Để biết ơn Thương-Binh V.N.C.H.
ĐIỆP MỸ LINH
… Diễn giả vừa dứt câu,
tràng pháo tay vang lên. Diễn giả ngưng nói, hơi mỉm cười, nhưng ánh mắt
vẫn còn vương buồn, nhìn quanh hội trường, tiếp: “… Kể từ tháng Tư
năm 1975 đến nay, ngoài những tai tiếng như băng đảng, gian lận bảo
hiểm, khai man để hưởng trợ cấp xã hội, v. v… tập thể Việt-Nam tỵ nạn
cũng đã tạo được nhiều thành quả lớn lao như nuôi dạy và tạo dựng không
biết bao nhiêu nhân tài; như hỗ trợ chương trình cứu người vượt biển;
như giúp đỡ vật chất và an ủi tinh thần những người tỵ nạn tại các đảo;
như tiếp nhận và trợ giúp từng loạt H.O. và O.D.P., v.v…
Trong tất cả mọi hoạt động nhân đạo
để hàn gắn những đau thương của cuộc chiến, dường như tập thể Việt-Nam
tỵ nạn chưa phát động được phương thức cứu trợ những người đã đích thực
góp máu và một phần của cơ thể của họ để giữ vững miền Nam Việt-Nam
trong hơn hai thập niên.
Kính thưa quý vị, những người mà tôi
đề cập chính là Thương-Phế-Binh V.N.C.H. Quý vị đã xúc động mãnh liệt
khi thấy hình ảnh những đoàn cựu sĩ quan Q.L./V.N.C.H. bị Việt-Cộng bắt
lao động khổ sai trong các trại cải tạo. Quý vị cũng đã phẫn nộ khi thấy
những người tỵ nạn còn kẹt tại đảo bị bắt đưa lên máy bay để ép buộc
trở về Việt-Nam. Vậy, quý vị nghĩ gì khi những người bị chiến tranh đoạt
mất một phần cơ thể, nay đã trở thành những kẻ ăn xin ngay trên chính
phần đất mà máu và một phần thịt xương của họ đã bồi đắp?
Đến đây, tôi nghĩ, có vị sẽ nghĩ rằng
chiến tranh đã chấm dứt từ lâu rồi, khơi dậy làm chi nửa! Tôi xin thưa,
cứu đói Thương-Phế-Binh V.N.C.H. trong lúc này không phải là khơi dậy
những đau thương của cuộc chiến mà chính là quý vị đang xoa dịu nỗi đau,
đang hàn gắn phần nào những tan tác, đang chia xẻ phần nào những tệ hại
còn sót lại sau cuộc chiến.
Nếu mỗi lần, sau khi chào Quốc Kỳ,
hát Quốc Ca, quý vị dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ những người đã
bỏ mình vì nước, đã liều chết vì Tự Do, thì, mỗi bữa ăn, xin quý vị hãy
nghĩ đến những người đã hy sinh một phần thân thể trong cuộc chiến để
chúng ta được sống trọn tuổi thơ, được cắp sách đến trường, được sum vầy
với Cha Mẹ và gia đình. Và ngày nay, với cơ thể lành lặn, chúng ta được
sống đầy đủ dưới bầu trời Tự Do, còn những kẻ bất hạnh ấy đang khốn khổ
và bị hất hủi bên quê nhà.
Kính thưa quý vị, Việt-Nam là quê
hương của chúng ta. Suốt hơn ba thập niên qua tập thể Việt-Nam tỵ nạn đã
đóng góp vào đất nước ấy bao nhiêu tiền của rồi? Thế tại sao khi chúng
ta về thăm quê hương, chúng ta phải hối lộ, phải đút lót cổng này năm
mươi đô-la, cửa kia ba mươi đô-la, phòng nọ hai mươi đô-la, v.v…thì mọi
việc mới êm xuôi để chúng ta rời phi trướng? Trong khi đó, đối với những
người đã hy sinh một phần cơ thể cho chúng ta được sống toàn vẹn, tại
sao chúng ta nỡ để họ đói rách và tủi buồn bên cuối trời quên lãng?
Ngày xưa, Pháp đô hộ Việt-Nam, nhưng
hình ảnh anh Thương Binh lại nên thơ như trong bài Ngày Trở Về của
Phạm-Duy: ‘Ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường đê đến bên lũy tre.
Nắng vàng hoe, vườn rau trước hè cười đón người về. Mẹ lần mò ra trước
ao, nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì
quá đợi chờ…Ngày trở về có anh thương binh chống nạn cày bừa, vì thương
yêu anh nên ngày trở về có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ…’ Bây giờ, anh
Thương Binh V.N.C.H. không thể ‘bước lê trên quãng đường đê đến bên lũy
tre’, vì anh Thương Binh đang lê lết tấm thân tàn trên hè phố, trong
nhà lồng chợ, trước các tiệm ăn hoặc bên những đống rác đầy ruồi bọ để
kiếm ăn! Miếng cơm của anh Thương Binh bây giờ không phải là ‘nắm cơm
ngon’ mà là vũng cơm thừa! Anh Thương-Phế-Binh đã ăn cơm thừa, uống nước
vũng thì làm thế nào Anh có được ‘con trâu xanh’ để nó ‘hết long giúp
đỡ’? Người Mẹ của anh Thương Binh cũng không ‘lần mò ra trước ao nắm áo
người xưa ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi
chờ!’, vì người Mẹ của Anh đã chết tại một vùng kinh tế mới khô cằn nào
đó!
Kính thưa quý vị, nói cho hết nỗi đau
của tập thể Thương-Phế-Binh V.N.C.H., tôi nghĩ, tôi chỉ có thể cảm nhận
được chứ tôi không đủ ngôn từ để diễn đạt. Nhưng tôi tin tưởng rằng,
nếu ai đã từng chứng kiến thảm cảnh của Thương-Phế-Binh V.N.C.H. khi các
Anh bị Việt-Cộng đuổi ra khỏi các quân y viện miền Nam, các Anh phải bò
lê lết trên những con đường quanh bệnh viện; và sau đó những
Thương-Phế-Binh này phải lây lất xin ăn hoặc moi rác để kiếm miếng ăn ,
thì không ai là người không hướng tâm về những nạn nhân trực tiếp của
cuộc chiến tương tàn ấy cả!
Chúng ta, tập thể Việt-Nam tỵ nạn, vì
tình cốt nhục, đã đổ mồ hôi, bán sức lao động để giúp đỡ gia đình, thân
quyến và bạn bè bên nhà. Chúng ta vì lòng nhân, đã dè xẻn gửi về biếu
Thây Cô từng gói quà nhân nghĩa. Chúng ta cũng không quên cứu giúp nạn
nhân bị dịch tả hoành hành trong trại tỵ nạn bên Phi-Châu; vậy, trước
tình cảnh nát lòng của tập thể Thương-Phế-Binh V.N.C.H., chúng tôi tha
thiết xin quý vị – những người may mắn còn lành lặn sau cuộc chiến và
quý vị thuộc các ngành Nha-Y-Dược, Cục Quân-Y QL/V.N.C.H. – những người
đã hơn một lần hàn gắn những tàn tích ghê rợn của chiến tranh trên cơ
thể các Thương-Phế-Binh này, hãy nghiêng xuống để tình thương lênh láng
từ trái tim đầy rung cảm của quý vị, một lần nữa, nhểu từng giọt nồng,
làm ấm lại những tâm hồn vỡ vụn đang bị dòng đời quên lãng!…”
Đến đây, dường như đang bị xúc động mạnh, diễn giả ngưng lại. Cả hội trường im lặng. Vài giây sau, cả hội trường như bừng tĩnh và tiếng vỗ tay lại vang lên.
Từ hàng ghế thứ năm bên trái khan
đài, như không nén được nỗi đau trong hồn lâu hơn nữa, Mạnh hơi khom
người đứng lên, đi ra ngoài.
Bên ngoài, không khí oi nồng của
những ngày cuối Hạ như hắt từng cơn nóng hừng hực vào làng da sạm nắng
trên khuôn mặt xương xương của Mạnh. Nhìn quanh bãi đậu, từng hàng xe im
lìm như đang ngây nắng, Mạnh thở dài, chưa biết phải làm gì để những
lời đầy xúc cảm của diễn giả bớt ảnh hưởng vào tâm lý của chàng. Mạnh
rút điếu thuốc, xoay người vào tường, bật hộp quẹt mồi lửa. Vừa bập bập
điếu thuốc Mạnh vừa bước dọc theo con đường chính trong lòng phố thưa
người của một chiều chủ nhật.
Từ nhỏ, Mạnh thường nghĩ chàng rất
“chì”, không bao giờ bị tình cảm chi phối. Vậy mà sau khi vượt biển sang
Mỹ, mỗi lần nghe nhạc Việt-Nam chàng chịu không nổi, cứ phải tắt đi,
hoặc bỏ đi chỗ khác. Chiều nay, khi nghe diễn giả khơi dậy niềm đau của
chính chàng và những quân nhân cùng cảnh ngộ, Mạnh cũng phải bỏ đi như
trốn chạy. Mạnh nghĩ nỗi đau của những người như chàng không những chỉ ở
phần cơ thể bị cắt xén mà còn do những “bất hạnh giây chuyền” tạo ra.
Thật vậy! Không gì đau đớn cho bằng khi tâm trí mình còn sáng suốt, trái
tim còn dạt dào yêu thương mà đành thụ động nhìn những người thân yêu
nhất trong đời mình từ từ tìm cách xa lìa mình!
Mạnh nghiệm ra rằng, không những
chiến tranh đã hủy hoại một phần thân xác của chàng mà chiến tranh còn
khiến cho tâm hồn chàng yếu đuối lạ lùng! Chính vì mang tâm hồn quá nhạy
cảm, nhiều khi không chống nổi sự cô đơn, Mạnh chìm vào cơn say để quên
đi nỗi đau thầm kín của chàng!
Nỗi đau của Mạnh khơi nguồn từ ngày
mà những người trai miền Nam miệt mài trong cuộc chiến do Bắc quân chủ
xướng đều mong đợi. Đó là ngày đình chiến 27-01-1973. Mạnh và đồng đội
đều hiểu hiệp định ngưng bắn “da beo” là phi lý, đầy áp lực đối với quân nhân miền Nam và chỉ có lợi cho phía bên kia; nhưng dù sao, trong một thời gian, cũng giảm thiểu số thương vong cho cả hai phía.
Đối với đa số quân nhân miền Nam khi
xung trận, tâm trạng của họ như thế nào Mạnh không thể hiểu được. Nhưng
riêng Mạnh, chàng xã thân ngoài trận địa do bổn phận và trách nhiệm thôi
thúc chứ không phải được hun đúc bằng lòng thù hận như Bắc quân, khắc
vào người “sinh Bắc tử Nam” hay là gào lên mỗi khi chào cờ “thề phanh thây uống máu quân thù”!
Sở dĩ Mạnh không nuôi lòng thù hận những người bên kia chiến tuyến là
vì, Mạnh nghĩ, trong đoàn quân xâm lăng từ phương Bắc thế nào cũng có
Tuất – đứa em duy nhất mà Mạnh đã lìa xa khi Mạnh còn mang “tên cúng
cơm” là Mùi.
Mùi nhớ rõ, năm ấy, Mùi đã khóc sưng
cả mắt nhưng Mợ – Mẹ của Mùi và Tuất – vẫn quyết định ở lại vì Mợ ngại
ông bà Nội và ông bà Ngoại không biết nương tựa vào ai lúc tuổi già! Lý
do Thân – Bố của Mùi và Tuất – để Tuất ở lại vì ông bà Nội sợ sau khi
Ông Bà mất không ai để tang, không ai nhan khói!
Từ ngày đó đến ngày hưu chiến cũng
gần hai mươi năm, Mạnh không biết ông bà Nội, ông bà Ngoại còn sống hay
đã về tiên cảnh và Tuất có được dịp chít vành khăn tang cho Ông Bà hay
không; nhưng Mạnh biết chắc chắn một điều là không thể nào Tuất được ở
lại làng để lo nhang khói cho Ông Bà, vì ngoài Bắc không có đạo luật như
miền Nam: Miễn dịch cho những người con trai duy nhất còn lại trong gia
đình. Mạnh nghĩ, Tuất, hoặc đã chết trên đường mòn Hồ-Chí-Minh, hoặc
đang có mặt trong đoàn quân vượt vùng phi quân sự để vào đến bờ sông
Thạch-Hãn này. Vì nghĩ như vậy, cho nên, mỗi khi lính bắt được tù binh,
Mạnh thầm mong đó là Tuất để Mạnh biết Tuất còn sống và có ngày Tuất sẽ
được trao đổi tù binh chiến tranh. Cũng có khi Mạnh mong tù binh không
phải là Tuất để Mạnh tránh được cảnh đau lòng khi thấy đứa em vào tù mà
chàng không thể can thiệp. Nghĩ quanh quẩn một klúc, Mạnh cười lớn; bởi
vì, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, làm thế nào Mạnh có thể nhận diện
được Tuất khi mà anh em xa nhau đến ngần ấy thời gian!
Bây giờ sắp ngưng chiến, lòng Mạnh
cũng tạm yên, bớt áy náy, đỡ bức rứt về đứa em không cùng chiến tuyến.
Mạnh ngã người vào ba-lô, lấy gói quân tiếp vụ tính mồi một điếu, nhưng
Mạnh nghe thiệu thính viên gọi nhỏ: “Ông Thầy”. Mạnh hơi nhổm lên và thấy hiệu thính viên đang lom khom đến gần, thì thầm: “Đại bàng trên máy, ông Thầy.” Mạnh ấn nhanh gói thuốc vào lại túi quần, chụp ống liên hợp: “Đại bàng, đây Metro.” Tiếng đầu giây bên kia: “Giờ ‘nghỉ chơi’ sắp điểm. Kiểm soát ‘con cái’ của toa cẩn thận. Đề cao cảnh giác và tuyệt đối tuân hành lệnh ‘nghỉ chơi’” Mạnh đáp: “Nhận năm, Đại bàng.” Mạnh chuyển sang tầng số nội bộ và truyền lệnh đến từng tiểu đơn vị.
Lệnh ngưng bắn chỉ vừa truyền đi trên
đài phát thanh được vài phút, Mạnh nghe nhiều tiếng reo hò, rồi một
giọng Bắc nghe rất rõ: “Ngưng bắn dzồi, anh em ơi!” Câu ấy được
lập lại từ nhiều hướng khác nhau khiến Mạnh nhận định được rằng đơn vị
của chàng đang ở vào thế “cài răng lược” với đơn vị địch. Mạnh rất yên
lòng, vì “con cái” của chàng đều im lặng, giữ nguyên vị trí.
Không gian quanh bờ sông trở lại tịch mịch, đầy căn thẳng và hồi hộp. Bỗng một giọng Bắc lại vang lên: “Các anh Quốc-Gia ơi! Ngưng bắn d…z…ồ…i… Thích quá!” Đơn vị của Mạnh vẫn im lặng. Một lúc sau lại có tiếng từ hướng khác: “Các anh Quốc-Gia ơi! Thèm thuốc quá! Cho một điếu.” Sau nhiều lần lập đi lập lại những câu ấy mà vẫn không được đơn vị “Ngụy” đáp ứng, Bắc quân im lặng.
Sáng sớm hôm sau, những lời kêu gọi như lúc khuya lại vang lên. Bất ngờ Mạnh nghe giọng Nam, sắc và gọn: “Đứng lại!”
Mạnh chụp ống liên hợp, chưa kịp bấm nút để liên lạc kiểm soát tình
hình thì đã thấy – cao khỏi những đọt tranh còn lóng lánh sương mai – lố
nhố nhiều nón cối! Ngay tức khắc, Mạnh và hiệu thính viên chụp vũ khí
cá nhân. Vừa khi ấy Mạnh nghe nhiều tiếng “đứng lại!” vang lên
từ nhiều phía. Mạnh đứng bật dậy. Thấy Mạnh đứng lên, cả đơn vị của Mạnh
cũng đứng lên, sẵn sàng trong tư thế cận chiến. Nhưng, đồng loạt, Bắc
quân đưa cao tay vẫy vẫy: “Ngưng bắn dzồi. Anh em cả. Chúng tôi đâu có khí giới đâu. Đói và thèm thuốc quá, các anh ủng hộ tý.” Những người lính miền Nam chất phát, đưa mắt nhìn nhau, khó xử. Bắc quân vừa từ từ bước đến gần vừa cười cười: “Các anh biết không? Mấy hôm nay đói meo, mỗi ‘nần’ các anh ăn, mùi đồ hộp thơm ‘nừng’, tụi này thèm quá!” Thấy quả thật địch quân không mang súng, người lính miền Nam cả tin, hạ nòng súng, ùa đến bắt tay Bắc quân.
Sau vài phút vui mừng, lính miền Nam
lấy thức ăn và thuốc trong ba-lô tặng lính miền Bắc. Lính miền Bắc cười
tở mở rồi “hồ hởi” khui, ăn ngay tại chỗ. Có người hút hết điếu quân
tiếp vụ do lính miền Nam tặng rồi mới thong thả khui thức ăn, ăn. Vừa ăn
lính miền Bắc vừa nhìn từng đôi giày “sô” sờn gót, từng chiếc đồng hồ
cũ kỷ hoặc cặp kính mát được dắt hờ vào túi áo rằn ri của người lính
Thủy-Quân Lục-Chiến rồi trầm trồ một cách thèm thuồng: “Ôi Giời! Đồ đạc của các anh hiện đại quá! Cho sờ tý.” Lúc này người lính miền Bắc trông ngây ngô, vui thích và hiền lành như đàn cừu vừa tìm được cánh đồng cỏ non.
Bất ngờ một tiếng “sát!” vang lên!
Nhanh và “ăn khớp” nhau như đã thực tập nhuần nhuyển, những con cừu hiền
lành ấy bỗng biến thành đàn hổ đói vừa ngửi được mùi thịt tươi! Bắc
quân phùng mang, trợn mắt, vung dao găm, đâm túi bụi vào chính những
người vừa cho chúng ăn! Nhiều thây người gục xuống. Mũ xanh, nón sắt rơi
ơ hờ cạnh gốc tranh câm nín. Máu đỏ vẽ thêm những đường kỷ hà trên quân
phục rằn ri!
Vài tiếng súng rời rạc vang lên trước
khi Mạnh đủ sức quay sang hiệu thính viên, tính dùng ống liên hợp ra
lệnh đừng bắn. Một tay ôm vết thương nơi lồng ngực bên trái, một tay
Mạnh cố sức hất thân người của hiệu thính viên sang một bên để Mạnh xử
dụng máy truyền tin. Vừa khi ấy, một anh nón cối chạy ngang qua. Nghe
tiếng máy truyền tin rè rè, rẹt rẹt, anh nón cối dừng lại. Thấy Mạnh nằm
nghiêng, đang áp tai vào ống liên hợp trong tư thế liên lạc, anh nón
cối hươi dao găm lên, tính đâm vào lưng của Mạnh. Bất ngờ Mạnh ngẫng
lên, ánh mắt đầy thảng thốt. Khi ấy anh nón cối cũng vừa thấy trên cổ áo
của Mạnh mỗi bên ba hoa mai vàng và một vùng máu đỏ đang nhuộm thắm
phần trên của túi áo, nơi có bảng tên Nguyễn Văn Mạnh.
Lần đầu tiên trực diện với sĩ quan
“Ngụy”, anh nón cối hơi lúng túng. Nhưng thấy Mạnh bị thương, anh nón
cối lấy lại bình tĩnh ngay. Anh nón cối đá ngược vào mặt Mạnh làm Mạnh
bật ngửa ra. Ngay lúc đó anh nón cối đâm vào vùng bụng dưới của Mạnh và
tiện tay, hắn xoay lưỡi dao!
Mạnh quặn người, nghiến răng, dồn hết
tàn lực vào đôi tay, chụp cánh tay của anh nón cối, bóp chặt. Anh nón
cối bậm bờ môi thâm sì, dùng tay trái trợ lực, ấn dao găm sâu xuống, sâu
xuống nữa. Trong nỗi đau tột cùng, Mạnh nhìn anh nón cối bằng ánh mắt
ngỡ ngàng đến khó hiểu rồi buông tay, khép mắt!
Mạnh tỉnh lại khi chiếc trựa thăng
mang dấu hồng thập tự là đà, sắp đáp xuống. Mạnh cảm thấy ươn ườt nơi bờ
môi. Mở mắt, Mạnh thấy y-tá đang dùng bông gòn thấm nước, rà quanh bờ
môi khô nứt của chàng. Thấy Mạnh tỉnh lại, y-tá dừng tay, giọng reo vui:
“Ông Thầy! Ráng đi ông Thầy! Trực thăng tản thương tới rồi, ông Thầy.” Mạnh thều thào: “Con cái của tao bị nặng không?” Y-tá lắc đầu, tỏ vẻ thiểu não:”Tơi bời hoa lá, ông Thầy!”
Mạnh thở dài. Trước khi chìm lại vào hôn mê, Mạnh còn nghe giọng bực
tức của Cao, một hạ sĩ rất gan lỳ của đơn vị – cũng bị thương – hỏi một
thương binh Việt-Cộng: “Đã có lệnh ngưng bắn, tại sao các anh còn tấn công chúng tôi?”
Vì thấy có sự hiện diện của vài tên Tiệp-Khắc trong ủy ban liên hợp bốn
bên, chàng Việt-Cộng biết tính mạng của anh ta sẽ không đến nỗi nào cho
nên anh ta phát ngôn không ngượng miệng: “Chúng tối tấn công các
anh bao giờ? Vết thương nơi chân tôi ‘nà’ do đạn M16 của các anh bắn chứ
có ai nghe hoặc thấy súng của chúng tôi nổ chưa? Các anh bắt tôi ‘nà’
các anh vi phạm hiệp định ‘Ba-Nê’. Chúng tôi sẽ ‘chanh’ đấu để đưa sự
kiện này ‘nên’ ủy ban ‘niên’ hợp bốn bên.” Một quân nhân thều thào: “Cao!…Đang không, đ.m., sao mày dở nắp ống cống lên chi vậy?”
Đã bao nhiêu năm qua rồi, nhưng mỗi
khi nhớ lại câu nói này của một đàn em, Mạnh vẫn phải cười vì sự thâm
thúy của chàng “lính thủy đánh bộ”.
* *
*
Chiếc phản lực của hãng hàng không
Northwest càng bay xa lục địa Hoa-Kỳ bao nhiêu Mạnh càng cảm thấy bồi
hồi bấy nhiêu. Mối tình cảm này tương tự như tâm trạng của Mạnh dạo Mạnh
vừa được phóng thích khỏi trại cải tạo, đáp xe lửa về Nam.
Khi chuyến xe lửa vừa qua khỏi cầu
Bến-Hải, nỗi buồn sâu kín không biết từ đâu dấy lên ngập cả hồn chàng.
Nghĩ ngợi một lúc Mạnh mới tìm ra nguyên nhân gợi buồn là chiếc cầu
Hiền-Lương! Ranh giới phân chia đất nước đã được xóa đi trên bản đồ,
cũng như hai vết sẹo nhăn nhúm trên cơ thể của Mạnh đã lành lặn. Nhưng
thử hỏi đến bao giờ dòng sông đẩm máu này mới thoát khỏi tính chất oan
nghiệt của nó, cũng như biết đến khi nào những tế bào nơi hai vết sẹo
của Mạnh mới trở lại trạng thái bình thường!
Khi xe lửa qua khỏi ga Tuy-Hòa một
chốc, Mạnh khóc lúc nào Mạnh cũng không hay! Nước mắt của Mạnh bây giờ
chỉ âm thầm lăn dài trên hai gò má trũng sâu chứ không tuôn trào cùng
tiếng thét gào điên loạn của thằng Mùi trong một đêm hãi hùng cách nay
xa lắm.
Đêm đó, trên chuyến tàu từ Tuy-Hòa về
Nhatrang, Mùi ngồi cạnh Bố, nhớ lại hương vị của biển và những món ăn
tuyệt vời mà người bạn gái của Bố ở Tuy-Hòa nấu đãi hai Bố con nhân dịp
Mùi thi đậu trung học đệ nhất cấp. Tội nghiệp Bố và người đàn bà đang
muốn chiếm vị thế của Mợ! Bao nhiêu tiền dành giụm Bố và bà ấy đều vui
thích và hãnh diện đưa Mùi đi may áo quần, mua sách vở, dày dép, chuẩn
bị cho Mùi làm “cậu tú” vì Mùi quyết định “học nhảy” lớp đệ tam. Nghĩ
đến sách vở và quần áo mới, Mùi cảm thấy thương Bố quá, vỗ nhẹ vào vai
Bố: “Bố! Mai mốt con học xong con cũng đi Biệt-Động-Quân giống Bố, nha, Bố?” Thân nghiêm giọng: “Bố mày! Cho mày ăn học để mày làm ông kia ông nọ chứ bộ để đi lính giống tao à?” Mùi ngây thơ: “Thế Bố muốn sau này con làm gì?” Có lẽ đã sắp đặt sẵn trong đầu từ lâu, Thân đáp ngay: “Làm bác sĩ, kỹ sư, luật sư,thiếu gì nghề danh giá, con.” Mùi lắc đầu: “Nhưng con muốn đi lính cơ. Đi lính như Bố oai thấy mồ, ai thấy cũng phải chào.” Thân chấm dứt ước mơ của Mùi: “Thôi, về lo học hành, đừng nói nhảm.” Hai Bố con im lặng được một chốc, bỗng xe lửa hãm nhanh tốc lực. Nhiều tiếng lao xao từ nhóm người đi buôn: “Rồi! Mấy ổng chận đường nữa rồi!” Thấy
vẻ hốt hoảng hiện lên mặt mọi người nhưng Mùi chẳng biết chuyện gì đang
xảy ra. Bỗng Bố chụp cái xắc có bộ quân phục giấu kín trong ấy, liệng
qua cửa sổ toa xe, trước đôi mắt ngơ ngác của Mùi. Thân nắm chặt tay
Mùi, giọng lo âu, nói vào tai Mùi: “Coi chừng chúng nó bắt thanh niên đi theo chúng nó. Có gì con cố chạy thoát, đừng để chúng nó bắt, nghe chưa?” Lúc này Mùi mới lờ mờ hiểu và sợ.
Xe lửa dừng hẳn. Những người ngồi gần
cửa bắt đầu nhốn nháo rời xe. Những người ngồi bên trong cũng tuần tự
đi ra. Tất cả đứng gom lại nơi thửa ruộng khô. Sau đó, mấy người mặc đồ
bà ba đen, tay xách đèn lồng – không biết xuất hiện từ đâu – bắt đàn bà,
người già và trẻ con đứng riêng; đàn ông đứng riêng, rồi “đồng chí
chính trị viên” bắt đầu tuyên truyền.
Giữa lúc tinh thần mọi người bị chi
phối và căn thẳng đến tột độ, một tiếng hô “nghi…ê…m…” vang lên. Phản
ứng tự nhiên của những người lính chuyên nghiệp, Thân – cũng như những
quân nhân khác đang mặc thường phục – vội đứng thẳng, cụp hai chân vào
nhau trong thế nghiêm thì nhóm Việt-Cộng nhận ra ngay ai là lính.
Việt-Cộng nhào đến, bắt ngay những người ấy đứng riêng ra.
Trong khi Mùi run sợ, chỉ biết nhìn
Thân lủi thủi tuân lệnh Việt-Cộng thì “đồng chí chính trị viên” điểm
điểm ngón tay trỏ vào toán lính V.N.C.H., mặt hắn xoay về nhóm thường
dân, lên án: “Đồng bào thấy rõ, đây là những tên phản động, tay sai
của ngọai bang, mang tâm liếm gót giày bọn ‘sen đầm’ quốc tế, phản lại
dân tộc. Chúng nó đáng tội chết! Chúng nó phải đền tội trước nhân dân!”
Nghe “chính trị viên” phát biểu, toán
lính V.N.C.H. đưa mắt nhìn nhau, ngầm hiểu rằng cuộc đời của họ chắn
chắn sẽ kết liểu tại đây! Đã vậy thì liều! Thân hô lớn “Biệt-Động-Quân! Sát!” Như
nghe một mệnh lệnh khi xuất quân, những người lính V.N.C.H. vừa chồm
tới, tình ùa đại vào toán Việt-Cộng thì, ngay khi ấy, khẩu đại liên –
không ai biết Việt-Cộng đặt trên mui xe lửa từ lúc nào – quật từng loạt
đạn vào toán lính V.N.C.H. không khí giới, trước sự kinh hoàng của mọi
người!
Mùi hét lên “Bố! Bố ơi! Bố!” và dợm người muốn chạy đến ôm xác của Thân; nhưng một người đàn bàn kéo Mùi lại: “Im! Mày muốn tụi nó giết mày luôn hả?” Mùi
hãi quá, nín thinh. Đến khi mấy người mặc đồ bà ba đen thổi tắt mấy
ngọn đèn lồng và biến vào bóng đêm, mọi người mới ùa đến bên các nạn
nhân. Mùi gục đầu lên xác của Thân và kêu khóc thảm thiết. Người đàn bà
lúc nãy lại đến, ai ủi, dỗ dành Mùi. Nhưng Mùi vẫn cứ khóc cho đến khi
khan cả tiếng mới chịu lặng yên. Mùi ngồi giậy, khoanh tay vòng hai đầu
gối rồi gục đầu lên, thút thít. Thỉnh thoảng Mùi nhìn xác thân bê bết
máu của Bố rồi quẹt nước mắt!
Sau bao nhiêu biến thiên của cuộc
sống, Mùi tưởng Mùi đã quên được đêm kinh hoàng đó, nhưng không! Khi nhớ
lại Mùi vẫn còn xúc động, lặng lẽ lau nước mắt. Mùi thở dài! Từ một
thằng Mùi côi cút, Mùi lăng xả vào đời với tên mới – Mạnh – như ngầm
nhắc nhở mình luôn luôn hướng về tương lai với tinh thần cứng rắn cộng
với niềm tự tin trong một cơ thể tráng kiện.
Nhưng, sau lần bị thương vào ngày
ngưng chiến để người vợ trẻ của chàng lặng lẻ ra đi – vì hình hài của
Mạnh đã mất khả năng thiên bẩm của người đàn ông – Mạnh tự biết rằng
niềm tự tin trong chàng không còn nữa. Và giờ đây, sau bao nhiêu năm tù
đầy ngoài Bắc-Việt, cơ thể chàng còm cỏi, tâm hồn chàng rã rời, mất hết
sức phấn đấu, Mạnh không hiểu chàng còn lý do gì để hướng vế ngày mai!
Vì nghĩ như vậy, Mạnh nhận biết rằng, lẫn trong những dòng nước mắt khóc
Cha lần này còn có những giọt lệ Mạnh khóc cho chính cuộc đời của chàng
nữa!
Để lòng bớt ngậm ngùi với quá khứ,
Mạnh đứng lên, chồm ra cửa sổ, hít vào buồng phổi luồng gió trong lành
của Vịnh Đại-Lãnh im lìm. Xe càng xa xứ “nẫu” bao nhiêu thì nỗi buồn
càng lui xa trong lòng Mạnh bấy nhiêu. Và cuối cùng là khối tình cảm bồi
hồi, xúc động âm ỷ nổi lên trong lòng Mạnh. Đến khi xe lửa dừng tại ga
Nhatrang, khối tình cảm ấy mới biến thành sự lạc lõng, sự cô đơn như dạo
nào chàng và Bố vừa rời tàu “há mồm” sau nhiều ngày rời bến Hải-Phòng!
Ra khỏi ga xe lửa, Mạnh ngơ ngác,
không biết về đâu, bởi vì Mạnh lớn lên và khởi sự binh nghiệp từ trường
Thiếu-Sinh-Quân! Thấy nhiều kẻ ăn xin bám theo hành khách, Mạnh chạnh
lòng, nhưng chợt nhớ số tiền quá ít oi trong túi, Mạnh lắc đấu, nhìn lơ
chỗ khác. Bất ngờ Mạnh chú ý đến tấm thẻ nhựa nhỏ được gắn nơi ngực của
một hành khất mù đang ngồi im lặng cạnh mấy chiếc xích-lô, tay đưa gáo
dừa ra xin. Nhìn kỷ, Mạnh giật mình. Tấm thẻ nhựa ấy là thẻ căn cước
quân nhân thời V.N.C.H! Mạnh bước đến, hỏi nhỏ: “Sao anh dám đeo căn cước quân nhân? Anh không sợ à?” Người hành khất đáp: “Tôi còn gì để họ đầy ải nữa đâu mà sợ!” Mạnh lấy trong túi quần ít tiền, khom người, nhét nhanh vào tay người ăn xin: “Anh cầm tạm. Tôi không có nhiều.” Ngay lúc đó, một người ngồi trên Honda hỏi Mạnh: “Mới được thả về hả? Muốn về đâu?” Mạnh ngạc nhiên, đứng lên: “Anh hỏi tôi, phải không?” Người ngồi trên Honda cưởi: “Chứ hỏi ai nữa bây giờ! Anh nhìn quanh đây xem ai giống anh không thì biết hà.” Mạnh ngần ngừ: “Tôi
không có nơi nào để về cả. Số tiền còn lại trong túi tôi chắc chắn
không thể nào đủ trả cho cuốc xe từ đây ra nghĩa trang Phật-Giáo.” Người ngồi trên Honda cười lớn: “Bộ không có chỗ nào về rồi ra nghĩa trang ngủ nhờ sao, cha nội?” Mạnh cũng cười: “Tôi muốn thăm mộ của Bố tôi.” Người ngồi trên Honda cho xe nổ máy, thúc: “Trời đất! Thôi, lên lẹ đi, cha.” Trong
khi cho xe chạy ra cầu Hà-Ra, người lái tự giới thiệu là Vũ, cựu Mũ
Nâu. Sau những chuyến xe thồ thường nhật, trước khi về nghỉ, Vũ thích
ghé ga xe lửa đón tù cải tạo mới được tha, đưa họ về với gia đình mà
không nhận thù lao. Trường hợp của Mạnh, vì thấy nghĩa cử của Mạnh đối
với người hành khất và hiểu hoàn cảnh của Mạnh, Vũ xúc động, đề nghị
Mạnh về ở tạm nhà Vũ, Vũ sẽ tìm người cho Mạnh dạy kèm Anh văn, kiếm
tiền…
Dòng ý tưởng của Mạnh vừa đến đây, bất chợt giọng nhỏ nhẹ của cô tiếp viên hàng không đưa Mạnh trở về thực tại:
– Thưa ông, ông dùng loại nước giải khát nào?
Phải mất vài giây Mạnh mới tỉnh hẳn để hỏi:
– Cô có các loại giải khác gì?
Sau khi cô tiếp viên kể tên, Mạnh
cười và xin một ly Sprite. Vị ngòn ngọt, chua chua và cảm giác mát lạnh
của vài ngụm Sprite đem đến cho Mạnh sự dễ chịu và thoải mái. Nhìn ra
cửa sổ phi cơ, Mạnh thấy từng áng mây trắng xóa. Mạnh có cảm tưởng như
chiếc phi cơ bay rất chậm. Đôi lúc Mạnh tưởng như phi cơ đứng yên và mây
trôi lặng lờ. Mạnh nhận ra rằng, thân phi cơ, cũng như thân xác của
chàng, so ra rất nhỏ bé trong không gian bao la này.
Phi cơ lên cao, lên cao nữa và vượt
khỏi nhiều tầng mây để Mạnh thấy, phía trên phi cơ, bầu trời trong xanh
như biển của những ngày sóng lặng; và dưới lườn phi cơ, mây trắng kết
liền nhau, trông như cánh đồng tuyết. Cuối tầm mắt, bầu trời xanh và
“cánh đồng tuyết” tiếp giáp nhau trông như vòng chân trời mà Mạnh thường
thấy vào những chiều lang thang trên bờ biển ở trại tỵ nạn Ga-Lăng.
Thời gian ở trại Ga-Lăng, tuy thiếu thốn, cô đơn, buồn nản nhưng Mạnh không phải lo bị mất việc, không tiền trả bills; Mạnh cũng không phải làm quần quật như từ ngày đến Mỹ.
Ở Việt-Nam, trình độ Anh ngữ của Mạnh
được kể là khá, dạy kèm học sinh để kiếm sống và để dành tiền vượt
biên. Vì vậy, Mạnh cứ hy vọng khi đến Mỹ, Mạnh sẽ tìm được việc làm
tương đối nhẹ nhàng và lương khá. Không ngờ, khi đến Mỹ, Mạnh chỉ tìm
được việc làm ở một body shop.
Điều kiện làm việc trong hãng sửa xe
này thật là kinh khủng! Mùa Hè, ánh nắng chói chang từ cửa lớn hắt vào
như muốn nung chảy vỏ bánh xe. Mấy quạt máy kếch xù nơi mỗi góc nhà quay
vù vù nhưng chỉ khuấy động lớp không khí hừng hực nóng chứ có đem lại
tý mát mẻ nào đâu! Vào mùa lạnh, gió rít từng cơn trên mái tôn; gió lộng
từng hồi hồi vào cửa lớn. Mạnh mặc bên trong bộ đồ ấm bằng nỉ dày, bên
ngoài đồng phục xanh; vậy mà đôi khi cũng bị cóng tay, môi run lặp cặp.
Những lúc ấy, hai vết sẹo nhức buốt theo mỗi động tác đứng lên, ngồi
xuống của Mạnh. Vậy mà Mạnh cũng chịu đựng được biết bao nhiêu năm dài!
Khi một người bạn về Bắc thăm nhà,
Mạnh nhờ người ấy tìm cách liên lạc về làng xưa, tìm Mẹ và Tuất; vì năm
1954 ra đi, Mạnh còn quá nhỏ, không thể nhớ địa chỉ một cách chính xác.
Cũng vì lý do đó, khi bị Việt-Cộng giải ra Bắc, Mạnh không thể liên lạc
về gia đình.
Sau khi người bạn giúp liên lạc được
với bà Thân và Tuất, Mạnh phải làm thêm việc giữ an ninh cho một nhà
kho, vào cuối tuần, để có phương tiện giúp Mẹ và Tuất. Lúc này Tuất đã
có ba người con trai; đứa lớn chết trận Việt-Cộng xâm lấn Cao-Miên. Hai
đứa còn lại đã lập gia đình vẫn còn ở làng cũ.
Không thể nào Mạnh mường tượng lại
được con đường từ làng ra tỉnh lộ và từ tỉnh lộ về Hải-Phòng. Nhưng Mạnh
lại nhớ rõ cảnh đàn bà con gái – theo chỉ thị của Việt-Minh (lúc đó Mùi
không biết) – đứng dọc hai bên đường, khóc lóc, kể lể, làm như thương
yêu, tiếc nhớ đàn ông lắm, cứ níu kéo, năn nỉ đàn ông ở lại! Mùi run
quá, sợ mấy bà ấy kéo Thân ở lại. Nhưng có lúc Mùi mong Thân bị kéo lại
để Thân đừng đi, và như thế, Mùi sẽ được ở lại với Mẹ. Nhưng Thân mạnh
dạng hất tay mấy bà ấy ra: “Thôi! Đừng làm trò khỉ!”
Thân và Mùi ra đi yên phần. Chỉ tội
cho ông bà Nội, ông bà Ngoại, không chịu rời nơi chôn nhau, cắt rốn cho
nên về sau bị Việt-Minh đấu tố đến chết, về tội điền chủ, cường hào, ác
bá!
Suốt thời gian liên lạc được với
Mạnh, bà Thân và Tuất chưa bao giờ cho Mạnh biết sự thật về những cái
chết đau thương của ông bà Nội, Ngọai. Và Mạnh cũng chưa dám cho bà Thân
và Tuất biết Việt-Cộng đã dùng thủ đoạn đê hèn để giết ông Thân – vì
ngại thơ bị kiểm duyệt và “nhà nước” sẽ gây phiền toái. Đến khi Mạnh về
làng xưa, lần đầu tiên chỉ có ba Mẹ con ăn cơm với nhau, tại nhà Tuất,
bà Thân mới bùi ngùi kể lại cho Mạnh nghe và Mạnh cũng có cơ hội thuật
lại cái chết đầy thương tâm của ông Thân.
Cái chết của ông Thân đã khắc sâu vào
tâm khảm của Mạnh. Giờ đây lại biết sự thật về bốn cái đại tang, Mạnh
bàng hoàng, đau xót vô cùng! Giữa khi gia đình đang đau buồn, bất ngờ
một anh công an phường xuất hiện, đưa giấy, bảo mời Mạnh sáng mai lên
phường “làm việc”. Mạnh nhìn anh công an bằng đôi mắt mở lớn, đầy ngỡ
ngàng, rồi dịu xuống, như thầm trách.
Thấy ánh mắt của Mạnh, Tuất giật mình. Ánh mắt ấy như dội vào tâm thức để Tuất phải bận tâm, phải nghĩ ngợi.
Đêm đó, sau khi anh em nằm bên nhau
trên chiếc phản, hàn huyên cho đến gần sáng, Mạnh rơi vào giấc ngủ một
cách dễ dàng. Riêng Tuất cứ trằn trọc mãi, không ngủ được vì bị ánh mắt
khó hiểu của Mạnh lúc chiều ám ảnh. Tuất cố vận dụng trí nhớ để xem Tuất
đã thấy ánh mắt ấy ở đâu, vào dịp nào, nhưng đành chịu! Rồi Tuất hồi
tưởng lại những cuộc đụng độ dữ dội với quân miền Nam xem những nạn nhân
của nòng súng, lựu đạn và mũi dao của Tuất chết như thế nào, và động
tác của mỗi nạn nhân trước khi chết ra làm sao! Nhưng vì giết nhiều “kẻ
thù” quá, Tuất không thể nhớ được “kẻ thù” nào có ánh mắt lạ lùng đó!
Khi Tuất thiu thiu ngủ, ánh mắt ấy
lại hiện về. Tuất không dám mở mắt, cố tập trung tư tưởng vì ngại ánh
mắt ấy sẽ biến đi. Tuất thấy sau đôi mắt dường như thấp thoáng loại quân
phục có tích cách ngụy trang của lính miền Nam. Tuất vận dụng tâm trí
nhiều hơn nữa và từ từ nhận ra những đường kỷ hà màu xanh, nâu và trắng
chen lẫn nhau. Đúng rồi! Quân phục của Lính Thủy Đánh Bộ! Ô, lạ không!
Tại sao lại có ba hoa mai vàng bên mỗi cổ áo, vết máu tươi nơi ngực trái
và ống liên hợp kêu rè rè, rẹt rẹt…Người Tuất toát mồ hôi. Đúng là ánh
mắt của “tên” đại úy “Ngụy” bị Tuất đâm chết cạnh máy truyền tin, bên
kia bờ sông Thạch-Hãn, vào hôm có lệnh hưu chiến! Tuất nhớ dường như
Tuất thấy bản tên của “hắn”, nhưng lâu quá Tuất không nhớ tên gì!
Vừa khi ấy, Mạnh thức giấc, than nóng
và đèn sáng Mạnh ngủ không ngon giấc. Tuất tăng tốc độ quạt máy và
khuyên Mạnh nên cởi áo thun để ngủ cho mát. Tuất đến công tắc điện, có ý
đợi Mạnh cởi áo thun xong rồi mới tắt đèn. Nhưng khi chiếc áo thun
trắng vừa vuột qua khỏi vai của Mạnh, Tuất nhíu mày vì thấy vết sẹo nơi
ngực trái của Mạnh. Tuất hỏi:
– Anh làm gì mà có vết sẹo dài thế?
Như suốt mấy ngày qua, với dụng ý không muốn nhắc đến quá khứ, Mạnh đùa:
– Anh có cả…ngàn vết sẹo chứ phải một đâu, chú.
Biết Mạnh đùa, Tuất cũng đùa theo:
– Người có ngàn vết sẹo thì… “cái ấy” cũng mang sẹo rồi!
Hai anh em cười thành tiếng. Trong
phút giây vui với đứa em mấy mươi năm xa cách, Mạnh cảm thấy trẻ lại như
ngày nào hai anh em ở truồng tắm sông, cho nên quên giữ ý:
– Không phải ngay “cái ấy” mà gần gần thôi.
Tuất cũng vô tình, muốn kéo dài niềm vui:
– Đâu, đưa em xem nào.
Mạnh trật lưng quần đùi ra. Thấy vết
sẹo màu nâu nổi cộm ở vùng bụng dưới của Mạnh, Tuất hoảng kinh, đứng
sững! Đầu óc của Tuất xoay vòng vòng, muốn nổ tung! Ánh mắt lúc chiều,
vết sẹo bên trái của lồng ngực và vết sẹo ở bụng dưới…Lẽ nào! Tuất khổ
sở, lắc đầu nhiều lần rồi nghiêm giọng:
-Anh Mùi! (Tuy biết Mùi đã đổi tên,
nhưng bà Thân cũng như Tuất, đều muốn gọi Mạnh là Mùi; vì tên Mùi nghe
gần gủi, thân thiết với họ hơn.) Hồi trước anh là Lính Thủy Đánh Bộ,
đúng không?
– Anh đã dặn chú hoài. Tìm hiểu làm chi những chuyện ấy?
– Thôi được. Em chỉ yêu cầu anh trả lời cho em một chữ “có” hay “không” mà thôi. Chịu không?
Mạnh quen miệng “Okay”. Tuất hỏi:
– Ngày đình chiến, đơn vị của anh có đóng ở bên kia sông Thạch-Hãn hay không?
Mạnh hơi hoang mang về sự tò mò của Tuất, đành đáp “hang hai”:
– Nếu chú cho anh biết lý do gì chú hỏi anh câu ấy thì anh sẽ trả lời.
Tuất không trả lời, vội tắt đèn và hấp tấp mở cửa trước:
– Thôi, gần sang rồi. Anh nằm nghỉ. Em đi có tý việc. Em sẽ về ngay.
* *
*
Sau khi nghe Tuất kể rõ câu chuyện, bà Thân lặng người một lúc rồi thở dài:
– Tuất à! Bất cứ điều gì xảy ra trên
đời đều do “duyên” và “nghiệp” cả. Trường hợp của con và anh Mùi cũng
chỉ là một trong muôn vàn cảnh oái ăm trên đất nước điêu linh này. Con
biết hối và biết thương anh Mùi, thế là đủ.
– Nhưng làm thế nào con có thể sống với sự ray rức này, Mợ?
– Ý con muốn như thế nào?
– Con muốn nói thật với anh Mùi.
– Không nên, con à! Có bao giờ anh
Mùi muốn nhắc chuyện cũ đâu. Vả lại, bây giờ chỉ con và Mợ biết chuyện,
Mẹ con mình đau lòng; nếu anh Mùi biết nữa, chỉ thêm một người nữa đau
lòng chứ có giải quyết được gì đâu, con thấy không?
– Nhưng con cũng có nhiều chuyện ấm ức, con muốn nói với anh Mùi.
Nhờ những lá thư ngày trườc Tuất thường gửi tay từ trong Nam về cho Bà, bà Thân hiểu tâm trạng của Tuất. Bà đáp:
– Con có thể nói với anh Mùi những
chuyện ấm ức đó. Nhưng, Mợ nghĩ, con không cần phải nói với anh Mùi về
lỗi lầm của con ở bên kia sông Thạch-Hãn, vào hôm ngưng chiến!
– Vâng. Con hiểu.
* *
*
Trên chuyến xe lửa Thống Nhất, Mạnh
và Tuất ngồi uống bia nơi toa hàng ăn vào lúc xế trưa, vắng khách. Nhìn
quanh không thấy ai khác, ngoài người ngồi xa xa sau quày tính tiền,
Tuất tiếp, giọng vẫn nhỏ và đều:
– Trong hàng ngũ bộ đội, biết bao
nhiêu thằng như em, nhưng chỉ sợ gia đình bị trả thù cho nên ít đứa dám
ra hồi chánh; trừ những người miền Nam tập kết, vì gia đình họ ở miền
Nam, họ không sợ. Bởi thế, anh đừng tưởng ai ở ngoài Bắc cũng đều là
Cộng-Sản cả đâu.
– Nếu anh nghĩ như thế, anh đã không về.
Ngưng một chốc, Mạnh tiếp:
– Dù sao thì họ cũng là kẻ chiến thắng.
– Thắng mẹ gì! Hồi đó nếu Mỹ cho B52
“rải thảm” thêm một hai trận nữa là bọn chúng đầu hàng vô điều kiện,
cũng giống như Nhật hồi thế chiến thứ hai rồi!
– Thế Tuất không hãnh diện được có mặt trong đoàn quân chiến thắng à?
– Hãnh diện gì! Thời chiến, ngoại trừ
con cháu bọn “chóp bu”, thằng thanh niên miền Bắc nào khỏi vào bộ đội?
Khi đã xung trận thì giết hoặc bị giết chứ có ai muốn thế đâu, anh.
Mạnh cười cười, liết chỗ xâm bốn chữ
“sinh Bắc tử Nam” trên tay Tuất. Hiểu Mạnh nghĩ gì, Tuất xòe bàn tay,
nhìn vào rồi bưng chai bia, tu một hơi, tiếp:
– Anh đã thấy những thằng bộ đội bị
xích chân vào xe tăng, vào thân cây hoặc vào trọng pháo chưa? Đấy, vô
nhân đạo thế ấy mà tụi bộ đội vẫn phải để cho xích, huống chi xâm bốn
chữ định mệnh này!
Mạnh bóp nhẹ tay Tuất. Tuất xoay
ngược bàn tay, nắm tay Mạnh rất lâu. Hai anh em đều yên lặng. Không phải
đến bây giờ Tuất mới cảm nhận được tình anh em ruột thịt nơi Mạnh;
nhưng quả thật bây giờ Tuất mới cảm thấy nhẹ nơi lồng ngực, vì Tuất đã
nói ra được phần nào những điều ray rức trong lòng chàng.
Tuất đứng lên, đến bên cửa sổ, nhìn
mong ra vùng không gian bát ngát. Cánh đồng xa xa lúa đã chín vàng. Từ
lúc đó, trên chuyến tàu Thống-Nhất theo Mạnh về Nam để cải táng hài cốt
của ông Thân, lòng Tuất thanh thản như những áng mây cuối trời./.
No comments:
Post a Comment