịt nai, thịt heo rừng, mật ong, mọi thứ cứ nườm
nượp về với ông. Ông Đ. nhận ơn hoài, tất phải nghĩ cách báo trả. Ông
đem gạo, bột mì, sữa, đường tặng lại. Một hôm, ông bí thư huyện uỷ đề
nghị: “Chúng tôi rất cám ơn cha đã cho quà quá hậu hĩ. Gạo, bột mì,
đường là những thứ chúng tôi cần, nhưng có một thứ chúng tôi còn cần hơn
nữa, đó là thuốc men. Nếu cha giúp cho được thứ nhu yếu phẩm ấy thì
cách mạng sẽ biết ơn cha lắm.” Biết rõ và thông cảm hoàn cảnh những
người bộ đội, du kích ở rừng thiếu thuốc men hay đau ốm, ông bèn cho
người về Sài Gòn mua thuốc tây để giúp đỡ. Đó cũng là một việc thiện
trên cách đối xử giữa người với người, theo ông Đ. nghĩ. Dĩ nhiên là
viên bí thư huyện uỷ vô cùng cảm kích và hứa sẽ ghi công cho ông. Nhưng
ông Đ. không cần chuyện đó, ông làm được việc thiện là thoả mãn lương
tâm rồi. Để đáp lại, viên bí thư lại tặng ông rất nhiều gỗ quí. Những
lúc tình hình cho phép, viên bí thư đích thân mời ông Đ. tham gia các
cuộc săn thú ban đêm để tiêu khiển nữa...
Nhưng sự giao tình nồng hậu đó đã một lần làm ông Đ. lâm vào cảnh rắc
rối. Số là một buổi tối, nhà thờ tặng một số lớn thuốc tây cho phía giải
phóng xong thì trong đêm lại có một cuộc hành quân bất ngờ của phía
Cộng Hoà. Toán cán bộ giải phóng mang thuốc lên rừng bị bắt trọn vẹn với
cả tang vật. Rủi ro nhất cho ông Đ., lúc ấy ông vừa nhận được hộ chiếu
đi du lịch Hồng Kông. Nếu là một ai khác, tất nhiên kẻ ấy quá dễ dàng
vào tù. Nhưng ông Đ. nhờ ơn trên che chở, chỉ bị chính phủ Việt Nam Cộng
Hoà thu hồi hộ chiếu đi du lịch mà thôi. Thế là phía giải phóng lại an
ủi và đền bù sự thiệt thòi này cho ông Đ. bằng rất nhiều súc gỗ quí.
Mấy tháng sau, ông Đ. lại gặp thêm một phen hú vía nữa. Hôm ấy, viên bí
thư dẫn theo một số cán bộ về thăm nhà thờ có chuyện gì đó. Không biết
do ai điểm hay tình cờ, phía Cộng Hoà lại mở một cuộc hành quân bất ngờ,
bao vây khu vực ấy. Nếu những viên cán bộ giải phóng kia có mệnh hệ
nào, tất ông Đ. cũng gặp rắc rối. Nhưng ông đã nhanh trí, cho những
người cán bộ kia vào núp cả ở phòng riêng của ông. Tất nhiên quân đội
Cộng Hoà không thể xâm phạm tới những nơi đó. Sau khi thoát nạn, viên bí
thư cám ơn ông Đ. rối rít, hứa sẽ trọn đời không quên.
Nghe ông Đ. kể những chuyện này, tôi càng cảm thấy thấm thía tình đời.
Từ trước, tôi vẫn tưởng chỉ có vài nhà lãnh đạo Phật giáo của mình có
“nhiệt tình ủng hộ cách mạng giải phóng” thôi. Nào ngờ giờ lại biết thêm
một vị lãnh đạo một tôn giáo nổi tiếng chống cộng đã từng bỏ miền Bắc
mà chạy năm 1954, cũng “giúp đỡ cách mạng tận tình” như vậy! Thế thì
mình ở tù mọt gông là hợp lý quá đi chứ!
Ông Đ. cho biết tiếp, sau đó một thời gian, bề trên đã can thiệp để ông
được xoá bỏ lỗi cũ, được đi du lịch Hồng Kông như nguyện vọng của ông.
Sau khi ông Đ. đi du lịch về, bề trên lại cử ông đi hành đạo ở một xứ
đạo khác. Từ đó ông Đ. không còn gặp rắc rối gì nữa. Nhưng viên bí thư
huyện uỷ giải phóng vẫn chung thủy giữ tình cố cựu, thỉnh thoảng lại gởi
vài hàng hỏi thăm sức khỏe ông, làm ông rất cảm động.
Nhưng đến khi chiến cuộc miền Nam trở nên sôi động thì hai bên mất hẳn liên lạc.
Vào năm 1975, sau ngày đất nước thống nhất, ông Đ. hành đạo ở xứ đạo
Phước Tỉnh, một xã đánh cá rất giàu có ở Bà Rịa. Khi tiếp xúc với các
cán bộ cách mạng, ông Đ. vẫn đánh tiếng thăm hỏi người bạn cũ. Thế rồi
một hôm, ông nhận được danh thiếp của viên bí thư huyện uỷ năm nào báo
tin sẽ đến thăm. Ôi, xiết bao mừng rỡ vì người bạn cố tri trong chính
quyền cách mạng biết rõ công lao của ông còn đó! Từ nay, ông sẽ ưỡn ngực
mà đi, không e dè như những bạn đồng đạo khác. Viên bí thư này bấy giờ
đã là một uỷ viên trong thành uỷ lâm thời ở thành phố Hồ Chí Minh. Một
cuộc hội ngộ rất cảm động giữa hai người đã xảy ra tại tư thất của ông
Đ. Ông uỷ viên thành uỷ không quên nhắc lại những công lao ông Đ. đã
giúp đỡ cách mạng trong thời gian ông làm việc tại Sông Bé. Ông Đ. cũng
khiêm tốn cho rằng giúp cách mạng là nghĩa vụ của toàn dân thôi. Thông
cảm nỗi khốn khó của những người hi sinh làm cách mạng, ông Đ. cố ép
tặng vị uỷ viên thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh một ít tiền lộ phí. Nể
tình, vị uỷ viên thành uỷ phải nhận cho ông Đ. vui lòng. Trước khi chia
tay, ông uỷ viên thành uỷ cho ông Đ. địa chỉ ở thành phố Hồ Chí Minh và
hẹn hễ cần gì, ông Đ. có thể về gặp ông ta bất cứ lúc nào. Giáo dân địa
phương nhiều người chứng kiến cảnh đó đều nể phục vị lãnh đạo của mình
đã sáng suốt, có tinh thần hoà giải cao, biết đi trước thời cuộc.
Trước 1975, Phước Tỉnh vốn là một xã đánh cá rất giàu có, mức sống của
người dân xã này rất cao. Những đứa trẻ con chịu khó đợi lúc tàu thuyền
đánh cá về ra giúp ngư dân những việc vặt vãnh là có thể lấy được hàng
mớ cá về dùng. Nếu lười hơn, chỉ cần đi lượm cá rơi rớt cũng kiếm ra
tiền. Dân nhậu chỉ cần xuống bãi khi tàu về, không cần bỏ tiền ra cũng
kiếm được món nhậu ngon. Dân chài Phước Tỉnh làm ra cá quá dễ dàng, họ
chỉ coi quí thịt heo, thịt bò và rau lang. Đất cát nơi đây khó trồng
trọt được thứ gì ngoài rau lang. Người ta chỉ cần rau để nuôi heo, không
cần lấy củ. Thỉnh thoảng, cũng có người ăn rau lang thay các loại rau
cỏ khác. Rau lang đắt như vàng, ai có được một khoảnh đất mà siêng trồng
tưới rau lang là có thể sống thoải mái. Về nhà cửa, từ xa nhìn vào, nơi
nào cũng thấy tường xây mái ngói trông rất đẹp mắt. Nhưng đến gần thì
chẳng mấy ai thích vì cả không gian đều sặc sụa mùi cá. Đi vào bên trong
và sân sau những ngôi nhà đẹp đẽ ấy, người ta càng thấy cảnh ngược lại,
những lưới cá, dụng cụ bắt cá, chứa cá treo bừa bộn ngổn ngang không
đẹp mắt tí nào. Đó là hình ảnh về xã Phước Tỉnh mà ông Đ. mô tả sơ
qua...
Sau một thời gian ngắn hân hoan đón chào cách mạng giải phóng, cơn sốt
vượt biên của người dân phát khởi. Xã Phước Tỉnh lại thành địa điểm lý
tưởng cho những cuộc hẹn hò ra đi. Dân xã Phước Tỉnh rất giàu, có nhiều
tàu thuyền tốt, ra biển lại tiện, nên những người ôm mộng giang hồ lũ
lượt kéo về nơi này chờ đợi thời cơ. Nhờ cha xứ có công với cách mạng
nên cán bộ địa phương nể nang, ít chú ý đến hoạt động của giáo dân.
Nhiều người ở xa về, trước khi ra quân, để tránh tai mắt chính quyền dòm
ngó, họ thường tạm trú tại nhà thờ. Nhà thờ đã cưu mang đùm bọc rất
nhiều lớp người ra đi. Vì vậy, khi biết chắc đi được, phần đông người
vượt biên thường tặng lại ông Đ. những tiền của họ mang theo trong mình.
Nhưng đời có kẻ xấu người tốt, dần dần việc cũng tiết lộ. Đùng một cái,
cả hai vị cha xứ xã Phước Tỉnh là Trần (hay Nguyễn, tôi không nhớ rõ)
Văn Hương và Nguyễn Trinh Đ. đều bị công an mời làm việc. Ông Đ. bình
tĩnh bày tỏ những công lao mình giúp đỡ cách mạng trong thời gian làm
việc ở Sông Bé với cán bộ hỏi cung. Ông nêu tên vị đương kim uỷ viên
thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh làm chứng cớ, hi vọng được nể tình mà bỏ
qua. Nhưng cán bộ cách mạng “chí công vô tư” chỉ xét vấn đề hiện tại.
Sau cùng, ông Đ. chẳng được ưu tiên gì hơn ông Hương, cả hai ông đều bị
tạm giữ. Người nhà ông Đ. liền tìm tới địa chỉ người cán bộ cách mạng đã
được ông Đ. cứu sống ngày xưa để nhờ ông này giúp đỡ. Nhưng người làm
cách mạng đâu có thể vì ơn riêng mà can thiệp vào phép công? Vị uỷ viên
thành phố chỉ biết gởi lời chia buồn. Người nhà ông Đ. vất vả đi lại
nhiều lần nhưng cứ bị ông uỷ viên kia tránh mặt. Cuối cùng, ông Đ. bị
đưa vào khám đường Bà Rịa. Ông Đ. vốn là một người yêu thể thao, thời
trẻ, ông từng là một tay đánh bóng chuyền có hạng với những cú đập độc
đáo nổi tiếng một thời. Thế mà cái thân hình to cao ấy, chỉ qua một thời
gian bị giam cầm không được thăm nuôi, đã biến thành một hình nộm lọng
khọng thảm thương như thế này.
Đó là câu chuyện “Bọn vong ân bội nghĩa!” của ông Đ. Có lẽ thời gian ở
một mình trong ngôi cổ miếu, ông tụng niệm câu này nhiều lắm.
Lúc này, khổ nhất là chuyện nước dùng. Chỉ một gô nước mỗi ngày, tôi
phải lo giữ để uống, không dám xài cẩu thả. Ngay cả súc miệng cũng chỉ
dám ngụm một hai búng nhỏ. Buổi sáng, tôi cũng không còn đánh răng vì
không có kem. Cái bàn chải đã quá cùn, tôi chỉ giữ để dùng những khi quá
cần thiết hoặc khi kiếm được một ít muối. Thấm một chút nước vào khăn
để lau mặt lau cổ cũng phải chừng mực. Vì vậy, chỉ mấy ngày sau, tôi đã
thấy nhiều chỗ ngứa ngứa trên người. Nhưng tôi vẫn cố làm ngơ không dám
gãi, quá lắm chỉ đưa tay xoa nhẹ. Tôi chỉ cào gãi đâu trong giấc ngủ
không tự kiềm chế mình được. Tôi thèm khát đến cả vài giọt nước mưa phùn
bắn vào người khi trời mưa qua các lỗ dột, thèm khát một cách lạ lùng. Ở
tù đã nhiều ngày, nhiều nơi, nhưng tôi chưa bao giờ gặp cảnh thèm nước
đến thế. Thèm chán lại tự an ủi: năm bảy ngày nữa, thế nào người ta cũng
cho đi tắm. Nhưng đến khi được cho đi cầu lần thứ hai, nghĩa là đã trên
mười ngày mà vẫn chưa thấy ai cho tắm rửa gì. Tôi hỏi ông Đ.:
-Ở đây, mấy ngày họ cho tắm một lần?
Ông Đ. nhìn tôi cười như chế giễu:
-Có lẽ hai ba năm chi đó cho tắm một lần, tôi ở đây hơn ba tháng rồi mà có tắm rửa lần nào đâu!
-Ông nói thật à?
-Sao lại không thật? Cái bọn vong ơn bội nghĩa ấy muốn thế mà! Không
thăm nuôi, không tắm rửa, không có cầu tiêu, đó là đặc điểm của phòng
này!
Nghe ông Đ. nói thế, tôi lo sợ lắm. Tôi đã từng chết hụt vì bệnh ghẻ một
lần, bây giờ gặp tình trạng này, bệnh ghẻ tái phát thì thật nguy khốn.
Trên người tôi đã có nhiều dấu hiệu nảy sinh của bệnh ghẻ. Nhiều nốt đỏ
đã hiện ra khắp chân tay tôi. Nó ngứa ngứa nhưng tôi vẫn cố nín nhịn,
không dám cào gãi. Tôi phải cố gắng mọi cách để giới hạn sự nhiễm trùng.
Tôi biết phòng này chẳng vệ sinh tí nào, những móng tay tôi làm sao
sạch được! May lúc đó còn là mùa mưa, trong phòng lại chỉ có hai người
nên tôi ít đổ mồ hôi, cũng đỡ. Tôi không hi vọng thoát bệnh ghẻ tái phát
mà chỉ mong cầm chân nó được lúc nào hay lúc đó thôi.
Mấy hôm sau thì đến kỳ khám đường cho thăm nuôi. Trong khi bên ngoài rộn
rịp gọi tên người này người khác, trong ngôi cổ miếu, chúng tôi chỉ
biết nằm chèo queo.
Bất ngờ, vào buổi sáng hôm sau, khi tôi vừa thức dậy thì ông Đ. trao cho tôi hai trái chuối và một cái bánh ú gạo nếp:
-Ông Kha gởi biếu ông đấy. Phần tôi, tôi dùng rồi.
Anh Kha lúc ấy ở phòng A4 cùng với ông linh mục Hương. Có lẽ anh được
thăm nuôi chiều hôm trước. Nếu anh ấy gởi quà cho tôi, cũng phải đợi đến
giờ đưa cơm, nhờ tù nhà bếp chuyển với sự cho phép của cán bộ trại, chứ
làm cách nào mà chuyển sang sớm thế được? Tôi thắc mắc:
-Ông Kha gởi đến lúc nào và bằng cách nào thế ông?
Ông Đ. cười:
-Khoảng lúc mười một giờ đêm.
Tôi trố mắt nhìn ông Đ., ông lại cười hãnh diện:
-Ông tưởng tôi đùa à? Tối nay, cũng khoảng giờ đó, ông ấy sẽ gởi thịt cho nữa đấy!
-Tôi tức cười hỏi lại:
Gởi nhờ cán bộ trực đêm đưa à?
Ông Đ. vui vẻ nói:
-Gởi nhờ ai, ông muốn biết thì đêm nay ráng thức đợi tới giờ đó sẽ rõ.
Thật ra, tôi cũng muốn biết sự việc hư thật thế nào. Nhưng tới buổi tối,
tôi ngồi được một chốc thì thấy mỏi, phải nằm xuống rồi ngủ quên lúc
nào không hay. Tôi đang mơ màng thì ông Đ. đến vỗ vai tôi:
-Dậy ăn thịt gà!
Tôi mở mắt hỏi:
-Cái gì? Thịt gà lấy về rồi à?
Ông đợi một tí xem tôi lấy về!
Tôi đang ngơ ngác thì thấy ông Đ. ra ám hiệu và nói chuyện qua vách. Một
lát sau, ông bước ra leo lên tấm bửng cửa sắt. Tôi cũng bước ra, đứng
dưới chân cửa chăm chú theo dõi. Bấy giờ, tôi mới thấy nể sự lanh lẹ của
một ông già sáu mươi. Đôi chân cao và đôi tay dài của ông lúc này thật
hữu dụng. Ông đã dang hai chân tựa thật vững trên cái đà cửa và đưa cả
hai tay ra khỏi dãy song sắt ngắn bên trên tấm cửa bửng, một tay vỗ vào
vách ba cái. Trong bóng tối tôi thấy một cái gì loáng thoáng bay qua
trước mặt ông và ông giơ tay đón bắt. Thịt gà đó sao? Nếu bắt không
được, nó sẽ rớt xuống thềm hành lang thì lộ chuyện mất. Nhưng không,
điều tôi tưởng không đúng. Đó chỉ là đầu cối của một sợi dây chắp đôi có
thể căng thành một vòng tròn. Một người nào đó đã nắm một đầu bên kia
và ném đầu cối cho ông Đ. Bắt được đầu cối của sợi dây xong, ông Đ. dùng
hai tay thoăn thoắt lần cho cục cối chạy vòng sang bên kia một cách
nhanh nhẹn. Chỉ một chốc sau, tôi thấy một gói đồ buộc trên dây chạy lần
tới tay ông Đ. Ông ngừng tay lại để tháo gói đồ ra rồi buông sợi dây
cho người bên kia rút về. Ông Đ. vói tay đưa gói thịt gà xuống trước cho
tôi cầm rồi leo xuống. Ông cười nói:
-Sáng mai hãy ăn chứ không lẽ bây giờ tối thui, ăn như chuột, coi sao được?
Dù rất thèm thuồng, tôi cũng đồng ý tạm để gói thịt sáng hôm sau sẽ
thanh toán. Tôi không rõ ý nghĩ của ông Đ. như thế nào khi đưa ra đề
nghị đó. Riêng tôi, ý nghĩ tôi không được trong sáng cho lắm. Thế gian
vẫn có câu “Miếng ăn là miếng tồi tàn, Hơn thua một chút lộn gan lên
đầu”. Tôi không muốn để cho ông Đ. gán tôi vào hạng đó. Tôi vẫn còn bực
mình vì mới đây tôi đã bị ông Đ. nghi lầm. Số là anh tù nhà bếp khi chia
đồ ăn, vẫn dùng cái thau của ông Đ. để đựng phần ăn cho cả hai chúng
tôi. Sau đó, ông Đ. lấy đưa cho tôi một nửa. Phần của ông, ông để trong
thau ấy để ăn luôn. Việc đó tôi không có gì thắc mắc. Ngặt một điều là
ông Đ. hay ho quá. Khi ho, ông Đ. lại có thói quen không che miệng hay
quay đi chỗ khác. Nhiều lần ông ho luôn vào thức ăn làm tôi đâm ra rất
khó nuốt. Sau mấy lần như thế, hễ tù nhà bếp vừa đặt thau xuống là tôi
nhặt ngay phần của mình liền, cái nào trên tôi lấy chứ không hề có ý lựa
to nhỏ. Không ngờ mấy hôm sau, ông Đ. nói:
-Khi nào ông cũng lựa cái to trước như thế cũng tội cho tôi chứ!
Khi nghe ông nói thế, tôi nghẹn họng. Từ đó, tôi có định kiến: ở trong
tù, bất cứ cái gì cũng phải chia chác cẩn thận chứ không thể coi thường.
Tôi bực mình nhưng vẫn tự hào là lòng mình thật sự trong sáng. Ông Đ.
cũng cho tôi biết, lâu nay cả ba vị linh mục đều có lệnh cấm thăm nuôi
tuyệt đối. May các ông còn được những người tù nhà bếp, phần nhiều là
con chiên, giúp đỡ chút ít. Mỗi lần nhận được quà, dù chỉ một táng đường
hay vài cái kẹo, những con người da bọc xương ấy vẫn san sẻ cho nhau
qua cách chuyền giây đó. Thật là những hành động tương thân tương ái vừa
cao cả vừa dũng cảm hiếm thấy. Dũng cảm thật đấy, vì đối với cái trại
này, nếu việc làm đó bị lộ, chắc chắn án mạng sẽ xảy ra ngay. Cán bộ
khám đường Bà Rịa đánh chết tù nhân là chuyện quá thường.
Hôm sau, khi chia gói thịt của anh Kha cho, ông Đ. có vẻ cởi mở khác
thường. Ông vừa tươi cười nói chuyện vừa chia cho tôi trội hơn. Tôi áy
náy gắp trả bớt cho ông nhưng ông không nhận:
-Ông cứ ăn đi! Ông trông cũng cần bồi dưỡng lắm đó.
-Nghe ông nói thế, tôi rất cảm động. Tôi chợt nghĩ: hoá ra cái chuyện
tôi mếch lòng ông trong những lần chia chác trước có thể là do tôi hiểu
lầm. Và cả lúc này nữa, tôi đã tưởng hôm nay ông ta vui vì được tặng
quà. Tôi cảm thấy tự thẹn cho mình lắm.
Trong lúc tôi đang lựa vài lời để bày tỏ nỗi áy náy theo sự suy nghĩ của mình thì nghe ông Đ. nói tiếp:
-Ông Kha được thăm nuôi thì chắc ông cũng được thăm nuôi. Gia đình ông ở
xa quá đến đây thăm cũng khó lắm. Hay là tôi bảo người nhà tôi mượn tên
ông để thăm nuôi nhé. Thăm được cái gì anh em mình sẽ cùng hưởng với
nhau.
Tôi chỉ cười cười, không từ chối mà cũng không nói đồng ý. Tôi vốn nhát
gan, ưng cũng ưng nhưng lại sợ. Bây giờ thì tôi hiểu rõ vì sao sáng nay
ông Đ. có vẻ cởi mở với tôi. Có lẽ ông Đ. nghĩ tôi đã bằng lòng nên tiếp
luôn:
-Thế là hai tuần tới nữa, anh em mình đỡ đói nhé!
Thời gian thoăn thoắt, ngày thăm nuôi kế tiếp lại đến. Khoảng chín giờ
sáng thì mấy anh tù trật tự đã rộn rịp mang đồ thăm nuôi đưa đến các
phòng. Bỗng có tiếng bước chân dừng ngay ở phòng chúng tôi rồi có tiếng
mở khóa lách cách. Tôi và ông Đ. hồi hộp nhìn nhau. Quả thật tên tôi
được gọi. Chúng tôi nhìn thấy anh tù nhà bếp đang xách hai xách tay rất
nặng. Đó là anh Cẩn, cựu thiếu úy Cộng hoà, là một người thân tín của
ông Đ. Viên cán bộ mở cửa hỏi:
-Ai thăm biết không?
Tôi nói tới cả chục tên người, thân nhân của tôi lẫn thân nhân của ông
Đ. do ông nhắc, nhưng vẫn trật hết. Tôi đang bối rối thì may thay, ngoài
kia xảy ra vụ gì đó, viên cán bộ bước ra bên ngoài trong giây lát. Anh
Cẩn lợi dụng dịp này khẽ nói: “Mai Hoàng Bích”. Khi viên công an trở
lại, tôi vờ trả lời năm ba tên khác rồi mới nói tới tên Mai Hoàng Bích.
Thế là chúng tôi nhận được quà.
Viên cán bộ đóng cửa xong là chúng tôi quay lại mấy xách quà. Thật sự,
khi mới nhìn thấy hai xách quà, tôi đoán ngay là của ông Đ. Người nhà
tôi không thể bới quà nhiều như thế. Mảnh giấy viết mấy chữ “Chúc ông
mạnh khỏe” càng xác nhận đó không phải là người nhà của tôi. Cái tên Mai
Hoàng Bích hoàn toàn xa lạ cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên. Tôi chỉ ngạc
nhiên khi thấy chính ông Đ. cũng ngớ ngẩn không biết Mai Hoàng Bích là
ai. Tuy thế, tôi vẫn giao cho ông Đ. khui quà. Có nhiều món quà khiến
chúng tôi dễ xác nhận được nó phát xuất từ xã Phước Tỉnh: một bịch lớn
cá thu cắt thành lát đã phơi khô, một xoong đầy cá bống đã được kho sẵn
thơm tho ngon lành. Có nhiều bọc quà khác tôi không rõ thứ gì. Đặc biệt
nhất là trong số quà, có một cái bình thủy mới toanh. Ông Đ. vừa kiểm đồ
vừa suy nghĩ. Lát sau ông nói:
-Tôi biết rồi! Mai là tên đứa cháu gái kêu tôi là bác ruột, Hoàng và
Bích là tên hai đứa con của nó. Chồng nó là thiếu tá đã chết trận. Thảo
nào nó viết câu nhắn ‘Chúc ông mạnh khỏe’, nãy giờ tôi cố nhớ vẫn không
ra đó là đứa cháu nào. Chút nữa thì ông bác nó mất thăm nuôi!
Đói khát lâu ngày, nay thấy quà ngổn ngang, nước miếng tôi cứ rệu ra.
Tôi rất nôn nóng đợi một lệnh của ông Đ. Thế nhưng ông cứ lo xếp đặt món
này qua món nọ, có vẻ tính toán phân vân. Sau cùng ông trải tờ báo và
để lên một số thức ăn: một ô nhựa cơm trắng, một vỉ trứng gà, gắp ra một
chén thịt heo kho, một chén cá bống kho và một mớ rau cải.
-Ông đem chén đũa lại ăn cơm cho vui!
Thật là một lời như cởi tấm lòng! Nhưng tôi cũng đâm lừng khừng, sốt
sắng quá, tôi ngại bị khi dễ. Tôi cầm bát đũa từ tốn đến bên ông ngồi
đợi. Chủ nhân chưa động đũa mình đâu dám làm hỗn! Ông Đ. thong thả lấy
một quả trứng gà đập đầu và hút, xong ông quay lại nhìn tôi, vẻ mặt tươi
rói, cười cười nói:
-Trứng ngọt quá ông ơi! Ngọt thiệt! Ngọt thiệt! Ngọt thiệt!
Tôi nóng ruột chờ đợi. Nhưng ông Đ. không để ý, tiếp tục cầm một cái
trứng khác đập đầu đưa lên hút. Tôi ngượng đến nóng cả người mà không
biết nên làm sao. Thế rồi tôi đưa đại chén vào đơm cơm. Lúc ấy ông Đ.
mới nói:
-Ừ, ông cứ đơm cơm tự nhiên! Trứng ngọt quá! Trứng ngọt quá! Tôi phải thử thêm mấy quả đã.”
Tôi đơm xong cơm thì ông Đ. lấy đũa gắp bỏ vào chén tôi mấy miếng thịt
và hai khúc cá bống lớn. Hình như chưa đã, ông lại tiếp tục đập trứng.
Ông hút một mách gần cả chục trứng rồi mới ăn cơm. Phải nói đây là bữa
cơm tuyệt vời nhất từ khi tôi vào khám đường Bà Rịa. Chén cơm trắng thơm
dẻo làm sao! Từng thớ thịt cá bống thơm mềm, từng thớ thịt heo béo ngọt
làm sao! Tôi không dám ăn nhanh, cứ nhẩn nha để tận hưởng từng giây
phút khoái cảm ấy. Ông Đ. ăn có vẻ mạnh bạo lắm - dĩ nhiên, vì ông lúc
ấy là chủ nhà. Đang nhai nhai nói nói, bỗng nhiên ông Đ. hắt hơi một
cái. Cơm từ miệng ông văng tung toé bốn phía, văng cả vào chén thịt,
chén cá, ô cơm và cả chén cơm tôi đang bưng nữa. Ông vội vàng xin lỗi
tôi. Khổ ơi là khổ! Thế là tan biến hết những cảm khoái của một bữa cơm
ngon! Tôi đâm ra khó xử. Trong hoàn cảnh đói khổ này, không lý mình đứng
dậy? Tôi phải cố gắng làm như không quan tâm gì chuyện đó. Nhưng nuốt
trôi được bữa cơm thịnh soạn đó, đối với tôi lúc bấy giờ chỉ còn là một
cực hình. Mãi tới khi ông Đ. bẻ đưa cho tôi một trái chuối, tôi mới tìm
lại được chút ít khoái cảm ban đầu.
Ngày ấy, cả ba vị linh mục đều nhờ mượn tên người cùng phòng, được thăm
nuôi cả, nên các ông chỉ nói chuyện với nhau chứ chưa gởi quà cho nhau.
Cũng trọn ngày, tôi được lãnh nguyên hai phần bột và canh của nhà bếp.
Dù đã được ăn cơm khách, tôi vẫn thanh toán hết cả hai phần cơm nhà bếp,
bữa nào xong bữa nấy như thường. Ông Đ. không lãnh phần ăn nhà bếp thì
ăn lai rai quà thăm nuôi. Khoảng nửa chiều, ông Đ. đem con gà luộc ra
xé. Ông để những miếng thịt ròng vào một cái tô, còn tất cả phần có dính
xương ông trao hết cho tôi và nói:
-Ông thanh niên răng tốt chắc ăn thứ này được? Trong hoàn cảnh này, không nên bỏ phí thứ gì hết!
Ông nói đúng quá đi chứ! Tôi cám ơn và đưa cái chén ra thầu tuốt. Xong,
tôi đem về chỗ mình ngồi gậm. Tôi lần lượt nhai bể từng cái xương để hút
cho kỳ hết từng chút tuỷ bên trong. Tuy thịt không còn nhiều nhưng phải
nói là ngon đáo để. Ăn thịt gà xong, ông Đ. lại bày cơm ra và mời tôi.
Ông Đ. cũng gắp bỏ thịt và cá vào chén tôi như buổi sáng. Nhưng lần này,
“nhận quà” xong, tôi vội lấy cớ cần ngồi dựa vách cho thoải mái, bưng
ngay về chỗ mình. Tôi vẫn không quên cú sặc cơm văng tung toé lúc sáng
của ông. Hình như tôi làm vậy, ông Đ. cũng vui lòng như tôi.
Đố ai biết chuyện gì đã xảy ra sau đó? Cơm xong là ông Đ. bị mệt, không
thể ngồi đọc kinh hay nói chuyện xuyên tường được. Ông buông mùng nằm
sớm, không biết có ngủ được không. Riêng tôi, đêm đó lại có vẻ khỏe
người hơn và không ngủ sớm như thường lệ. Khoảng chừng chín giờ tối, tôi
bỗng nghe tiếng gõ nhẹ ở cửa. Ai đến làm chi lúc này nhỉ? Tôi giả vờ
ngủ say không biết. Ông Đ. cũng im lặng. Tiếng gõ cửa lại tiếp tục, vẫn
nhẹ nhưng có vẻ gấp gáp hơn. Ông Đ. vẫn im lặng, chắc ông ngủ thật rồi.
Tôi đứng dậy tiến lại gần cửa hỏi:
-Ai đó?
Đáp lại là cái giọng quen thuộc của Sơn, anh cán bộ võ trang dữ tợn nhất
trong khám đường, nhưng lần này anh ta lại nói giọng nhỏ nhẹ đầy thân
tình:
-Anh mới được thăm nuôi chắc vui vẻ chứ?
Khó nói thật, thăm nuôi của người khác chứ đâu phải của tôi!
-Cám ơn cán bộ, vui vẻ.
-Khi sáng, thấy người nhà gởi cho anh cả chùm lạp xưởng, anh ăn hết chưa?
Trời đất! Chính tôi cũng không biết là trong đồ thăm nuôi của ông Đ. có chùm lạp xưởng nữa. Tôi lúng túng:
-Thưa...
Tôi định nói tôi chưa coi kỹ đồ thăm nhưng nghĩ lại thật là vô lý. Thăm
từ sáng mà giờ này chưa coi kỹ là sao? Lạng quạng với mấy gã này chẳng
khác chi giỡn mặt với tử thần! Tôi chưa biết nói sao thì viên cán bộ
tiếp:
-Tôi nghĩ là anh chưa ăn hết đâu! Anh cho tôi xin hai cái nhé!
-Dạ, để tôi hỏi ông già, ông đang ngủ.
-Đánh thức ông ta dậy làm gì! Của anh, anh muốn cho ai mắc mớ chi tới ổng?
-Dạ, tôi không có đồ đựng, tôi gởi ổng.
-Vậy thì lẹ lẹ lên! Tôi thấy có một hộp kẹo sô- cô-la nữa, cho tôi vài cái luôn!
Tôi bước tới lay ông Đ. dậy. Gặp lúc ông ta đang xì rắm thúi đến nhức đầu khiến tôi phải nín thở, không dám mở miệng.
-Cái gì thế? Tôi đang đau bụng quá trời đây nè!
Tôi chờ một chốc cho tản mùi hôi mới dám nói:
-Cán bộ Sơn xin hai cái lạp xưởng và một ít kẹo sô-cô-la. Lấy gấp kẻo ông ấy đang đợi đấy.
Ông Đ. vùng vằng dường như không muốn chịu.
-Xong chưa? Gì mà chậm như rùa vậy?
Nghe tiếng giục của cán bộ Sơn, ông Đ. mới lật đật mở túi xách lấy đồ
ra. Tôi đem hai cái lạp xưởng và nắm kẹo đưa qua lỗ thủng ở cửa cho cán
bộ Sơn. Anh ta có vẻ không hài lòng:
-Bấy nhiêu thôi à? Cám ơn anh.
Tôi vừa tức cười vừa bực mình, về chỗ chun vô mùng nằm liền. Trong khi
ấy, ông Đ. lục đục làm gì đó trong bóng tối tôi không nhận rõ. Một chốc
sau, tôi biết là ông đang đi cầu. Mùi xú uế toả inh cả phòng. Tôi phải
lấy cái áo lót mà bưng mũi mình lại.
Sau khi ngủ được một giấc, tôi lại giật mình vì tiếng lục đục của ông Đ.
“Ngán thay cái mũi vô duyên, Béo bùi một trận trăm phiền kéo theo!” Đêm
ấy ông Đ. đi cầu tới sáu bảy lượt. Việc ấy đã làm tôi chịu khổ sở và
mất ngủ lây. Hôm sau thấy người ông xụi lơ, gần như bước không muốn nổi.
Cũng may, cơn bệnh của ông không kéo dài thêm bao lâu. Những ngày kế
tiếp, ông Đ. lại bồi dưỡng tới tấp. Có khi ông cầm cả con lạp xưởng để
ăn mà không cần nướng. Cá thịt, sữa bánh, đậu phộng, đậu nành rang đã
làm ông bận rộn suốt ngày. Nhờ cái bình thuỷ, hằng ngày ông được đám đệ
tử ở nhà bếp ưu tiên thêm cho một phích nước nóng để pha trà, pha sữa.
Lúc này thì tôi biết ông ta chỉ quen thói độc ẩm.
Với tôi, hằng bữa ông Đ. lại gắp cho một ít đồ ăn, khi miếng thịt heo,
khi khúc cá bống, lâu lâu một khúc cá thu. Những khúc cá thu khô ấy đã
được hấp chín rồi, tuy khô nhưng ngon ngọt lạ lùng. Có lẽ nhờ sự bồi
dưỡng ấy, bệnh ghẻ ở người tôi cũng cầm chừng, không thấy phát triển
nữa.
Trước kỳ thăm nuôi kế tiếp vài ngày, một đêm, trong khi ông Đ. đang nói
chuyện xuyên tường, bỗng nghe tiếng gõ cửa. Ông hoảng hồn vội bước xuống
giường. Ai ngờ lần này cũng chính là hung thần Sơn viếng đêm. Gã nói:
-Kêu anh kia dậy tôi hỏi cái này, còn anh đi ngủ đi!
Thế là ông Đ. qua cơn hú vía. Ông lay tôi dậy bảo đến gặp cán bộ Sơn. Tôi vừa mở miệng chào thì Sơn nói ngay:
-Anh còn lạp xưởng không? Còn thì cho tôi mượn vài con!
Tôi lại lúng túng hết sức, làm sao tôi biết được còn hay hết, tôi có giữ
nó đâu? Từ khi thăm nuôi tới giờ, ông chủ hờ này thật tình chưa được
đụng đến một miếng lạp xưởng nào.
-Dạ, cán bộ cho tôi coi lại đã!
Tôi quay lại hỏi nhỏ ông Đ. Ông cũng nói nhỏ: “Hết rồi!” Tôi trở lại nói:
-Thưa cán bộ, hết cả rồi!
Sơn giận dỗi nạt:
-Thế mà cũng lâu lắc! Đồ ăn trong túi mà cũng không biết còn hết à?
Trong tù ăn uống phải dè xẻn để dành chứ, cứ có bao nhiêu ăn hết bấy
nhiêu, khi bị cúp thăm lúc đó mới biết thân!
Rồi anh ta hậm hực bỏ đi. Tôi quay sang nói với ông Đ.:
-Chắc nó giận lắm đấy!
Ông Đ. nói:
-Kệ nó! Đồ cái thứ vong ơn bội nghĩa! Thật sự tôi còn một cây chứ đâu
phải hết. Nhưng nếu mình cho thì nó lại bắt quen. Đêm hôm, chẳng lẽ nó
lại dám soát phòng sao mà sợ?
Tôi chỉ sợ nó nghĩ tôi ích kỷ, nó thù thôi. Nó đâu có biết được tôi chỉ là chủ hờ! Vì thế tôi đề nghị với ông Đ.:
-Hay lần thăm sắp đến, ông để tôi giữ cho mấy cái, phòng khi nó đến xin nhé!
Ông Đ. cười:
-Cứ tới đó rồi hay!
Tôi thật sự thấy bất mãn với ông Đ. khi ông ấy trả lời như vậy. Cứ làm chủ hờ kiểu này dễ bị chết oan quá!
Bữa ăn trưa hôm sau, khi ông Đ. gắp một miếng thịt heo kho đưa vào miệng
thì cắn nhằm một vật lạ. Ông liền nhả ra xem vật gì. Đó là một bọc
nylon xếp nhỏ được ràng rịt kỹ bằng mấy sợi cao- su. Ông mở xem thì thấy
bên trong gói một tờ giấy bạc hai mươi đồng và một mảnh giấy ghi hàng
chữ: “Tình hình bên ngoài không được yên, cầu ơn trên cho cha được sức
khoẻ”. Ông Đ. đưa cho tôi xem và cười khoái trá:
-Làm thế này thì bọn vong ân bội nghĩa làm sao biết được? Cũng may mình tò mò, cứ tưởng vật gì lộn vào mà vứt đi thì hoài của.
Kỳ thăm nuôi lại đến. Lần này tôi ngồi sát cửa dán mắt vào một lỗ hổng
quan sát đám tù nhà bếp đưa quà đến các phòng. Lòng tôi vui vui mỗi lần
nghe tên một người quen được thăm. Khi tù nhà bếp phát phần ăn trưa,
chúng tôi vẫn chưa được thăm nên cùng nhau ăn liền cho rồi việc. Đến
khoảng hai giờ chiều thì tôi được gọi tên. Thấy trên tay anh tù nhà bếp
chỉ có vỏn vẹn một xách đệm nhỏ, tôi hơi ngạc nhiên. Hay cái giỏ ấy là
của người nào khác? Nhưng quả thật viên cán bộ đến mở cửa phòng tôi.
-Ai thăm nuôi biết không?
-Mai Hoàng Bích!
-Không phải!
Tôi nói đến tên người chị của tôi thì đúng ngay chóc. Xách quà thăm chỉ
có bốn ổ bánh mì, một gói cá khô, năm hột vịt lộn, một gói xôi đậu và
một nải chuối. Quà tuy ít nhưng tôi mừng lắm, như vậy là người thân của
tôi đã biết tôi bị giam ở đây rồi. Cửa vừa đóng thì tôi đem bánh mì và
hột vịt lộn ra mời ông Đ. cùng ăn. Nhưng chúng tôi mới ăn nửa chừng thì
lại nghe bên ngoài có tiếng gọi tên tôi. Chúng tôi vội dẹp bữa ăn dở
dang vừa kịp lúc cửa mở. Đồ thăm gồm hai xách bự sư. Chắc đúng là của
Mai Hoàng Bích rồi! Tôi cực kỳ hồi hộp lo lắng. Tôi cứ sợ viên cán bộ
nhớ ra được tôi mới nhận quà cách đây chưa tới một tiếng thì thật phiền.
Mãi tới khi quà trao cửa đóng xong xuôi, tôi mới thật sự an lòng. Cán
bộ vừa đi khỏi, ông Đ. liền hớn hở khui quà. Lần này quà có phần nhiều
hơn lần trước.
Trong lúc mọi chuyện tưởng đang tốt đẹp thì chúng tôi bỗng nhận được một
cái tin đáng sợ. Đó là vụ anh Kha được thăm nuôi hai lần trong một ngày
bị phát giác. Số là anh Kha được người nhà của linh mục Hương đến thăm
vào buổi sáng. Vì quà thăm khá lớn nên cán bộ khám đường lưu ý nhớ kỹ.
Bất ngờ buổi chiều thì vợ anh Kha lại xin vào thăm nữa. Cán bộ Năm Bình,
phó giám thị khám đường nghi ngờ hỏi lý do. Anh Kha bất đắc dĩ phải nói
đại là vợ anh đã đến thăm buổi sáng nhưng vì thấy anh còn thiếu vài thứ
cần thiết nên lại ra chợ mua thăm thêm một lần. Năm Bình không tin,
giao việc này cho cán bộ Sơn tra hỏi.
Lâu nay trong khám đường này, bất cứ người tù nào bị Sơn chiếu cố thì
không chết cũng bị thương. Linh mục Hương lẫn anh Kha đều khiếp hãi chờ
đại hoạ giáng xuống. Thế nhưng có lẽ nhờ ơn trên che chở, gã hung thần
đã cho thông qua việc đó. Thật hú vía!
Sau này tôi mới biết nguyên nhân giúp hai ông thoát nạn. Ông Hương
thường ngày ăn uống rất dè xẻn. Vào đêm Sơn đến xin tôi lạp xưởng, Sơn
cũng đến hỏi xin anh Kha luôn. Gã nói cần để nhậu với mấy người bạn ở xa
mới đến thăm. Rất may ông Hương còn hai con để biếu. Chính những con
lạp xưởng béo ngầy ngậy ấy đã cứu hai ông.
Sau khi kiểm quà xong, ông Đ. vét đồ cũ của lần thăm trước ra một chén
đầy, gồm đủ thịt heo, cá bống và một ít thịt chà bông. Ông nói với tôi:
-Ông coi có dùng được thì cứ dùng!
Sao lại không dùng được chứ? Tất cả đồ ăn cứ hai ngày ông Đ. lại gởi đám
tù nhà bếp hâm một lần nên tôi yên chí lắm. Cơ thể mình đang cần thịt
cá quá, đâu dám phụ bạc chúng. Ở trong tù, phí bỏ bất cứ cái gì, tôi đều
cảm thấy như mắc phải tội lỗi. Nhân ngày thăm nuôi tù, nhà bếp thường
phát phần ăn chiều sớm hơn thường lệ. Tôi liền nhận cả hai phần rồi đem
ăn với chén đồ ông Đ. vừa cho ấy. Dù thấy nó hơi thiu, nhưng tôi vẫn
hăng hái làm hết.
Chuyện ông Đ. gắp thức ăn cho tôi hằng bữa đã thành lệ rồi. Hôm nay dù
mới thăm, ông cũng áp dụng như thế. Sau bữa trưa một lát, tôi đã ăn ba
hột vịt lộn với hai ổ bánh mì, tiếp đó tôi lại thộn luôn phần ăn của nhà
bếp cộng một chén đồ ăn cũ của ông Đ., nên trong bụng hơi khó chịu.
Thành thử, phần cơm cùng thịt cá ông Đ. Đãi, tôi đem về cất lại.
Tối đó, tôi ngồi suy nghĩ mà rùng mình. May bà chị tôi đến thăm sớm và
quà không có gì đáng kể nên cán bộ khám đường không để ý. Nếu không, tôi
chẳng biết kết quả ra thế nào. Tôi thấy rõ việc thăm nuôi như thế này,
nếu kéo dài thì không thể nào ổn được. Chơi dao hoài tất phải có ngày
đứt tay. Thế là tôi có ý định bảo ông Đ. chấm dứt vụ mượn tên tôi để
thăm nuôi. Nghĩ như vậy, nhưng tôi thấy khó mở miệng nói ra quá. Thế
rồi, tôi bắt đầu loanh quanh:
-Ông Đ. này, có thể tối nay thằng Sơn nó đến xin đồ đó. Ông thấy thứ gì
nó có thể xin, đưa tôi cất giùm cho một ít. Lỡ khi nó hỏi, tôi phải đưa
cho nó chứ, nếu không, tôi ngại lắm.
Ông Đ. nói:
-Thì khi nó đòi, ông bảo tôi đưa cho cũng được vậy. Mình ở cùng phòng mà, lo gì!
-Tôi sợ khi một trong hai người mình bị chuyển phòng bất ngờ thì làm sao?
Có lẽ ông Đ. nghĩ là tôi muốn làm khó ông để đòi chia của. Ông nói:
-Tôi chỉ ngại phiền cho ông phải gói ghém cất giữ lôi thôi, chứ nếu
chuyển phòng thì tôi chia cho ông một ít đồ để ông dùng chứ! Ông yên
chí, hễ có vụ chuyển phòng là tôi chia cho ông liền.
Khi đó, tôi thấy trong người mình khó chịu nên cũng không muốn nói gì
nữa. Cái bụng anh ách bắt đầu hành hạ tôi. Tôi lo sợ lắm vì trong phòng
không có cầu tiêu. Tôi nghĩ có lẽ tại mình tiếc cái mớ thịt thiu mới nên
chuyện. Tại sao cái ngày cả hai người đều có thăm nuôi, mình lại tiếc
chi cái của ấy nhỉ? Bụng tôi bắt đầu quặn lên dữ dội nhưng tôi vẫn cố
nghiến răng mà nín. Rồi tôi biết không thể nào nín được nữa, tôi năn nỉ
ông Đ.:
-Ông làm ơn cho tôi mượn cái hộp bánh của ông một chút đi! Tôi đau bụng quá chịu không nổi rồi!
Ông Đ. giọng hơi cười:
-Tôi cũng từng bị đau như thế rồi, tôi biết lắm. Nhưng chuyện này, xin lỗi ông Trọng, tôi vẫn quen của ai dùng của nấy thôi.
Tôi phải cố vừa năn nỉ vừa doạ:
-Ông cho tôi mượn rồi ngày mai tôi xin cán bộ bưng đi đổ và sẽ rửa sạch
sẽ đàng hoàng cho ông! Nếu ông không cho mượn, lỡ tôi bung ra đây thì
ông cũng khổ đó!
Nhưng ông Đ. cương quyết:
-Tôi đã nói tôi không quen dùng chung cái gì với ai cả! Bây giờ cho ông mượn, lỡ tôi cũng bị đau rồi tôi đi vào đâu?
Tôi giận điên lên nhưng cố ghìm để khỏi phát ra những ngôn ngữ không
đẹp. Đồ cá nhân của tôi chỉ có cái chén nhôm, cái tô và cái lon gô chứ
còn gì nữa đâu? Không lẽ đem cái lon gô mà dùng vào việc ấy thì lấy gì
đựng nước uống? Trong lúc tôi toan làm bậy ra tới đâu hay đó thì bất ngờ
cán bộ Sơn đến “gõ cửa”. Ông Đ. vội bước tới trình bày sự việc với Sơn.
Thật là ông trời đi khỏi, dù đang đêm, Sơn vẫn sốt sắng mở cửa cho tôi
đi cầu. Nhưng phải nói là quá khổ, tôi vất vả từng bước, vừa đi vừa kẹp
vừa nghiến răng mà nín. May sao, thuyền cũng vượt được bão táp để ghé
bến bình an. Sau khi trút được gánh nặng ngàn cân ấy, tôi thoải mái ra
về. Ông Đ. đã lấy sẵn quà đưa tôi trao cho Sơn: hai con lạp xưởng, một
dúm kẹo sô-cô-la, một trái cam và hai trái quít.
Sau đó, tôi còn phải chịu đựng vài cơn đau nữa nhưng nhẹ hơn. Nhờ có mấy
tờ báo gói và mấy cái bao nylon nên mọi chuyện được thu xếp gọn ghẽ.
Gần sáng, tôi mới ngủ được một giấc thoải mái. Sau ngày thăm nuôi, cán
bộ khám đường vẫn đi điểm danh trễ hơn thường lệ. Mãi tới khi tù nhà bếp
đi phát nước, tôi mới thức dậy. Bỗng một tiếng nói rổn rảng oai vệ lạ
hoắc phát ra ngay bên cạnh làm tôi giật nảy mình:
-Ông Trọng đã hết đau bụng chưa?
Ai ngờ đâu, đó lại là tiếng nói của ông Đ.! Từ khi tôi vào ở chung với
ông trong ngôi cổ miếu này, tôi chỉ nghe ông nói với giọng khào khào như
nói thầm, tới giờ mới nghe được cái giọng rổn rảng oai vệ ấy. Nhờ được
bồi dưỡng đầy đủ, thanh quản của ông nay đã phục hồi. Có lẽ sung sướng
vì sự thay đổi ấy, ông cười nói liên miên. Nhưng tôi chỉ gật gật ậm ợ
cho qua chuyện. Tôi không sao quên được cách cư xử thiếu độ lượng của
ông khi tôi đang lâm cơn đau bụng ngặt nghèo. Tới khi ăn trưa, ông lại
nồng nàn mời tôi nhưng vì phần cơm chiều hôm qua của tôi vẫn còn nên tôi
từ chối. Tôi thấy ông có vẻ bồn chồn lo lắng vì chuyện gì đó.
Khi cơm nước xong, tôi nói với ông Đ.:
-Từ nay ông đừng lấy tên tôi để thăm nuôi nữa nghe! Vụ ông Kha vừa qua
làm tôi sợ lắm. Phát giác được chuyện gian dối, tụi nó đập chết mình như
chơi, xin ông thông cảm cho!
Lời tôi nói hoàn toàn đúng. Ông Đ. dĩ nhiên cũng biết rõ như thế. Chẳng
qua là sự đói khát đã hành hạ thân xác ông quá nên ông phải tạm thời làm
liều. Nghe tôi nói xong, ông Đ. lộ vẻ bối rối:
-Ông sợ à? Vậy tôi đề nghị thế này: Ông bảo người chị ông đừng thăm nữa,
cứ để người nhà tôi thăm tên ông. Quà thăm anh em mình sẽ chia đôi,
được không?
Bây giờ ông mới nghĩ đến việc chia đôi quà thăm nuôi? Thật sự tôi không
hề muốn đòi hỏi như thế. Tôi không phải là kẻ ham ăn uống, tôi chỉ cần
một phần nhỏ để giữ thân thể khỏi bệ rạc là đủ. Việc gian dối vừa qua,
tôi là người đồng tội với ông. Thế sao ông vẫn tự coi như kẻ ban ơn và
tôi là kẻ chịu ơn? Trong hoàn cảnh khốn cùng, tôi đã gắng không nghĩ đến
điều đó. Nhưng qua trận đau bụng của tôi vừa rồi, tôi thấy rõ ông chẳng
thương tôi chút nào. Vậy tại sao tôi phải lăn mình vào chia hoạn nạn
với ông?
-Xin ông thông cảm cho. Trước đây hoàn cảnh còn thuận lợi, người nhà tôi
chưa biết tôi ở đây, tôi mới để ông mượn tên. Bây giờ tôi không có cách
nào liên lạc để bảo chị tôi ngừng thăm được. Nếu lỡ hai bên thăm trùng
nhau bị bắt gặp là chúng ta có thể bị toi mạng cả. Tôi không muốn chết
vì miếng ăn.
Ông Đ. càng xuống nước:
-Thôi thì đành vậy. Nhưng xin ông cho tôi thăm một kỳ chót nữa nhé!
Phải nói là tôi càng nghĩ tới chuyện thăm nuôi trùng nhau càng sợ. Tôi
đâu có tài ứng biến tranh cãi như người ta được! Dính vào là chết! Tôi
cố gắng tìm một câu hài nói với ông Đ.:
-Xin ông tha cho. Bây giờ người nhà tôi đã biết tôi ở đây, không chừng
bà xã tôi lại lặn lội tới thăm tôi nữa. Nếu rủi bà xã tôi lại gặp một bà
Mai Hoàng Bích trẻ đẹp cũng vào thăm nuôi chồng mình, làm sao giải
thích với nhau? Rồi mai kia kẻ nam người bắc, có lẽ suốt đời tôi giải
oan cũng không nổi nữa!
Tới lúc đó ông Đ. mới chịu thôi. Thế là ông Đ. lại bị cúp thăm nuôi. Tôi
biết ông lo buồn lắm. Bây giờ giọng nói ông đã bình thường, bệnh ho
cũng giảm, nên tôi nói chuyện với ông nhiều hơn.
Kỳ thăm nuôi kế tiếp, chỉ có chị tôi vào thăm. Tôi cũng nhắn xin chị tôi
một cái bô để dùng. Chị tôi thăm đồ ít nhưng đều, không vắng kỳ thăm
nào cả. Ông Đ. đã trở thành mồ côi nên tôi luôn vui vẻ san sẻ đồ thăm
cho ông.
Thấm thoát, tôi ở trong ngôi cổ miếu này đã được tám tháng. Suốt thời
gian ấy tôi không hề được tắm rửa nên toàn thân mốc meo sủi vảy lên cả,
trông rất dị hợm. Ngồi trong nhà thì không sao, nhưng bước ra ngoài thì
ai cũng nhìn tôi bằng đôi mắt khác lạ. Cũng may là tôi được thăm nuôi
đều nên bệnh ghẻ không phát nổi. Ông Đ. càng thâm niên không tắm rửa hơn
tôi, mười một tháng. Ông cũng thành một con người mốc meo. Ngôi cổ miếu
mốc meo đã che chở hai con người cũng mốc meo như nó!
Thế rồi, một hôm có một đoàn thanh tra trại giam đến khám đường Bà Rịa.
Họ đến từng phòng, cho tù ra sân xếp hàng để họ hỏi chuyện, đồng thời họ
cũng vào bên trong xem xét. Khi đến ngôi cổ miếu của chúng tôi, họ
chưng hửng nhìn thấy hai nhân vật cổ quái trước mắt. Người trưởng đoàn
hỏi:
-Sao các anh lười tắm vậy? Để người nhớp nhúa mốc meo thế mà chịu được à? Tóc tai bù xù dơ dáy không biết ngứa à?
Ông ta hỏi tôi như thế. Ngặt một điều, lúc ấy mấy gã cán bộ của khám
đường đều có mặt cả nên tôi ngập ngừng không dám nói. Ông trưởng đoàn
hỏi tiếp:
-Anh bị bệnh gì mà lười tắm rửa như vậy? Nghiện hút hả?
Tôi thấy cán bộ Sơn nhìn tôi, tôi ngán lắm, nhưng tôi vẫn phải trả lời:
-Dạ cán bộ đâu có cho tắm!
-Không cho tắm à? Bao lâu rồi?
-Tám tháng!
Tôi liếc thấy mấy gương mặt những người trong đoàn thanh tra đều lộ vẻ kinh ngạc. Ông trưởng đoàn lại quay sang ông Đ. hỏi:
-Còn anh này không được tắm bao lâu rồi?
Ông Đ. chậm rãi nói:
-Dạ, tôi mới mười một tháng không được tắm!
Câu nói của ông Đ. làm nhiều người không giữ vẻ nghiêm nghị được nữa. Kẻ
lắc đầu người nhún vai. Ông trưởng đoàn nói với đám cán bộ khám đường:
-Cho hai người này đi tắm ngay!
Cán bộ Sơn truyền lệnh lại cho chúng tôi. Thế là chúng tôi đem đồ ra vừa
tắm giặt vừa hỉ hả nói chuyện với nhau. Tắm giặt xong, chúng tôi phơi
nắng thoải mái cả buổi. Sau đó, anh tù hớt tóc tay xách cái ghế đến bảo
chúng tôi:
-Lệnh cán bộ, anh nào tắm giặt xong, ngồi lại hớt tóc!
Anh ta hớt chớp nhoáng, có lẽ chỉ mười phút, anh đã làm xong cả hai cái
đầu. Xong xuôi, anh bảo chúng tôi đem đồ vào phòng và chính anh khoá cửa
lại.
Hôm sau, chúng tôi lại được cho ra tắm và đi cầu. Đặc biệt lần này, cả
phòng anh Kha lẫn phòng anh Khôi cũng được cho ra tắm luôn một lượt. Cán
bộ lại bỏ đi mất nên chúng tôi có cơ hội giới thiệu nhau và nói chuyện
với nhau vui vẻ. Lúc này tôi mới thấy rõ linh mục Hương, ông già hơn ông
Đ. chừng bốn năm tuổi. Linh mục Nguyễn Minh thì còn quá trẻ, chỉ xấp xỉ
với tôi.
Đó là lần chúng tôi được tắm chung duy nhất. Những ngày kế tiếp, chúng
tôi vẫn được ra tắm và đi cầu hằng ngày thành lệ. Nhưng cán bộ chia cách
thời gian tắm cho từng phòng nên tôi không được gặp những người bạn tù
này nữa.
Cũng thời gian này, anh Kha, anh Khôi và tôi đều lần lượt được kêu làm
việc bổ túc hồ sơ nhiều lần. Chúng tôi cứ nghĩ là mình sắp được thả về.
Rồi ngày thăm nuôi lại đến. Lần này chị tôi bới đồ khá nhiều, trong đó
có một gói thịt lạ lạ cỡ hai ký. Tôi vừa mở ra xem thì ông Đ. nói:
-Ồ, thịt chó!
Suốt cả đời, tôi không ngó đến thịt chó, không hiểu sao chị tôi lại bới
cho tôi? Thế là tôi đưa cả cho ông Đ. Sau này khi về, tôi kể lại chuyện
đó với chị tôi thì chị tôi nói: “Chó đâu mà chó! Tụi nó đánh bẫy bắt
được hai con cheo, không dám cho đứa nào ăn một miếng, bới hết cho cậu
ăn một bữa cho đã thèm đó chứ!”
Một điều không ngờ là ngay sau ngày thăm nuôi ấy, tôi được lệnh chuyển
trại. Ông Đ. thì vẫn ở lại chỗ cũ. Thế là tôi chia cho ông Đ. một ít đồ
mới thăm và giã từ ông, giã từ ngôi cổ miếu. Trong giây phút chia tay
đó, ông Đ. buồn bã nhưng vẫn cố cất giọng hài:
-Thôi rồi, ngôi cổ miếu này từ nay chỉ còn một mình tôi tu luyện! Sau
này, nếu chúng ta đều đã được xuống núi, khi cần, ông cứ đến xã Phước
Tỉnh tìm tôi. Chúc ông lên đường may mắn!
Ngô Viết Trọng
No comments:
Post a Comment