Kỵ Binh Đặng Hữu Xứng

Lời Giới Thiệu của KB NguySaigon: (trích từ bài viết: Nằm Giữa Sa Trường, Cửa Việt)
Chiến tranh dù đã qua đi, những cơn bão lửa chỉ còn lại dư âm trong lòng người lính chiến, nhưng địa danh Cửa Việt đã khắc sâu vào tâm não của những chiến sĩ Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh , Lữ Đoàn Giới Tuyến đã lưu danh chiến sử Lam Sơn 719 Hạ Lào và Lam Sơn 72, chiến thắng Cổ Thành Quảng Trị.
Đặc tính Mau, Mạnh đã được những Chi Đoàn 1/20 Chiến Xa, Chi Đoàn 3/20 Chiến Xa, Chi Đoàn 2/17 Thiết Kỵ, Chi Đoàn 3/18 Thiết Kỵ thực hiện. Một cuộc tiến quân thần tốc của Quang Trung Hoàng Đế đã được thực hiện bởi những Chi Đoàn lừng danh sông núi. Những Chi Đoàn đã ra đi và chấp nhận thương đau.
Chiến tranh dù đã qua đi, những cơn bão lửa chỉ còn lại dư âm trong lòng người lính chiến, nhưng địa danh Cửa Việt đã khắc sâu vào tâm não của những chiến sĩ Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh , Lữ Đoàn Giới Tuyến đã lưu danh chiến sử Lam Sơn 719 Hạ Lào và Lam Sơn 72, chiến thắng Cổ Thành Quảng Trị.
Đặc tính Mau, Mạnh đã được những Chi Đoàn 1/20 Chiến Xa, Chi Đoàn 3/20 Chiến Xa, Chi Đoàn 2/17 Thiết Kỵ, Chi Đoàn 3/18 Thiết Kỵ thực hiện. Một cuộc tiến quân thần tốc của Quang Trung Hoàng Đế đã được thực hiện bởi những Chi Đoàn lừng danh sông núi. Những Chi Đoàn đã ra đi và chấp nhận thương đau.
Một
cuộc hành quân không tải thương, không tiếp tế, không được yểm trợ bởi
Không Quân, Hải Quân và Pháo Binh. Một cuộc hành quân cô đơn không có
trong binh thư. Một cuộc hành quân đi vào đất chết. Đại úy Đặng Hữu Xứng
dù mới là Đại Úy chỉ là một Chi Đoàn Trưởng nhưng trong cuộc hành quân
thần tốc nầy đã đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh trong
tay 4 Chi Đoàn: 2 Chi Đoàn Chiến Xa và 2 Chi Đoàn Thiết Kỵ. Đã thể hiện
được đảm lược của một chiến sĩ Kỵ Binh được trui rèn trong lửa đỏ.
Chúng
ta không nói đến tính chất của cuộc hành quân thần tốc chiếm Cửa Việt
trước ngày Hiệp Định đình chiến Paris có hiệu lực đã được thiết kế vội
vàng không đủ yếu tố cần có của một cuộc hành quân bình thường là: Phải
có Không quân, Hải quân và Pháo binh yểm trợ. Vậy mà với một quân số quá
ít đã thành công trong giai đoạn đầu đã tiến qua bao nhiêu chốt chận mà
các Tiểu Đoàn lừng danh TQLC đã không bứng được chốt đầu tiên sau nhiều
lần thử lửa, chỉ trong 24 giờ đã vượt qua được 10 km tới Cửa Việt đối
mặt với quân thù đúng giờ ấn định.
Dù
chỉ là một cuộc hành quân ngắn ngủi, nhưng nó đã thể hiện được tinh
thần bất khuất, sự can trường và đảm lược của những Chi Đoàn lừng danh
sông núi. Nó cũng thể hiện tuyêt đối đặc tính Mau và Mạnh của Thiết Giáp
Binh nếu được chỉ huy đúng đắn trong một chiến trường thích hợp.
Đây
là một tài liệu rất quý cho những ai muốn tìm hiểu về tính chất kỷ
thuật, về sự chiến đấu phi thường, về khả năng chỉ huy tuyệt vời của các
Chi Đoàn Trưởng, Chi Đội Trưởng và lòng can đảm của Kỵ Binh các cấp.
Trân
trọng giới thiệu đến Quý độc giả bài viết “Dư Âm Cửa Việt“ của Thiếu Tá
Kỵ Binh Đặng Hữu Xứng để thấy được tinh thần bất khuất, lòng can trường
của những Kỵ Binh yêu quý đã “Nằm Giữa Sa Trường” trong ba ngày đầu
tiên Hiệp Định đình chiến Paris 28 tháng 1 năm 1973 có hiệu lực.
* * *
Đã lâu lắm rồi, kể từ ngày trận đánh Cửa Việt xảy ra. Tất cả những người trong cuộc có lẽ đều có chung ý nghĩ đây là trận đánh cuối cùng trước giờ ngưng bắn! Nhưng thật sự, sau hơn 38 năm, trận đánh Cửa Việt vẫn còn hừng hực lửa “Chiến Thắng“ trên những đặc san, hồi ký hoặc bút ký chiến trường của cả các sĩ-quan, tướng lãnh của 2 phe tham chiến. Ai cũng cho mình là người chiến thắng, là kẻ anh hùng dù đơn vị dưới quyền chỉ huy của mình bị đối phương đánh cho tả tơi, tan tác… nhưng vẫn hiên ngang mà tuyên bố “Can trường trong chiến bại” chứ chưa bao giờ nghe ai tự nhận trách nhiệm về mình sau cuộc chiến!!…
Đã lâu lắm rồi, kể từ ngày trận đánh Cửa Việt xảy ra. Tất cả những người trong cuộc có lẽ đều có chung ý nghĩ đây là trận đánh cuối cùng trước giờ ngưng bắn! Nhưng thật sự, sau hơn 38 năm, trận đánh Cửa Việt vẫn còn hừng hực lửa “Chiến Thắng“ trên những đặc san, hồi ký hoặc bút ký chiến trường của cả các sĩ-quan, tướng lãnh của 2 phe tham chiến. Ai cũng cho mình là người chiến thắng, là kẻ anh hùng dù đơn vị dưới quyền chỉ huy của mình bị đối phương đánh cho tả tơi, tan tác… nhưng vẫn hiên ngang mà tuyên bố “Can trường trong chiến bại” chứ chưa bao giờ nghe ai tự nhận trách nhiệm về mình sau cuộc chiến!!…
Riêng
tôi là một trong hàng trăm chiến sĩ của QLVNCH có mặt trong trận đánh
đó. Ở đây tôi không dám lạm bàn về Anh Hùng hay Bại Tướng mà chỉ muốn
nóí lên niềm tự hào của môt người lính Thiết Giáp trên chiến trường giới
tuyến vì đã tham dự nhiều trận chiến trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 và
trận đánh ác liệt, đẫm máu, phá tan tuyến phòng thủ kiên cố nhất, mở
đường cho những trận tái chiếm tỉnh lỵ và Cổ thành Quảng Trị, và lại có
mặt trong cuộc hành quân tái chiếm Cửa Việt: Một cuộc hành quân thần tốc
do Thiết Giáp làm Lực Lượng Tấn Công chính, phải chiếm cho bằng được
mục tiêu trong vòng 24 tiếng đồng hồ, vượt qua đoạn đường hơn 10 cây số
với vô vàn chốt và tuyến chặn của địch mà trước đó các đơn vị bạn đã
phải mất hàng tháng trời, khó khăn lắm mới tiến lên được vài trăm mét,
sau cùng vẫn bị đẩy lui về vị trí ban đầu…….
“Truth is the only merit that gives dignity and worth to history.” Lord Acton
Toàn
bộ quá trình kế hoạch Hành Quân mang tên Tango bắt đầu từ buổi họp hành
quân đặc biệt vào lúc 09:00 giờ ngày 26/1/1973 tại Phòng Họp Hành Quân
BTL/Lữ Đoàn 147/TQLC tại Hội Yên, Hải Lăng, Quảng-Trị, gồm có:
– Tr/tướng Ngô-quang-Trưởng (TL/QĐ1)
– Ch/tướng Bùi-thế-Lân (TL/SĐ/TQLC)
– Đ/tá Nguyễn-thành-Trí (TLPhó/SĐ/TQLC)
– Các TL Lữ Đoàn 147, 258, và 369 TQLC
– Các Thiết Đoàn trưởng gồm:
– Tr/tá Ng-văn-Tá (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn 20CX),
– Tr/tá Nguyễn-xuân-Dung (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn 17KB),
– Th/tá Phan-văn-Sĩ (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn 18KB)
– Các Tiểu Đoàn trưởng TQLC
– và Đ/u Đặng-hữu-Xứng (Chi Đoàn trưởng CĐ1/20CX)
– Tr/tướng Ngô-quang-Trưởng (TL/QĐ1)
– Ch/tướng Bùi-thế-Lân (TL/SĐ/TQLC)
– Đ/tá Nguyễn-thành-Trí (TLPhó/SĐ/TQLC)
– Các TL Lữ Đoàn 147, 258, và 369 TQLC
– Các Thiết Đoàn trưởng gồm:
– Tr/tá Ng-văn-Tá (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn 20CX),
– Tr/tá Nguyễn-xuân-Dung (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn 17KB),
– Th/tá Phan-văn-Sĩ (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn 18KB)
– Các Tiểu Đoàn trưởng TQLC
– và Đ/u Đặng-hữu-Xứng (Chi Đoàn trưởng CĐ1/20CX)
NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT
Lệnh của Tổng thống Nguyễn-văn-Thiệu:
– Phải chiếm lại Cửa Việt trong vòng 24 giờ, tức là trước 08:00 giờ ngày 28/1/1973 (ngày ký Hiệp Định Paris)
Lệnh của Tổng thống Nguyễn-văn-Thiệu:
– Phải chiếm lại Cửa Việt trong vòng 24 giờ, tức là trước 08:00 giờ ngày 28/1/1973 (ngày ký Hiệp Định Paris)
TỔNG CHỈ HUY CUỘC HÀNH QUÂN TANGO
Đ/tá Nguyễn-thành-Trí (TLPhó/SĐ/TQLC)
Đ/tá Nguyễn-thành-Trí (TLPhó/SĐ/TQLC)
CHỈ HUY CÁC CÁNH QUÂN
1. Cánh A (Nổ lực chính)
Do Đ/u Đặng-hữu-Xứng ((khóa 19 TBB/TĐ), Chi Đoàn trưởng Chi Đoàn 1/20CX chỉ huy. Chi Đoàn phó là Tr/u Lê-văn-Điệp (khóa 1/69 TBB/TĐ).
Nhưng khi tham chiến thì Tr/u Lê-văn-Điệp được Đ/u Xứng cho ở lại tiền cứ là căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans – Phò-Trạch, Phong Điền) vì phải giải quyết chuyện cá nhân, và Tr/u Tống-huy-Kính (cựu Chi Đội trưởng Chi Đội 2/1/20CX) được Đ/u Xứng chỉ định thay thế.
Lực lượng gồm:
– Chi Đoàn 1/20 CX M-48. Chỉ đoàn tham chiến chỉ gồm 12 CX [(BCH/Chi Đoàn gồm 2 CX Chỉ huy + 1 M.577 – xe Truyền tin- + M.113) + Chi Đội 3/1/20CX của Th/u Đặng-văn-Quang (5 CX) + Chi Đội 3/3/20CX của Th/u Nguyễn-văn-Sa từ Chi Đoàn 3/20CX tăng phái (5 CX)]
Đơn vị tăng phái cho Đ/u Xứng:
– Chi Đoàn 2/17TK (22 xe M.113), Chi Đoàn trưởng là Đ/u Trần-Cảnh (khóa 22B TVBQG/VN). Chi Đoàn phó là Tr/u Thi (khóa 26 TBB/TĐ)
– Đại Đội 4, Tiểu Đoàn 2 TQLC (Trâu Điên) của Tr/u Trần-đinh-Công (khóa 26 TBB/TĐ)
Nhiệm vụ: Tấn công càn lướt các mục tiêu dọc bờ biển để tiến chiếm Cửa Việt trước giờ ngưng bắn, tức là 8 giờ sáng ngày 28/1/1973: ngày ký Hiệp Định Paris.
1. Cánh A (Nổ lực chính)
Do Đ/u Đặng-hữu-Xứng ((khóa 19 TBB/TĐ), Chi Đoàn trưởng Chi Đoàn 1/20CX chỉ huy. Chi Đoàn phó là Tr/u Lê-văn-Điệp (khóa 1/69 TBB/TĐ).
Nhưng khi tham chiến thì Tr/u Lê-văn-Điệp được Đ/u Xứng cho ở lại tiền cứ là căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans – Phò-Trạch, Phong Điền) vì phải giải quyết chuyện cá nhân, và Tr/u Tống-huy-Kính (cựu Chi Đội trưởng Chi Đội 2/1/20CX) được Đ/u Xứng chỉ định thay thế.
Lực lượng gồm:
– Chi Đoàn 1/20 CX M-48. Chỉ đoàn tham chiến chỉ gồm 12 CX [(BCH/Chi Đoàn gồm 2 CX Chỉ huy + 1 M.577 – xe Truyền tin- + M.113) + Chi Đội 3/1/20CX của Th/u Đặng-văn-Quang (5 CX) + Chi Đội 3/3/20CX của Th/u Nguyễn-văn-Sa từ Chi Đoàn 3/20CX tăng phái (5 CX)]
Đơn vị tăng phái cho Đ/u Xứng:
– Chi Đoàn 2/17TK (22 xe M.113), Chi Đoàn trưởng là Đ/u Trần-Cảnh (khóa 22B TVBQG/VN). Chi Đoàn phó là Tr/u Thi (khóa 26 TBB/TĐ)
– Đại Đội 4, Tiểu Đoàn 2 TQLC (Trâu Điên) của Tr/u Trần-đinh-Công (khóa 26 TBB/TĐ)
Nhiệm vụ: Tấn công càn lướt các mục tiêu dọc bờ biển để tiến chiếm Cửa Việt trước giờ ngưng bắn, tức là 8 giờ sáng ngày 28/1/1973: ngày ký Hiệp Định Paris.
2. Cánh B (Nổ lực phụ)
Do Đ/u Lê-bá-Nam (khóa 20 TBB/TĐ), Chi Đoàn trưởng Chi Đoàn 3/20CX chỉ huy. Chi Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-thanh-Hiền (khóa 23 TBB/TĐ). Lực lượng gồm:
– Chi Đoàn 3/20CX (- 1 Chi Đội của Th/u Ng-văn-Sa) gồm 12 CX M.48 + M.113
Đơn vị tăng phái cho Đ/u Nam:
– Chi Đoàn 3/18TK (gồm 22 xe M.113) Chi Đoàn trưởng là Đ/u Nguyễn-quang-Minh (khóa 14 TBB/TĐ). Chi Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-văn-Quyến (khóa 24 TVBQG/VN).
– Đại Đội 3 Tiểu Đoàn 4 TQLC (Kình Ngư) của Tr/u Mai-văn-Hiếu (khóa 23 TVBQG/VN)
Nhiệm vụ: Tiến quân dọc theo các làng mé ruộng phía tây, song song nhưng tiến chậm hơn và cách Cánh A chừng gần 01 km, hổ trợ theo yêu cầu của Cánh A, cùng tiến chiếm mục tiêu Cửa Việt.
Do Đ/u Lê-bá-Nam (khóa 20 TBB/TĐ), Chi Đoàn trưởng Chi Đoàn 3/20CX chỉ huy. Chi Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-thanh-Hiền (khóa 23 TBB/TĐ). Lực lượng gồm:
– Chi Đoàn 3/20CX (- 1 Chi Đội của Th/u Ng-văn-Sa) gồm 12 CX M.48 + M.113
Đơn vị tăng phái cho Đ/u Nam:
– Chi Đoàn 3/18TK (gồm 22 xe M.113) Chi Đoàn trưởng là Đ/u Nguyễn-quang-Minh (khóa 14 TBB/TĐ). Chi Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-văn-Quyến (khóa 24 TVBQG/VN).
– Đại Đội 3 Tiểu Đoàn 4 TQLC (Kình Ngư) của Tr/u Mai-văn-Hiếu (khóa 23 TVBQG/VN)
Nhiệm vụ: Tiến quân dọc theo các làng mé ruộng phía tây, song song nhưng tiến chậm hơn và cách Cánh A chừng gần 01 km, hổ trợ theo yêu cầu của Cánh A, cùng tiến chiếm mục tiêu Cửa Việt.

3. TQLC
–
Tiểu Đoàn 4 (-) TQLC của Tr/tá Nguyễn Đằng Tống (khóa 16 TVBQG/VN), có
nhiệm vụ phải tiến quân theo sau Cánh A, điền trám vào những mục tiêu đã
được Thiết Giáp càn lướt qua và diệt những ổ kháng cự còn sót lại trong
các mục tiêu.
– Tiểu Đoàn 2 (-) TQLC của Th/tá Trần-văn-Hợp (khóa 19 TVBQG/VN) được tăng cường 3 Đại Đội của Tiểu Đoàn 9 TQLC do Th/tá Phạm-Cang (khóa 20 TVBQG/VN) chỉ huy, từ tuyến Long Quang, có nhiệm vụ phải tiến chiếm các mục tiêu dọc mé ruộng lên hướng bắc.
– Tiểu Đoàn 2 (-) TQLC của Th/tá Trần-văn-Hợp (khóa 19 TVBQG/VN) được tăng cường 3 Đại Đội của Tiểu Đoàn 9 TQLC do Th/tá Phạm-Cang (khóa 20 TVBQG/VN) chỉ huy, từ tuyến Long Quang, có nhiệm vụ phải tiến chiếm các mục tiêu dọc mé ruộng lên hướng bắc.
Giờ G (xuất phát tấn công): 7:00 ngày 27/1/1973
– Không tiếp tế, không tải thương, tức là, nếu TQLC hay TG bị thương thì bỏ lại tại chỗ cho đơn vị theo sau lên săn sóc tải thương.
– Không cần thu chiến lợi phẩm hay bắt tù binh.
– Không cần giao chiến khi gặp địch mà chỉ cần càn lướt, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng.
– Hoàn toàn không có Không Quân yểm trợ.
– Chỉ có Pháo Binh yểm trợ.
– Lương thực mang theo gọn nhẹ cho 3 ngày.
– Mỗi quân nhân đều phải mang theo 5 lá cờ VN nhét vào trong nón sắt hay balô để cắm vào mục tiêu chiếm được tại Cửa Việt để phân ranh giới.
Cuộc Hành Quân Tango phải được giữ bí mật cho đến trước giờ xuất phát tấn công.
Sau khi Đ/tá Trí thuyết trình xong, tôi (Đ/u Đặng-hữu-Xứng) đã đứng lên trình bày:
– “Thưa Đại tá, có lẽ tôi sẽ phải mất một khoảng thời gian chưa xác định được để vượt qua tuyến chặn đầu tiên của địch, vì đã hơn 1 tháng, các Tiểu Đoàn TQLC đã nhiều lần thay phiên nhau tìm cách đánh thủng tuyến này nhưng vẫn không có kết qủa. Điều này chứng tỏ đây là một tuyến chặn rất vững của địch.”
Và Ch/tướng Lân nói:
– “Tình hình là như thế nhưng giá nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ giao phó.”
Buổi họp Hành Quân kết thúc sau hơn 1 tiếng đồng hồ. Tôi nói với Tr/tá Tá, bảo Đ/u Nam tăng phái Chi Đội của Th/u Ng-văn-Sa cho tôi và Th/u Sa cùng Chi Đội của mình phải có mặt tại điểm tập trung này (tôi chỉ trên bản đồ lúc 17 giờ cùng ngày. Tôi nói với Tr/tá Dung, bảo Đ/u Cảnh (Chi Đoàn trưởng 2/17TK) cùng Chi Đoàn 2/17TK cũng đến đó cùng ngày giờ.
(Lý do tôi chỉ định Chi đội của Th/u Sa cũng rất dễ hiểu, vì Th/u Sa là một sĩ-quan đã từng phục vụ ở Chi Đoàn 3/20CX kể từ ngày thành lập Thiết Đoàn 20CX nên đã được huấn luyện kỹ từ khi Cuộc Chiến tại Quảng-Trị và Đông-Hà bùng nổ, cũng như đã trải nghiệm chiến trường.
Còn Chi Đoàn Phó của tôi là Tr/u Lê-văn-Điệp lại nằm trong trường hợp đặc biệt: Vợ của anh ta đã từ Sàigòn ra thăm chồng, mang theo cái bầu bự hơn 3 tháng. Dân gian thường có câu: vợ mà có bầu thì chồng thường gặp điều xui xẻo. Có đúng như vậy hay không thì tôi chưa biết, nhưng trong trường hợp này thì tôi lại cho là đúng nên đã cho Tr/u Điệp ở lại tiền cứ và bảo liên lạc thường xuyên để biết tình trạng của 2 Chi Đội là Chi Đội 1 và Chi Đội 2 của tôi đang được tăng phái cho các Tiểu Đoàn Nhảy Dù tại các tuyến ở hướng núi phía Tây Quốc lộ 1. Để thay thế, tôi chỉ định Tr/u Tống-huy-Kính (cựu Chi Đội trưởng Chi Đội 2/1/20CX) phụ tá cho tôi trong cuộc hành quân này. Riêng tôi thì vợ tôi chỉ còn chừng gần 1 tháng nữa là sinh thêm cho tôi một đứa con, nhưng vì là “Đầu tàu” thì đành phải chịu thôi.)
Trên đường về, ngồi trên xe jeep, lòng tôi cứ ngổn ngang những thắc mắc không tìm được lời giải đáp: – Tại sao lại chỉ định mình (chỉ với cấp bậc Đại-úy) chỉ huy Cánh A làm Nổ Lực chính trong một cuộc hành quân qui mô như thế này?
– Tại sao không để cho mình chỉ huy Chi Đoàn (-), tức là 2 Chi Đội cơ hữu của Chi Đoàn mà chỉ để lại cho mình 1 Chi Đội và lại tăng phái cho mình 1 Chi Đội của Chi Đoàn 3/20CX? Như vậy, chỉ huy một đứa em ruột với khả năng mình biết rõ và một đứa em nuôi mình chưa biết rõ thì làm sao có được sự nhịp nhàng và ăn khớp trong việc chỉ huy và điều động?
– Còn nói về tâm trạng riêng của tôi (và nhất định là tâm trạng chung của những quân nhân các cấp thuộc 2 Binh chủng TG và TQLC trong lực lượng tham chiến) thì khó có thể diễn đạt hết được. Chỉ còn hơn 1 ngày và 1 đêm nữa thì Hòa Bình rồi, vậy ai mà không muốn mình còn sống sót để hưởng những giờ phút quý báu nhất trong đời lính như thế chứ?.
Về đến tiền cứ, tôi bảo Th/u Đặng-văn-Quang kiểm tra Chi Đội 3/1/20CX của anh để sẵn sàng di chuyển khi có lệnh, và nói 17 giờ sẽ họp, sẽ có cả Th/u Ng-văn-Sa và Đ/u Trần-Cảnh của Chi Đoàn 2/17TK. Nghe như thế, Quang dĩ nhiên là lộ vẻ ngạc nhiên. Tôi liền nói luôn là Chi Đoàn có nhiệm vụ đặc biệt và lực lượng sẽ có Th/u Sa từ Chi Đoàn 3/20CX tăng phái cùng với Chi Đoàn 2/17TK và 1 Đại Đội TQLC của Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên tùng thiết, và dặn Quang không được tiết lộ với bất cứ ai.
Đến 16:00, từ tiền cứ tại căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans), BCH/Chi Đoàn 1/20CX cùng Chi Đội 3/1/20CX của chúng tôi bắt đầu di chuyển đến Hải Lăng và tiếp tục đến Mỹ Thủy, chuyển qua hướng bắc đến Thôn Thuận Đầu (vị trí của BCH/TĐ 4 TQLC), bung ra nủa vòng tròn bố trí, dành nửa vòng tròn còn lại cho Chi Đội CX M.48 của Th/u Sa, còn Chi Đoàn 2/17TK M.113 thì sẽ bố trí xen kẻ giữa những chiến xa.
Khoảng 17:20, các Chi Đội và Chi Đoàn TG đã đến đủ và bố trí xong và lo cơm nước buổi tối. Tôi gọi các sĩ-quan TG tham chiến đến và trình bày lại những gì đã nghe được trong buổi họp tại Lữ Đoàn 147/TQLC, nhưng dặn phải chỉ nói với anh em thuộc cấp rằng đây chỉ là một cuộc hành quân bình thường để giữ an toàn cho các đơn vị ở tuyến đầu mà thôi. Tuy nhiên, họ phải nổ lực và cẩn thận y như các cuộc hành quân họ đã từng tham dự. Riêng Đại Đội TQLC tùng thiết sẽ có mặt vào sáng sớm ngày hôm sau trước 06:00 (ngày 27/01). Đến lúc đó mới có kế hoạch chi tiết
Tôi báo cáo về BTL/Hành Quân/SĐ/TQLC cho biết tình trạng và vị trí.
– Không tiếp tế, không tải thương, tức là, nếu TQLC hay TG bị thương thì bỏ lại tại chỗ cho đơn vị theo sau lên săn sóc tải thương.
– Không cần thu chiến lợi phẩm hay bắt tù binh.
– Không cần giao chiến khi gặp địch mà chỉ cần càn lướt, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng.
– Hoàn toàn không có Không Quân yểm trợ.
– Chỉ có Pháo Binh yểm trợ.
– Lương thực mang theo gọn nhẹ cho 3 ngày.
– Mỗi quân nhân đều phải mang theo 5 lá cờ VN nhét vào trong nón sắt hay balô để cắm vào mục tiêu chiếm được tại Cửa Việt để phân ranh giới.
Cuộc Hành Quân Tango phải được giữ bí mật cho đến trước giờ xuất phát tấn công.
Sau khi Đ/tá Trí thuyết trình xong, tôi (Đ/u Đặng-hữu-Xứng) đã đứng lên trình bày:
– “Thưa Đại tá, có lẽ tôi sẽ phải mất một khoảng thời gian chưa xác định được để vượt qua tuyến chặn đầu tiên của địch, vì đã hơn 1 tháng, các Tiểu Đoàn TQLC đã nhiều lần thay phiên nhau tìm cách đánh thủng tuyến này nhưng vẫn không có kết qủa. Điều này chứng tỏ đây là một tuyến chặn rất vững của địch.”
Và Ch/tướng Lân nói:
– “Tình hình là như thế nhưng giá nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ giao phó.”
Buổi họp Hành Quân kết thúc sau hơn 1 tiếng đồng hồ. Tôi nói với Tr/tá Tá, bảo Đ/u Nam tăng phái Chi Đội của Th/u Ng-văn-Sa cho tôi và Th/u Sa cùng Chi Đội của mình phải có mặt tại điểm tập trung này (tôi chỉ trên bản đồ lúc 17 giờ cùng ngày. Tôi nói với Tr/tá Dung, bảo Đ/u Cảnh (Chi Đoàn trưởng 2/17TK) cùng Chi Đoàn 2/17TK cũng đến đó cùng ngày giờ.
(Lý do tôi chỉ định Chi đội của Th/u Sa cũng rất dễ hiểu, vì Th/u Sa là một sĩ-quan đã từng phục vụ ở Chi Đoàn 3/20CX kể từ ngày thành lập Thiết Đoàn 20CX nên đã được huấn luyện kỹ từ khi Cuộc Chiến tại Quảng-Trị và Đông-Hà bùng nổ, cũng như đã trải nghiệm chiến trường.
Còn Chi Đoàn Phó của tôi là Tr/u Lê-văn-Điệp lại nằm trong trường hợp đặc biệt: Vợ của anh ta đã từ Sàigòn ra thăm chồng, mang theo cái bầu bự hơn 3 tháng. Dân gian thường có câu: vợ mà có bầu thì chồng thường gặp điều xui xẻo. Có đúng như vậy hay không thì tôi chưa biết, nhưng trong trường hợp này thì tôi lại cho là đúng nên đã cho Tr/u Điệp ở lại tiền cứ và bảo liên lạc thường xuyên để biết tình trạng của 2 Chi Đội là Chi Đội 1 và Chi Đội 2 của tôi đang được tăng phái cho các Tiểu Đoàn Nhảy Dù tại các tuyến ở hướng núi phía Tây Quốc lộ 1. Để thay thế, tôi chỉ định Tr/u Tống-huy-Kính (cựu Chi Đội trưởng Chi Đội 2/1/20CX) phụ tá cho tôi trong cuộc hành quân này. Riêng tôi thì vợ tôi chỉ còn chừng gần 1 tháng nữa là sinh thêm cho tôi một đứa con, nhưng vì là “Đầu tàu” thì đành phải chịu thôi.)
Trên đường về, ngồi trên xe jeep, lòng tôi cứ ngổn ngang những thắc mắc không tìm được lời giải đáp: – Tại sao lại chỉ định mình (chỉ với cấp bậc Đại-úy) chỉ huy Cánh A làm Nổ Lực chính trong một cuộc hành quân qui mô như thế này?
– Tại sao không để cho mình chỉ huy Chi Đoàn (-), tức là 2 Chi Đội cơ hữu của Chi Đoàn mà chỉ để lại cho mình 1 Chi Đội và lại tăng phái cho mình 1 Chi Đội của Chi Đoàn 3/20CX? Như vậy, chỉ huy một đứa em ruột với khả năng mình biết rõ và một đứa em nuôi mình chưa biết rõ thì làm sao có được sự nhịp nhàng và ăn khớp trong việc chỉ huy và điều động?
– Còn nói về tâm trạng riêng của tôi (và nhất định là tâm trạng chung của những quân nhân các cấp thuộc 2 Binh chủng TG và TQLC trong lực lượng tham chiến) thì khó có thể diễn đạt hết được. Chỉ còn hơn 1 ngày và 1 đêm nữa thì Hòa Bình rồi, vậy ai mà không muốn mình còn sống sót để hưởng những giờ phút quý báu nhất trong đời lính như thế chứ?.
Về đến tiền cứ, tôi bảo Th/u Đặng-văn-Quang kiểm tra Chi Đội 3/1/20CX của anh để sẵn sàng di chuyển khi có lệnh, và nói 17 giờ sẽ họp, sẽ có cả Th/u Ng-văn-Sa và Đ/u Trần-Cảnh của Chi Đoàn 2/17TK. Nghe như thế, Quang dĩ nhiên là lộ vẻ ngạc nhiên. Tôi liền nói luôn là Chi Đoàn có nhiệm vụ đặc biệt và lực lượng sẽ có Th/u Sa từ Chi Đoàn 3/20CX tăng phái cùng với Chi Đoàn 2/17TK và 1 Đại Đội TQLC của Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên tùng thiết, và dặn Quang không được tiết lộ với bất cứ ai.
Đến 16:00, từ tiền cứ tại căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans), BCH/Chi Đoàn 1/20CX cùng Chi Đội 3/1/20CX của chúng tôi bắt đầu di chuyển đến Hải Lăng và tiếp tục đến Mỹ Thủy, chuyển qua hướng bắc đến Thôn Thuận Đầu (vị trí của BCH/TĐ 4 TQLC), bung ra nủa vòng tròn bố trí, dành nửa vòng tròn còn lại cho Chi Đội CX M.48 của Th/u Sa, còn Chi Đoàn 2/17TK M.113 thì sẽ bố trí xen kẻ giữa những chiến xa.
Khoảng 17:20, các Chi Đội và Chi Đoàn TG đã đến đủ và bố trí xong và lo cơm nước buổi tối. Tôi gọi các sĩ-quan TG tham chiến đến và trình bày lại những gì đã nghe được trong buổi họp tại Lữ Đoàn 147/TQLC, nhưng dặn phải chỉ nói với anh em thuộc cấp rằng đây chỉ là một cuộc hành quân bình thường để giữ an toàn cho các đơn vị ở tuyến đầu mà thôi. Tuy nhiên, họ phải nổ lực và cẩn thận y như các cuộc hành quân họ đã từng tham dự. Riêng Đại Đội TQLC tùng thiết sẽ có mặt vào sáng sớm ngày hôm sau trước 06:00 (ngày 27/01). Đến lúc đó mới có kế hoạch chi tiết
Tôi báo cáo về BTL/Hành Quân/SĐ/TQLC cho biết tình trạng và vị trí.

DIỄN TIẾN TRẬN ĐÁNH
Khoảng
5:30 ngày 27/1/73, Đại Đội 4/TĐ2 TQLC của Tr/u Công đến trình diện. Tôi
gọi Đ/u Cảnh, Tr/u Kính, Th/u Quang, Th/u Sa và Tr/u Công đến họp ngay
sau xe M.113 thuộc Phân đội chỉ huy của tôi. Tôi chỉ vào bản đồ vị trí
hiên tại, vị trí quân bạn, tuyến xuất phát, tiếp đến nói ngắn gọn về kế
hoạch tiến quân của Cánh A, và mục tiêu chính là Cửa Việt. Cũng nói sơ
về Cánh B (nổ lực phụ rồi bảo Tr/u Công cho lệnh TQLC tùng thiết lên
M.113 của Chi Đoàn 2/17TK và chờ lệnh.
Chúng
tôi chỉ họp trong vòng khoảng 20 phút. Vào lúc này thì Pháo binh đủ
loại bắt đầu TOT (time on target) vào các làng dọc theo bờ biển trên
trục tiến quân của Cánh A của tôi.
Khoảng
6:20 ngày 27/1, tôi gọi về BTL/Hành Quân/ SĐ/TQLC để họ báo cho TĐ4
TQLC ra lệnh cho Đại Đội TQLC đang giữ tuyến đầu rút lui để chúng tôi
tiến đến tuyến xuất phát.
Khi
Cánh A của tôi đến tuyến xuất phát, Pháo binh vẫn còn hoạt động. Chỉ
tiếc một điều là đạn pháo chỉ rơi vào bên trong các làng mà VC thì lại
đào giao thông hào để bố trí kháng cự hoàn toàn ở ngoài khoảng cát trống
nhưng có những ụ cát mấp mô, rải rác những cây bụi nhỏ, phía trước
làng. Tôi cho Chi Đội CX của Th/u Quang dàn hàng ngang bên phải (song
song và cách mé biển chừng 100m), và Th/u Sa dàn hàng ngang bên trái,
mỗi chiến xa cách nhau chừng 50m vì còn phải có khoảng trống để cho
những M.113 của Chi Đoàn 2/17TK dàn hàng ngang xen kẻ giữa những chiến
xa nhưng lui về phía sau với cự ly chừng 20m.
Tôi
chưa kịp ra lệnh tấn công thì địch đã dồn dập nổ súng từ trong làng kèm
với đạn cối 82 ly rơi nổ ngay trên tuyến xuát phát. Tôi tức tốc cho
lệnh tấn công ngay, dồn hỏa lực đại liên 30 ly M.73 song hành và đại
liên 50 ly của Chiến xa và của M.113 vào mục tiêu đầu tiên (làng Gia
đẳng 1). Nhưng địch vẫn bắn trả rất mảnh liệt bằng thượng liên và súng
chống chiến xa AT-3 cũng như B-41. Điều này khiến tôi hồi tưởng đến trận
đánh ở Quảng Tín (Quảng Nam) vào đầu Tết năm 1970, lúc tôi còn làm Chi
Đoàn Phó Chi Đoàn 2/17TK.
(Đây
là cuộc Hành Quân mang tên Dương Sơn 3 do Lữ Đoàn 1 KB cùng với Liên
Đoàn 1 BĐQ do Đ/tá Phan-hòa-Hiệp (TL/Lữ Đoàn 1KB hồi đó) chỉ huy. Khi
Chi Đoàn tôi đang dàn hàng ngang trước mục tiêu chừng 100m và bắt đầu
tiến vào mục tiêu thì địch đã tấn công trước vì chúng đã đào hầm hố và
giao thông hào trước mục tiêu chừng 50m. Yếu tố bất ngờ này khiến Chi
Đoàn lúng túng, nhưng tôi đã ra lệnh tiếp tục tấn công bằng cách dùng
đại liên 50 bắn vào mục tiêu, còn 2 khẩu đại liên 30 gắn 2 bên hông phía
trên xe M.113 thì bắn vào các ụ đất và lùm cây nhỏ trên trục tấn công.
Nhờ vậy mà Chi Đoàn đã diệt được các chốt phía ngoài trống và xông thẳng
vào chiếm được mục tiêu. Sau đó thì thả BĐQ xuống vào sâu lục soát tiêu
diệt tiếp. Và tôi đã được thăng cấp Đại Úy đặc cách mặt trận do Đ/tướng
Cao văn Viên gắn lon tại BTL/Hành Quân/Lữ Đoàn 1KB đóng tại đồi Hương
Sơn, Quảng Tín).
Chính
vì thế mà tôi ra lệnh cho Chiến xa M.48 và M.113 tấn công bắn phá theo
chiến thuật đó. Đặc biệt là Chiến xa vẫn tiến liên tục cán luôn lên hầm
hố và giao thông hào của địch, còn M.113 của Chi Đoàn 2/17TK vẫn tiến
theo sau, đồng thời thả TQLC trên xe xuống để dùng súng cá nhân thanh
toán địch trong những hầm hố và giao thông hào đã bị Chiến xa cán lướt
qua. Tiến được chừng hơn 200m thì lính TG trên M.113 thuộc Phân đội Chỉ
huy của tôi đã nhảy xuống bắt sống một tên địch với khẩu súng bắn tỉa có
máy nhắm. Tôi mới chợt nhớ ra tại sao hai bên tai của tôi đã có những
tiếng nổ toác toác. Đó là đạn phát ra từ khẩu súng bắn tỉa này. Mục đích
là muốn tỉa rụng cấp chỉ huy trước. Tôi nhảy xuống khỏi Chiến xa và hỏi
tên địch: “Anh thuộc đơn vị nào?” Tên tù binh mặt mày xanh mét, trả lời, giọng miền Bắc run run: “Em thuộc Z6/304. Xin các anh cho em sống. Xin các anh cho em sống!” Tôi cho lệnh chở tên tù binh về phía sau để được khai thác tiếp, rôi lại tiếp tục tiến quân.
Kể
lại phần này thì chỉ mấy dòng và như chuyện đã xảy ra trong thoáng
chốc, nhưng trên chiến trường, thời gian cần thiết để thực hiện bước
tiến qua từng thước đất của địch rất khó xác định.
Cánh
quân của tôi đã vượt qua được khoảng 400m, cách làng Gia Đẳng I khoảng
70m, thì pháo 130 ly của địch bắt đầu dập xuống, tức là địch pháo chặn
đường tiến của cánh quân do tôi chỉ huy, đồng thời cũng thí luôn quân
của họ đang chống cự ngoài khoảng cát trống, còn trong làng thì địch vẫn
liên tục bắn ra.
Ngay
vào lúc này, Th/u Đăng-văn-Quang, Chi Đội trưởng Chi Đội 3/1/20CX, gọi
máy báo đã bị thương. Mới bước đầu mà tôi đã mất đi một sĩ-quan thiện
chiến rồi. Tôi lập tức ra lệnh cho Tr/u Tống-huy-Kính cùng với Chiến xa
của anh lên thay thế và cho M.113 chở Th/u Quang về phía sau gần tuyến
xuất phát để được tải thương sau khi đã liên lạc thông báo với TĐ4 TQLC
đang tiến lên từ phía sau để điền vào phần đất cánh quân của tôi đã
chiếm được nhưng rất chậm do pháo của địch cứ dồn dập.
Nhìn
vào đồng hồ đeo tay, lúc này đã hơn 10:40, tôi ra lệnh cho Tr/u Kính và
Th/u Sa tạt xéo về hướng Tây cách xa làng Gia Đẳng chừng 70m, chuyển
thành hàng ngang như cánh cung rồi tiếp tục tiến, riêng Th/u Sa phải ra
lệnh cho 2 chiến xa phía tận cùng bên phải tác xạ vào làng bên phải
(làng Gia Đẳng, dọc sát bờ biển) bằng đại liên M.73 song hành (với đại
bác) và đại lên 50 hướng về phía làng, vừa tác xạ vừa tiến về hướng bắc
chứ không tấn công. Còn Chi Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh thì nhanh chóng cho
TQLC tùng thiết lên M.113 tiến dọc phía bên trái (phía bên trái tức là
phía tây thì đã có Cánh B của Đ/u Nam, vả lại chỉ là khoảng trống nên
không có gì nguy hiểm.)
Cánh
A của tôi, kể từ tuyến xuất phát, đã tiến được hơn 2km vào khoảng
13:00. Tôi liên lạc với cánh B để biết vị trí của họ thì biết họ cũng
đang gần đến ngang với Cánh A của tôi (Dĩ nhiên Cánh B là nổ lực phụ,
tức là phải hổ trợ cho cánh quân của tôi khi cần, nên dù không chạm địch
cũng không được tiến nhanh hơn Cánh A, và qủa thật thì cánh B chẳng gặp
trở ngại gì nhiều trên đường tiến quân vì bên phía trái của họ đã có
TĐ2 và TĐ9 TQLC trong các làng thuộc mé ruộng).
Tôi
tự nghĩ: mới mức độ tiến quân như thế này thì khó có thể đến được Cửa
Việt vào buổi chiều tối. Vả lại địch quân vẫn bắn trả ráo riết. Tôi ra
lệnh tiếp tục tiến quân càng nhanh càng tốt, dù biết những làng dọc mé
biển vẫn còn địch quân. Chính vì thế mà TĐ4 TQLC không thể nào hoàn
thành nhiệm vụ điền trám quân kịp thời vào những mục tiêu mà cánh quân
của tôi đã càn lướt qua.
Bỗng
chiến xa của Th/u Sa bị súng chống chiến xa AT-3 của địch bắn nổ sớt
qua pháo tháp nhỏ (của đại liên 50 ly) và nhân viên xa đội của anh báo
Th/u Sa đã bị thương. Tôi bèn ra lệnh cho Chi Đoàn dừng lại chuyển thành
hàng ngang tác xạ vào làng Gia Đẳng 3 và Ba Lăng bên phải (dọc biển) để
cho M.113 thuộc BCH/Chi Đoàn của tôi (có y tá đi trên xe này) đến băng
bó tạm thời cho Th/u Sa. Tôi hỏi tình trạng thì biết anh bị thương ở mắt
và gãy cánh tay trái, tóc bị cháy xém. Sau khi Th/u Sa nhảy ra khỏi
chiến xa lại còn bị miểng pháo 130 ly chém gãy luôn chân trái. Dù lệnh
là không tải thương, nhưng cũng giống như tình trạng của Th/u Quang (Chi
Đội trưởng Chi Đội 3/1/20CX của tôi), vả lại khoảng cách với tuyến xuất
phát chỉ hơn 2km, tôi ra lệnh cho Chi Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh bung
rộng yểm trợ cho M.113 chở Th/u Sa về phía sau và báo cho TĐ4 TQLC tiếp
nhận tải thương. Nhưng vào lúc này thì họ lại điền trám quân chưa kịp
với tốc độ tiến quân của chúng tôi nên hơn 40 phút sau xe M.113 mới trở
lại. Và Th/u Thăng thay thế chỉ huy Chi Đội của Th/u Sa (sau khi đã trực
tiếp nói chuyện với Th/u Sa để hỏi tên của sĩ-quan này). Như vậy, Chi
Đoàn 1/20CX (-) của tôi chỉ còn Tr/u Kính là sĩ-quan kỳ cựu mà thôi.
Chưa tiến quân được bao nhiêu cây số mà tôi đã thiếu vắng 2 sĩ-quan
thiện chiến rồi. Thật không may chút nào!
Đến
khoảng 17:40 thì Cánh A của tôi đã tiến được khoảng 5km. Trời đã sẩm
tối vì đang là mùa đông. Tôi bèn cho lệnh ngưng tiến quân và tìm nơi bố
trí đồng thời gọi cho Cánh B lên cùng phối hợp bố trí đóng quân (ngang
với làng Long Quang).

Sau
khi bố trí xong thì quân lính bắt đầu ăn uống vì đã không ăn trưa. Lúc
này tôi mới gặp Th/tá Hoàng-Kiều, Thiết Đoàn Phó Thiết Đoàn 20CX và mới
biết được ông đã được lệnh đi theo để chỉ huy các cánh quân. Còn có cả
Th/tá Phạm-văn-Tiền, Tiểu Đoàn Phó TĐ4 TQLC nữa. Trời đất! Vậy mà trước
đó tôi đã không được thông báo gì cũng như trong hệ thống liên lạc, tôi
không nghe ông ra lệnh gì cả, vì BCH/Thiết Đoàn 20CX đi theo Cánh B cho
an toàn. Ông hỏi tôi: “Sao anh không tiếp tục tiến quân?” Tôi nói: “Trời
sắp tối rồi thì TG làm sao mà tấn công được chứ. Vả lại, sáng mai là
ngưng bắn, là Hòa Bình rồi. Mình đã chiếm được khoảng hơn 5km là tốt lắm
rồi.” Ông chẳng nói gì thêm. Tôi nói: “Vậy bây giờ tôi báo cho Th/tá biết tọa độ vị trí đóng quân của toàn bộ 4 Chi Đoàn để Th/tá báo về cho Đ/tá Trí.” Tôi lấy bản đồ và chỉ vị trí xong rồi nói tiếp: “Nếu họ bảo mình tiếp tục tiến quân thì Th/tá cứ nói là TG không hành quân vào ban đêm được.”
Tôi
về lại BCH/Chi Đoàn và nghĩ rằng ý kiến và lý do của mình nghe rất hợp
lý trên mặt chiến thuật, cũng hy vọng là cuộc hành quân tạm thời có thể
chấm dứt.
Nào ngờ, khoảng 20:45, Th/tá Kiều đi bộ đến BCH của tôi và nói: “Sư
Đoàn TQLC ra lệnh bằng bất cứ giá nào cũng phải tiếp tục tấn công và
chiếm cho được Cửa Việt trước 8 giờ sáng mai (tức là sáng ngày
28/01/1973), đúng theo lệnh ban đầu.” Ông chỉ nói có thế mà thôi.
Mọi
suy nghĩ và hy vọng của tôi trước đó đều tan biến trong phút chốc.
Nhưng đã là lệnh thì phải thi hành thôi. Tôi gọi máy cho Đ/u Nam, Cảnh,
Minh cùng với các Đại Đội trưởng TQLC tùng thiết đến xe tôi để họp khẩn
cấp, đồng thời bảo họ cho các Chi Đoàn và TQLC tùng thiết chuẩn bị.
Trong
khi chờ đợi, tôi vào xe M.577, rọi đèn pin vào bản đồ suy nghĩ cho kế
hoạch tiến chiếm Cửa Việt. Khi cả 3 Chi Đoàn trưởng và 2 Đại Đội trưởng
đến, tôi nhắc lại lời của Th/tá Kiều về lệnh của Sư Đoàn TQLC rồi rọi
đèn pin vào bản đồ và nói:
– “Mình
chỉ còn cách Cửa Việt khoảng hơn 5km về hướng bắc, cách bờ biển chừng
hơn 400m về hướng đông (sát nước biển). Muốn chiếm Cửa Việt thì bắt buộc
phải tấn công bằng tốc độ mới kịp, tức là phải tiến ra sát bờ nước biển
rồi phóng nhanh về hướng bắc.
– Trên đường tiến quân ra sát biển,
tất cả mọi loại súng trên Chiến xa M.48 và M.113 đều phải xen kẻ quay
về bên trái và bên phải. Chỉ có những xe hướng súng về phía trái, tức là
hướng bắc, mới tác xạ khi cần. Còn về hướng nam, tức là bên phải, thì
phải cẩn thận vì có thể sẽ gây thiệt hại cho quân bạn, tức là TĐ4 TQLC,
dù tôi biết họ không thể nào điền trám quân kịp.
– Sau khi ra đến sát bờ biển thì
từng xe phải chuyển hướng qua trái và hướng mọi loại súng về bên trái
vừa tác xạ vừa tiến theo hàng dọc (bên phải lúc đó là biển). Chỉ còn có
một cách này mà thôi. Tôi sẽ không cho gọi Pháo binh bắn chiếu sáng vì
như thế địch sẽ thấy rõ các xe của mình để nhắm bắn. Cũng không cần Pháo
binh yểm trợ vì sẽ mất yếu tố bất ngờ. Chiến xa nào xuất phát đầu tiên
ra hướng biển thì có thể dễ nhận ra đường đi vì là khoảng trống giữa 2
làng Bình An và Thanh Hội Phường, và chân trời phía biển thì mờ sáng.
Khi ra đến bải cát sát bờ biển thì sẽ dễ thấy hơn nữa vì ban đêm thì cát
thường sáng hơn (kinh nghiệm từ những lần đi tắm biển vào ban đêm của
tôi).
–
Chi Đoàn của Đ/u Nam sẽ đi đầu, kế tiếp là Chi Đoàn của tôi, sau đó là
Chi Đoàn 2/17TK và sau cùng là Chi Đoàn 3/18TK. Khi di chuyển, mỗi xe
chỉ cách nhau chừng 20m cho dễ thấy nhau. Bây giờ, tất cả trở về ra lệnh
cho TQLC tùng thiết lên xe. Sau 40 phút sẽ xuất phát, tức là 22:40. Tất
cả các Chi Đoàn Trưởng đều phải vào hệ thống truyền tin của Thiết Đoàn
20CX (ngoài hệ thống chi huy nội bộ của từng Chi Đoàn)”
Cuộc
họp khẩn cấp này chỉ gồm có 4 Chi Đoàn trưởng và 2 Đại Đội trưởng TQLC
tùng thiết. Có lẽ vì quá vội, tôi quên mất Th/tá Kiều và Th/tá Tiền.
(Thật ra thì ngay từ buổi họp tại Lữ Đoàn 147 TQLC, Đ/tá trí đã trực
tiếp ra lệnh cho tôi chỉ huy Nổ lực Chính -Cánh A- chứ không đề cập gì
đến việc có BCH/Thiết Đoàn 20CX đi theo. Vả lại, khi Th/tá Kiều chuyển
lệnh của BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC cho tôi, ông cũng không đề cập gì đến vấn
đề kế hoạch tiến quân).
Đúng 22:40 thì Chi Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam bắt đầu di chuyển, tiếp đến là những Chi Đoàn khác đúng như kế hoạch.
Có
lẽ vì địch quân không thể nào ngờ được TG lại tiến quân vào ban đêm.
Lại không có Pháo binh bắn yểm trợ hay chiếu sáng, nên hoang mang và
không trở tay kịp. Do đó hầu như địch không có phản ứng kịp thời để ngăn
chặn bước tiến của TG trên đường tiến ra sát bờ biển.
Khi
Đ/u Nam báo cáo Chi Đội đi đầu đã ra sát bờ biển, tôi cho lệnh từng
Chiến xa M.48 và M.113 sau khi ra sát bờ mới quay về trái và tiếp tục
tiến, như vậy mới không mất đội hình di chuyển vào ban đêm. Và sau khi
Chi Đoàn 3/18TK báo cáo M.113 cuối cùng của họ đã quẹo trái, tôi cho
lệnh nới rộng khoảng cách từng xe lên khoảng 30m, tất cả mọi loại súng
đều hướng về bên trái, tức là vào dãy cây dương liểu dọc theo các làng
dọc biển, cách bờ chừng 60 đến 70m và vừa di chuyển vừa tác xạ cầm
chừng.
Tôi
nhìn vào đồng hồ đeo tay, lúc này là 00:20 ngày 28/01/73 (tôi mang đồng
hồ dạ quang kèm một địa bàn đeo tay do Cố vấn Mỹ đã tặng tôi năm 1970),
ước tính chiều dài đội hình di chuyển của các Chi Đoàn để biết khi nào
thì Chiến xa đầu tiên đến Cửa Việt.
Đoàn
TG tiến quân chừng hơn 1km thì địch bắt đầu khai hỏa mạnh. Đạn địch bay
sớt qua các xe rơi lỏm bỏm ngoài nước biển. Tôi cho lệnh tất cả vẫn
tiến quân và tác xạ nhiều hơn vào dọc các làng trên đường đi, đồng thời
di chuyển nhanh hơn.
Đoàn
quân tiến được hơn 1 km nữa thì Đ/u Nam báo cáo chiến xa đầu tiên bị
sụp xuống giao thông hào địch quân đã đào trong đêm để chận bước tiến
của chúng tôi. Tôi bảo Nam tiếp tục cho các chiến xa kế tiếp lách sát ra
ngoài mé nước biển vượt qua chiến xa đó để tác xạ yểm trợ và cho Chiến
xa khác đến dùng dây cáp ngắn để kéo xe lên (loại dây cáp ngắn này đều
được trang bị trên mỗi Chiến xa M.48). Đoàn quân tạm thời phải dừng lại
để giải quyết tình huống này.
Khi
được bào cáo chiến xa bị sụp xuống giao thông hào đã được kéo lên, tôi
ra lệnh cho đoàn quân tiếp tục tiến, nhưng bổng có một tiếng nổ lớn và
ánh sáng chớp lên từ phía sau, và Chi Đoàn 2/17TK báo cáo chiếc M.113
chỉ huy của Đ/u Cảnh đã bị bắn. Cũng may xe không cháy, vẫn còn chạy
được và Đ/u Cảnh cũng chỉ bị thương nhẹ nên vẫn có thể chỉ huy (nếu bị
thương nặng hơn thì cũng phải được mang theo mà thôi, vì không thể nào
tải thương được), còn có 2 BS bị thương. Tôi cảm thấy yên lòng và bắt
đầu tiếp tục di chuyển. Bổng một phát đạn chống chiến xa của địch trúng
ngay vào xe tôi, chớp lên một bụm lửa sáng lóe, lọt vào khoang xe từ
phía tài xế và chiến xa rung mạnh. Tôi búng người ra ngoài pháo tháp
chiến xa, tiếp đến là HS Thẩm, xạ thủ chiến xa của tôi, trồi đầu ra báo
HS Thìn, tài xế chiến xa, đã chết. Tôi bảo HS Thẩm cùng Binh 1 Đá, nhân
viên nạp đạn, kéo HS Thìn ra khỏi xe rồi nhảy vào lại trong pháo tháp và
gọi máy cho xe M.113 của tôi đi theo sau đến để chở thi thể HS Thìn và
ra lệnh cho đoàn quân tiếp tục tác xạ vào làng. Sau đó tôi bảo HS Thẩm
nhảy vào lái chiến xa của tôi (điều này rất bình thường vì khi chỉ huy,
Chi Đoàn Trưởng thường kiêm luôn xa trưởng và có thể tác xạ thay cho xạ
thủ bằng cò điện trên cần điều khiển của trưởng xa) Phát đạn chống chiến
xa của địch đã trúng ngay vào mặt nạ đại bác và miểng đạn đã phủ xuống
đầu tài xế, nhưng lại không xuyên thủng vào trong khoang chiến xa được
vì giữa mặt nạ đại bác và thành pháo tháp còn có một khoảng hở. Chỉ kẹt
một điều là đại bác xe tôi không còn hửu dụng vì không thể hạ thấp được
do mặt nạ đại bác đã bị cong úp xuống chạm vào thành pháo tháp. Như vậy
thì cây đại lên 30 ly M.73 song hành với đại bác cũng không còn sử dụng
được nữa.
Tôi bảo Đ/u Nam tiếp tục di chuyển với tốc độ nhanh hơn nữa, vì bây giờ đã là hơn 5:00 giờ (ngày 28/01/73).
Đoàn
quân di chuyển thêm được khoảng 1km thì trời đã hừng sáng (ở vùng biển
thì trời sáng sớm hơn trong đất liền), tuy nhiên sương mù dày đặc, tầm
nhìn chỉ chừng 50m. Bổng nhiên Đ/u Nam báo là đã đến Cửa Việt. Tôi hỏi
Nam: “Như vậy, chiến xa đầu tiên đã thấy được nước mênh mông trước mặt chưa?” Nhưng Nam lại khẳng định là Cửa Việt, còn nói là anh ta đã đến Cửa Việt nhiều lần hồi còn ở Chi Đoàn 1/7CX M.41.
(Trước
năm 1970, Thiết Đoàn 7KB thường xuyên tăng phái một Chi Đội chiến xa
M.41 cho căn cứ Hải Quân Cửa Việt – Cảng Mỹ -, (Và hồi còn ở cấp Th/u
thi Nam đã có thời gian ở Chi Đoàn 1/7CX M.41) nhưng đặc biệt là hàng
tháng thì hoán đổi với Chi Đội CX M.41 khác. Lý thuyết thì thế, nhưng
thực tế thì chỉ thay đổi nhân viên xa đội mà thôi, vì như thế sẽ đở tốn
nhiên liệu và thời gian cho các CX M.41 di chuyển hoán đổi. Nói thật thì
loại CX M.41, nếu di chuyển đường dài từ Huế ra đến Cửa Việt, thường bị
hỏng hóc dọc đường).
Lúc
này, đồng hồ của tôi đã là 6:35. Tôi lật bản đồ, sau khi tính tốc độ và
thời gian di chuyển cùng với khoảng cách từng xe, tôi bảo Nam: “Phải hơn 1 clic (mỗi cạnh ô vuông trên bản đồ tỷ lệ 1/50.000 = 1km) mới đến mục tiêu”. Có lẽ vì có trục trặc gì đó, Nam đã không chịu tiến quân tiếp, tôi bèn bảo Nam: “Mày cứ ở đó đi để tao cho Chi Đoàn tao qua mặt.”
Tôi
ra lệnh cho Tr/u Kính tiến tiếp, qua mặt Chi Đoàn 3/20 CX, đồng thời ra
lệnh cho Chi Đoàn 2/17TK theo sau. Chi Đoàn 1/20CX của tôi và Chi Đoàn
2/17TK vừa qua mặt Chi Đoàn của Nam xong thì tôi cho lệnh tăng tốc. Trên
đường tiến quân, Tr/u Kinh báo cáo có rất nhiều giao thông hào phía
trước, nhưng tôi cho lệnh: “Thấy giao thông hào nào rộng thì lách ra mé nước để vượt qua, còn giao thông hào nào hẹp thì cho chiến xa cán qua luôn.”
Trời sáng dần và sương mù đã tan. Tr/u Kinh báo cáo đã nhìn thấy rõ cửa biển trước mặt. Tôi bảo; “Bây giờ mới đúng là Cửa Việt.”
Rồi cho lệnh toàn bộ Chi Đoàn cho chiến xa xoay về bên trái và nới rộng
khoảng cách chuyển thành hàng ngang để cho M.113 của Chi Đoàn của Đ/u
Cảnh tiến lên và xen kẻ. Tôi cũng bảo Nam và Chi Đoàn 3/18TK của Đ/u
Minh cũng dàn quân y như thế và bắt đầu tấn công hướng về căn cứ Cửa
Việt.
Đạn
địch từ phía trước bay đến như mưa, nhưng điều này cũng là chuyện bình
thường đối với một đơn vị xung kích như chiến xa. Toàn bộ 4 Chi Đoàn đã
tiến sâu vào đất địch được khoảng 400m thì tôi nghe Đ/u Minh, Chi Đoàn
trưởng 3/18TK, báo có chiến xa địch xuất hiện từ hướng trái, tức là
hướng Tây Nam của chúng tôi, từ trong rừng dương. Dĩ nhiên, M.113 không
thể chọi với Chiến xa của địch, dù có gắn đại bác không giật 106 ly (vì
việc sử dụng đại bác này không đơn giản như lý thuyết, vả lại xoay xở
rất chậm vì phải lệ thuộc vào hướng của xe). Tôi bảo Đ/u Nam theo dỏi để
bắn hạ.
Thật
ra thì đơn vị chiến xa của địch đang ở hướng nam từ trong làng mé ruộng
bung ra để chạy về hướng bắc là căn cứ Cửa Việt. Với địa thế mấp mô lồi
lỏm, nhắm canh chừng để bắn một mục tiêu di động không dễ chút nào, trừ
phi phải có những xa đội M.48 đã từng hạ chiến xa địch. Vì những chiến
xa của địch chạy rất nhanh nên Chi Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam đã không bắn
kịp. Nhưng Chi Đoàn của tôi, vì đang dàn hàng ngang xa về hướng bắc nên
tôi đã tức tốc ra lệnh cho Tr/u Kính chỉ huy Chi Đội đón bắn ngay (Tr/u
Kinh là một trong những sĩ-quan nổi tiếng bắn đại bác rất hay kể từ ngày
thành lập Thiết Đoàn20CX vì đã được Mỹ huấn luyện rất kỷ và thực tập
rất nhiều hồi ở căn cứ Ái-Tử. Với kinh nghiệm đã có, chính Tr/u Kính đã
đón đầu bắn hạ 2 chiếc nằm im tại chỗ, chiếc còn lại bị một xa đội của
Chi Đội 3/1/20CX bắn hạ. (Những gì xảy ra trước mắt tôi nên không thể
nào quên được).
Tôi
liếc nhìn đồng hồ, lúc này là 7:43. Phía địch bắt đầu ngưng bắn nên tôi
ra lệnh cho TQLC tùng thiết trên M.113 của Chi Đoàn 2/17TK và 3/18TK
nhảy xuống trước và bung ra phía trước cắm cờ, rồi bố trí, còn lính trên
chiến xa và M/113 thì nhảy xuống sau và tiếp tục cắm cờ phía trước,
cách chiến xa chừng 30m để phân ranh giới rồi lên chiến xa trở lại nạp
đạn chài (canister- loại đạn đại bác dùng để chống biển người) vào đại
bác để đề phòng. Chỉ trong thoáng chốc thì đồng hồ đã chi 7:57.
Không
còn tiếng súng nổ. Tôi nhảy xuống khỏi chiến xa chỉ huy và vào xe
truyền tin M.577 báo cáo thẳng về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC là đã chiếm được
Cửa Việt và đã cắm cờ, nhưng không thể tấn công vào căn cứ còn cách
chừng hơn 500m được vì đã đến giờ ngưng bắn. Tôi hỏi tiếp vị trí của các
cánh quân khác thì được biết cánh quân của TĐ2 và TĐ9 TQLC trong mé
ruộng chỉ tiến vượt qua khỏi Long Quang chừng 200m, như vậy là cách
chúng tôi khoảng 5km về hướng nam. Còn cánh quân của TĐ4 TQLC thì chỉ
đến được gần Bình An. Như vậy thì còn cách chúng tôi đến hơn 5km.
Ngay
lúc này, tôi nhìn ra biển thoáng thấy một chiếc L-20 đang bay lượn xa
trên biển và bắn 2 qủa rocket xuống biển. Tôi gọi BTL/SĐ/TQLC và hỏi thì
Đ/tá Trí bảo đó chỉ là bay ra để xác định chính xác vị trí đã chiếm
được mà thôi.
Tôi
cho Chiến xa chỉ huy của tôi cùng với chiếc M.577 truyền tin và chiếc
M.113 lùi lại cách mé nước biển chừng 40m, báo cho các Chi Đoàn vẫn lo
việc canh gác như thường lệ, rồi cho lính pha cà phê trong C-ration
(thùng lương khô) để uống và cho lo cơm nước.
Như
vậy, BCH/Chi Đoàn của tôi nằm xa nhất về hướng bắc. Lui về phía nam là
BCH/Chi Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh, cách nhau chửng 70m. Xa hơn chừng 100m
nữa về phía nam là BCH/Chi Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam + Chi Đoản 3/18TK
của Đ/u Minh + BCH/Thiết Đoàn 20CX của Th/tá Kiều cùng với Th/tá Tiền,
TĐP TĐ4 TQLC và Tr/u Hiếu, ĐĐT ĐĐ2/TĐ4 TQLC tùng thiết cho Chi Đoàn
3/18TK. Tôi bào Đ/u Nam phải cẩn thận đề phòng hướng nam vì chắc chắn
còn lực lượng địch trong những làng mà trước đó chúng tôi chỉ dùng tốc
độ càn lướt qua mà không tấn công.
Tóm
lại, chúng tôi chỉ có 2 mặt an toàn: phía biển Đông sau lưng và cửa
biển bên phải về hướng bắc. Còn 2 mặt tây và nam thì đều có địch. Nếu
cuộc chiến vẫn tiếp tục thì đường tiếp tế của chúng tôi đã bị chặn do
TQLC không tiến kịp để điền trám các mục tiêu dọc trục tiến quân.
Dù
sao thi Niềm Vui Hòa Bình đã đến, tức là không còn chiến tranh, không
còn bắn giết, không còn phải chiếm mục tiêu này, mục tiêu nọ, không còn
bị tấn công, không còn bị thương hay chết chóc, mà sẽ được cùng với
người thân, bạn bè thoải mái vui chơi trong những ngày nghỉ phép, vân
vân và vân vân… Tất cả đều được diễn đạt theo nhiều cách. Kẻ thì bộc lộ
quá mức bằng cách reo hò, kẻ thì thầm lặng, dấu kín trong lòng và chỉ
bộc lộ bằng nụ cười mỉm. Mùi thuốc súng chiến trường không còn lảng vảng
trong bầu trời trong sáng và êm ả của vùng biển…
Khoảng
10:15, Tr/u Kính báo có cấp chỉ huy của địch muốn vào gặp cấp chỉ huy
trận đánh này. Tôi gọi máy báo cho Th/tá Kiều, nhưng ông bảo là không
nên gặp. Tôi nói: “Nhưng bây giờ là Hòa Bình rồi thì có gì phải sợ chứ.” Ông trả lời: “Cậu muốn gặp thì gặp, nhưng phải cẩn thận.” Tôi bảo Tr/u Kính chỉ cho người đó và một lính truyền tin của ông ta vào mà thôi.
Khi
họ đến, tôi xuống khỏi chiến xa và đến gần anh ta (lớn hơn tôi chừng
hơn 10 tuổi), chưa kịp chào thì anh ta tự giới thiệu là Thiết Đoàn
trưởng của đơn vị đang ở tuyến đối đầu với tôi, và hỏi tiếp có phải tôi
là người chỉ huy cuộc tấn công này không. Tôi trả lời: Đúng như vậy. (Có
lẽ anh ta ngạc nhiên khi thấy bộ mặt non choẹt của tôi mà lại chỉ huy
một lực lượng lớn như thế. Còn hỏi tôi là người ở đâu. Tôi nói ở Huế.
Anh ta nói là đã vào trong Thành nội Huế trong vụ Tết Mậu Thân. Anh ta
tiếp tục hỏi tại sao tôi lại chiếm Cửa Việt. Vì đang trong tâm trạng vui
vẻ nên tôi trả lời là tôi rất thích nơi này vì tôi rất thích tắm biển,
nhất là nơi nào có cửa biển. Đặc biệt anh ta còn than phiền vì sao tôi
lại cho lệnh bắn 3 chiến xa của họ. Tôi nói: vì lúc đó vẫn chưa đến giờ
ngưng bắn. Tôi còn nói với anh ta nên cho vài người không được mang súng
vào rồi đi xuống hướng nam để đào các giao thông hào đã bị chiến xa cán
lướt xem ai còn sống thì mang về. Anh ta gật đầu và còn ngỏ ý mời tôi
vào BCH/Thiết Đoàn của anh ta chơi, đưa tay chỉ vào lùm dương cách vòng
đai bố trí của chúng tôi chừng 500m. Tôi chỉ ừ è cho có lệ. Sau đó thì
anh ta ra về. Tôi tà tà đi bộ dọc theo mé biển đến gặp Th/tá Kiều và kể
lại chuyện này cho ông nghe. Ông nhắc nhở tôi phải cẩn thận vì ý đồ của
anh ta có thể chỉ là vào để biết vị trí của BCH. Tôi chỉ nói: có thể là
như vậy, nhưng Hòa Bình rồi thì lo làm gì cho mệt chứ.
Đến
tối ngày 28/1/73, sau khi nhắc nhở toàn bộ 4 Chi Đoàn trực máy và lo
canh gác như thường lệ, thay vì ngủ trong xe M.577, tôi bảo lính căng
ghế bố nằm bên hông chiến xa cho mát, nghĩ rằng bây giờ đã đến lúc phải
hưởng một giấc ngủ êm ái nhất trong đời lính và hít thở không khí về đêm
của biển, nhất là sau 1 ngày và 1 đêm vất vả chiến đấu và không ngủ.
Trong
đời, thật chẳng ai biết được chữ ‘Ngờ’. Tôi đang ngủ say sưa thì bổng
nhiên những tiếng nổ thật lớn khiến tôi bừng giấc, đứng vọt dậy từ chiếc
ghế bố và phóng thật nhanh lên chiến xa chỉ huy, nhìn quanh, những
tiếng nổ và chớp lòe khắp nơi. Tôi biết chúng tôi đang bị pháo. Lúc này
tất cả đều đã vọt dậy phóng lên chiến xa và M.113. Tôi gọi các Chi Đoàn
thì tất cả cũng đã lên xe và nghe báo cáo đã có mấy anh em ở các Chi
Đoàn khác bị thương do bị pháo. Tôi ra lệnh tất cả sẵn sàng ứng phó, vì
theo kinh nghiệm, địch có thể sẽ tấn công sau những đợt pháo.
Tôi
nhìn đồng hồ: 23:25 (ngày 28/1/73). Như vậy là mình bị pháo lúc khoảng
23:10. Lo thì cũng có lo, nhưng đạn pháo thì giống như “Trời kêu ai nấy dạ” (câu chúng tôi thường đùa với nhau khi bị pháo, vì không sao né tránh gì được). Tôi tự hỏi: “Hòa Bình rồi thì tại sao chúng nó vẫn còn pháo mình. Như vậy là vi phạm Hiệp Định rồi còn gì!”
Trên hệ thống truyền tin, tôi không nghe Th/tá Kiều lên tiếng gì cả bèn
chuyển qua hệ thống của BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cáo cũng như nêu
thắc mắc của tôi: “Hiện chúng tôi
đang chịu những cơn mưa rất nặng hạt (bị pháo dữ dội). Như vậy là sao?
Nếu chúng tấn công thì chúng tôi có được phép nổ súng không? Và điều này
rất có thể xảy ra. Và thế thì mình có vi phạm Hiệp Định Paris không?”
Ngay lúc này Tr/u Kính và Th/u Thăng báo lả đã thấy địch lố nhố phía
trước nhờ ánh sáng của những lằn chớp của đạn pháo nổ. Tôi hỏi: “Cách xa bao nhiêu?” Tr/u Kinh nói: “Chừng 70m. Có bắn không, Hồng Nhạn?” Như vậy là cách tuyến của TQLC tùng thiết chừng 40m. Với phản ứng cấp thời, tôi nói: “Chưa nhận được lệnh. Nhưng nếu chúng nó tiến gần trong khoảng 50m thì phải nổ súng.” Lúc này Đ/tá Trí gọi máy và báo: “Nếu chúng nó tấn công và nổ súng trước thì phải chống trả”.
Trời đất! Nếu chúng nó cứ ào ào tiến vào mà không nổ súng thì tính sao
đây! Tôi biết tại BTL/Hành Quân/SĐ/TQLC, ai cũng có thể nghe và thấy
được những tia chớp do đạn pháo nổ vì chỉ cách chúng tôi chừng hơn 8Km,
vả lại đang là ban đêm, nhưng không biết rõ là do pháo hay do 2 bên đang
giao chiến. Đây là lúc không cần và cũng không có thời gian để suy nghĩ
vớ vẫn về Hòa Bình, về Hiệp Định Paris nữa, mà phải tùy cơ ứng biến
thôi. Tôi báo cho Đ/u Nam (3/20CX) và Đ/u Minh (3/18TK) biết tình hình
địch phía bên tôi và hỏi tình hình bên đó thì biết là không có dấu hiệu
địch hoạt động trước tuyến. Tuy vậy tôi vẫn bảo Nam và Minh phải cẩn
thận quan sát. Đồng thời tôi cũng báo cho Tr/u Công (TQLC tùng thiết) là
chỉ được nổ súng khi địch nổ súng tấn công trước. Tôi cũng thầm nghĩ:
Chắc địch muốn tấn công vào tuyến phòng thủ của tôi trước vì là tuyến
đầu nằm xa nhất về hướng bắc và còn ngay trước căn cứ Cửa Việt.
Tôi
gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và yêu cầu cho Pháo binh chuẩn bị để phản
pháo vào những tọa độ tôi sẽ cung cấp, hy vọng địch sẽ vì thế mà giảm
bớt cường độ pháo. Nhưng Đ/tá Trí bảo là không được. Tôi chẳng biết nói
sao. Có lẽ ai cũng sợ vi phạm Hiệp Định và nếu thế thì số phận tương lai
của cấp ra lệnh sẽ ra sao nếu bị kết tội. Pháo của địch vẫn dồn dập đủ
loại vào vị trí của các Chi Đoàn, ngoài loại 130 ly, còn có cả cối 82
ly. Cũng may chẳng có qủa nào rơi ngay trên Chiến xa M.48 hay M.113.
Tôi
nhìn đồng hồ: đã là gần 5:00 ngày 29/1/73. Thời gian trôi thật nhanh
khi người ta không cần để ý đến nó. Tôi mừng thầm và mong cho trời sáng
nhanh hơn. Như vậy mới dễ quan sát và xoay xở hơn. Bổng Tr/u Công gọi
máy báo địch chỉ còn cách tuyến của TQLC chừng hơn 10m. Tiếp là Tr/u
Kính cũng báo địch đang tiến đến gần hơn nhưng lại không nổ súng. Không
thể chần chừ được nữa, tôi bảo Tr/u Công cho lệnh TQLC bò lui về ngang
với các Chiến xa M.48 ngay. Chỉ 3 phút sau, tôi bảo Tr/u Kinh và Th/u
Thăng ra lệnh cho các xa đội bắn đạn chài và mỗi xe chỉ cần bắn 1 hay 2
qủa tùy phản ứng của địch. Một loạt đạn chài từ các các đại bác chớp
sáng liền nhau. Tr/u Kính và Th/u Thăng lần lượt báo địch đã im lìm,
không còn thấy lố nhố nữa. Tôi bảo: “Phải quan sát liên tục và cẩn thận hơn, vì chỉ còn chừng 1 giờ nữa là trời sáng rồi thì tụi nó chẳng dám tấn công đâu.”
Cũng chừng hơn 5 phút sau thì Tr/u Kính báo đã quan sát thấy địch lại
lố nhố nhưng hình như là đang tải thương vì chúng đang lùi lại. Tôi nói:
“Thế thì tốt!” Nhưng vẫn thầm lo
không biết mình cho lệnh bắn như thế có vi phạm Hiệp định không. Mặc
kệ! Với tình hình hiện tại, lo nghĩ vẫn vơ cũng vô ích. Phải tự cứu mình
trước thôi! Không thể để “nước đến trôn mới nhảy”, như người xưa đã
nói.
Địch
vẫn pháo khắp vị trí của các đơn vị TG, nhưng vì lính TG đều ở trong
chiến xa và M/113, và chỉ quan sát bằng tiềm vọng kính nên không bị gì.
Còn TQLC thì đang ở gần sát với địch nên pháo hầu như không rơi nhiều ở
tuyến này.
Trời
bắt đầu sáng dần. Tôi nhìn đồng hồ: bây giờ là 6:30. Sương mù đã tan
gần hết nên tầm quan sát xa và tốt hơn. Tôi cũng tạm thời yên lòng. Tôi
gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cho biết những gì đã xảy ra trong đêm
và hỏi xem có lệnh gì mới không thì Đ/tá Trí nói: “Tạm thời thì phải cố thủ. Sẽ có lệnh sau.”
Một
điều đặc biệt là các đơn vị Pháo binh yểm trợ cho cuộc Hành Quân Tango
hoàn toàn không phản pháo yểm trợ một viên đạn nào, ngoại trừ thời gian
trước khi Cánh A của tôi bắt đầu xuất phát rồi thì ngưng luôn từ đó.
Mặt
trời đã lên khá cao. Bây giờ là 8:05. Pháo địch bổng nhiên nổ thưa dần,
rồi lâu lâu mới bay vào nổ 1, 2 qủa. Lính TG lợi dụng lúc này nhảy ra
khỏi xe nấu nước sôi đổ cơm sấy, còn tôi thì chỉ cần cà phê nóng.
Đến khoảng 8:35 thì pháo địch ngưng hẳn. Tất cả chúng tôi đều thở phào nhẹ nhỏm. Tôi gọi máy cho Đ/u Cảnh, Nam và Minh và nói: “Có lẽ đã có sự can thiệp của mấy ông lớn về Hiệp Định Paris rồi nên tụi nó mới chịu ngưng pháo. Nhưng phải luôn cẩn thận đấy!” Tôi cũng gọi báo cho Đ/tá Trí về việc này.
Đến
khoảng 9:15, sau khi nhắp hết cà phê được pha trong chiếc lon bằng
thiếc trong xe M.577, tôi mồi điếu thuốc và hít vài hơi sảng khoái thì
bổng nghe một tiếng nổ lớn trên tuyến và Tr/u Kính gọi báo 1 chiến xa
M.48 của Chi Đội 3/1/20CX đã bị trúng đan SS-11 (loại hỏa tiển chống
chiến xa gọi là hỏa tiển địa-địa – surface-to-surface – và Chi Đoàn
chúng tôi đã từng bị bắn trong những cuộc hành quân với Nhảy Dù trước
đó). Tôi vọt ra khỏi M.577 và phóng lên chiến xa chỉ huy của tôi, ra
lệnh cho Tr/u Kính và Th/u Thăng cho lệnh từng xa đội xả đại liên 30 ly
M.73 song hành về phía địch nhưng chỉ cầm chừng vì phải tiết kiệm đạn
sau khi đã sử dụng nhiều trên đường tiến quân. Th/u Thăng nói là không
thấy địch, nhưng tôi bảo vẫn cứ bắn vì chúng đều ở trong hầm và giao
thông hào nên mình không thấy được và phải bắn từng loạt để chúng không
thể ngóc đầu lên để bắn mình. Tôi gọi luôn cho Đ/u Cảnh dùng đại liên 50
ly trên M.113 để bắn cầm chừng (vì vùng tác xạ hẹp hơn do xen kẻ và hơi
thụt về phía sau các chiến xa.) Tr/u Kinh báo cáo toàn xa đội của chiến
xa đã bị bắn đều bị thương: 1 nặng, 3 nhẹ. Tôi ra lệnh cho M.113 chỉ
huy khiêng thi thể của HS Thìn (tài xế chiến xa của tôi đã chết trong
đêm tiến quân) đặt xuống cát rồi chạy lên đến phía sau chiến xa bị bắn
để cho y tá băng bó và báo cáo tình trạng bị thương. Tôi gọi cho Đ/u Nam
và Đ/u Minh báo tình trạng này và nhắc nhở đề phòng.
Y
tá báo 3 BS bi thương nhẹ còn tác chiến được, còn 1 BS bị ở chân nặng
phải chở về. Tôi cho lệnh chỉ chở BS bị nặng về theo M.113. Vừa nói xong
thì 1 chiến xa khác cũng bị trúng SS-11 và lại được báo cáo thêm 2 BS
bị thương: 1 ở vai và 1 ở tay. Tôi cho lệnh y tá ở lại băng bó tiếp.
Rồi
đến 1 chiến xa của Chi Đoàn 3/20CX nằm giáp với tuyến của tôi cũng bị
bắn. Đ/u Nam báo với tôi và tôi trả lời là tôi đã thấy rồi. Và tiếp đến
thì pháo 130 ly lại của địch bắt đầu rơi nổ khắp nơi trên các vị trí của
TG.
Lúc
này đã là khoảng 11:00. Tôi thấy tình trạng này không ổn chút nào, vì
địch chỉ muốn diệt các chiến xa M.48 trước bằng SS-11 vì là những hung
thần chúng rợn nhất. Mà các chiến xa hiện giờ chỉ còn là những mục tiêu
cố định nên rất dễ bị bắn, dù tôi đã cho các đại liên bắn cầm chừng để
ngăn chặn vì còn phải giữ lại một số đan dược cho tình huống khẩn cấp có
thể xảy ra trong khi chưa có tiếp tế.
Tôi gọi thẳng về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC báo tình trạng này để xin được tiếp tế và tải thương. Đ/tá Trí nói: “Tôi
đã biết tình trạng hiện giờ tại đó vì luôn theo dỏi hệ thống nội bộ của
các Chi Đoàn và BCH/Thiết Đoàn 20CX kể từ lúc rời tuyến xuất phát.
Nhưng giá nào anh cũng phải cố giữ vững tuyến. Sẽ có quân tăng cường.” Hy vọng lại nhen nhúm trong tôi. Tôi gọi báo cho các Chi Đoàn biết tin này.
Pháo
địch không còn liên tục như trước mà chỉ pháo từng đợt vào những giờ
giấc không đoán trước được. Điều này sẽ không có lợi cho quân mình vì
lính thường lợi dụng những lúc pháo địch ngưng để nhảy ra khỏi xe để nấu
nướng hay cho những nhu cầu cá nhân cần thiết rồi không kịp nhảy vào xe
trước khi pháo địch rơi xuống.
Tôi
lại nhìn vào đồng hồ. Lúc này đã là gần 15:00 giờ. Tôi bảo lính pha cho
tôi 1 xuất cà phê nữa và nhâm nhi cùng với những điếu thuốc nối đuôi.
Đây đã là “lon cà phê” thứ 3 trong ngày 29/1/73 rồi. Lòng tôi cứ thấp
thỏm chờ đợi tin tốt lành từ BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC, chốc chốc lại nhảy
vào chiến xa để quan sát tình hình phía trước, rồi lại nhảy xuống vào
M.577 nhâm nhi cà phê tiếp. Lính đưa cơm sấy và thức ăn khô đến nhưng
tôi chẳng còn bụng dạ nào để ăn được.
Đến khoảng 16:30 thì nghe Th/tá Kiều gọi và báo tin: “BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC
đã dự trù tăng cường 2 lần 2 râu (2 tiểu đoàn) cho chúng ta, nhưng vì
biển hơi động nên không thể nào đổ bộ vào vị trí của chúng ta được. Tuy
nhiên họ đang tính một kế hoạch khác.” Tôi nhìn ra biển, nói: “Có thấy tãm hơi chiếc tàu nào đâu. Biển như thế này mà gọi là hơi động sao?” Th/tá Kiều trả lời: “Họ nói như vậy thôi.”
Dĩ nhiên, trên hệ thống này thì các Chi Đoàn đều nghe được như thế. Thế
là hết! Hy vọng đã biến thành thất vọng. Tôi tự hỏi: “Họ đang cố an ủi mình chăng?”
Những suy nghĩ miên man của tôi lại bị ngắt Quảng bởi một đợt pháo khác
của địch. Tôi lại phóng lên chiến xa chỉ huy của mình, tiếp tục quan
sát toàn bộ tình hình.
Trời
đã ngả màu hoàng hôn. Lúc này đã gần 18:00 giờ. Tôi gọi máy nhắc nhở
các Chi Đoàn và Đ/Đội/TQLC tùng thiết lo việc canh phòng cẩn mật. Để đề
phòng địch có thể tấn công vào ban đêm, tôi dặn dò các Chi Đoàn trưởng: “Hảy
cẩn thận đề phòng vì địch có thể dùng pháo, rồi đến đặc công, sau đó
mới tấn công. Vì thế các chiến xa M.48 phải thay phiên sử dụng Hồng
ngoại tuyến dùng để bắn đại bác trên xe để quan sát, nhưng chỉ trong
vòng vài phút thôi, nếu không thì các bình điện sẽ không còn đủ cung cấp
để nổ máy chiến xa cũng như để điều khiển hệ thống tác xạ bằng điện
được. Tất cả đều phải thức suốt đêm để phản ứng cho kịp thời.”
(Trong
thời gian thành lập Thiết Đoàn 20CX ở Ái-Tử, mỗi chiến xa M.48 đều được
trang bị ống nhòm Hồng ngoại tuyến để cho các trưởng xa quan sát vào
ban đêm. Nhưng sau khi mất Quảng-Trị và Thiết Đoàn được tái thành lập ở
Phú Bài – Huế để Tái chiếm Quảng-Trị thì các chiến xa không còn được
trang bị loại ống nhòm này cũng như không còn Cố vấn Mỹ nữa).
Màn
đêm đã buông xuống. Trong bóng đêm, chỉ có những khoảng trống có cát là
vẫn sáng mờ. Còn nhìn vào hướng tây thì chỉ thấy một lằn đen kịt lô nhô
tiếp giáp với chân trời xanh đen.
Pháo
địch vẫn chỉ còn rơi lác đác, có lúc ngưng hẳn, rồi lại tiếp tục nhưng
cường độ không cao. Tất cả chúng tôi đều không dám ngủ, chỉ chợp mắt vài
phút do mệt mỏi. Những lo lắng của tôi (và cũng của tất cả) vì thế lại
cứ chồng chất vì chưa nghĩ ra được cách nào đối phó với tình huống hoàn
toàn nằm trong thế bị động này.
Từng
giờ phút nối tiếp trôi qua. Cứ khoảng chừng 30 phút, tôi lại gọi các
Chi Đội của tôi cũng như các Chi Đoàn để nhắc nhở, đồng thời cũng để
kiểm tra sự cảnh giác của họ. Pháo thì vẫn pháo, lo thì cứ lo, nhưng có
lẽ có lúc tôi đã thiếp đi trong một giấc ngủ ngắn. Chỉ chắc chắn một
điều là vào ban đêm thì địch chẳng thấy được chiến xa để bắn AT-3, SS-11
hay B-41.
Dần
dần, bóng đêm nhường chỗ cho ánh sáng yếu ớt của ban mai. Tôi thức dậy
bảo lính pha cà phê và lợi dụng thời gian ngưng pháo của địch để nấu
nước sôi đổ vào cơm sấy. Từ trên Chiến xa chỉ huy, tôi quan sát khắp nơi
và thấy lính của từng chiến xa M.48 và M.113 phóng lên rồi nhảy xuống
xe của họ trong lúc nấu nước để đề phòng pháo bất ngờ rơi xuống. Điều
này không thể nào tránh được. Ông bà mình thường nói: “Dỉ thực vi tiên” thật không sai chút nào. Ai biết được cuộc chiến sẽ như thế nào và sẽ kéo dài bao lâu nữa.
Tôi
lại nhảy xuống khỏi chiến xa, ngồi ở xe M.577 để theo dỏi báo cáo trên
máy và vừa nhắp cà phê, vừa hút thuốc, mắt nhìn đồng hồ đeo tay.
Phút
chốc mà đã 7:50 ngày 30/1/73. Tôi tiếp tục suy nghĩ xem phải làm thế
nào để thay đổi tình thế này. Thế rồi càng suy nghĩ lại càng lo, cứ thắc
mắc hoài: “Không tiếp tế, không tải
thương, rồi lại không có Pháo binh, Không quân yểm trợ. Như vậy là sao?
Không lẽ họ bỏ rơi toàn bộ anh em mình?” Biết hỏi ai đây! Vì không
thể gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC để lý lẽ với Đ/tá Trí. Biết đâu ông ấy
cũng đang rối trí vì đến lúc này vẫn không có chỉ thị gì từ BTL/QĐ1 hay
cấp cao hơn.
Đến
khoảng 9:20, trong lúc tôi đang ở xe M.577 và nhân viên trong chiến xa
chỉ huy đang ở bên ngoài xe để ăn cơm thì một tiếng xẹt kèm theo một
tiếng nổ lớn. Tôi ngoái nhìn thì thấy chiến xa M.48 chỉ huy của tôi đang
bốc khói từ trong pháo tháp. Trên máy, tôi nghe tiếng nói của Đ/u Nam: “Xe của Hồng Nhạn bị bắn cháy rồi, chắc Hồng Nhạn đã tiêu rồi.” Tôi bèn chộp ống nói và lên tiếng ngay: “Tao vẫn còn đây. Hảy bình tỉnh!”
Tôi nhìn kỷ lại chiến xa của mình thì 2 cần ăn ten đã bị đứt cụt và
khói vẫn tỏa ra nhưng không còn dày đặc như trước. Tr/u Kính và Th/u
Thăng cũng gọi về hỏi và tôi nói sẽ kiểm soát lại và cho biết tình hình
sau. Còn dặn dò họ phải cẩn thận hơn vì xe tôi đã bị SS-11.
Ngay
lúc này, tôi đột nhiên cảm thấy sợ hãi khi một ý nghĩ dị đoan lẽn vào
đầu óc: anten của máy truyền tin là linh hồn của đơn vị, hay nói đúng
hơn là đơn vị trưởng. Nếu anten bị gảy hay đứt thì đơn vị trưởng cũng sẽ
bị tiêu đời. Tôi tự hỏi: Không lẽ ngày 28/1 là sinh nhật của mình cũng
là điềm gở báo trước ngày tử của mình sao? (tôi sinh vào ngày 28/1). Rồi
tôi nhớ lại một người bạn đã nói: “Đã nói là dị đoan thì nếu tin thì có mà không tin thì sẽ không có.” Do đó tôi cố gạt ý tưởng dị đoan này, nhưng thật không dễ chút nào.
Chứng
10 phút sau, bổng HS Thẩm đến đưa cho tôi xem đoạn dây màu trắng nhỏ
xíu nhặt được từ phía trước chiến xa của tôi. Tôi nói: “Đây là dây điều khiển của loại Hỏa tiển chống chiến xa SS-11.” HS Thẩm lại nhảy vào trong chiến xa một lúc rôi nhảy xuống và nói: “Pháo
tháp xe đã bị thủng và lỏi hỏa tiển đã xuyên vào 2 máy truyền tin
VRC-46 và VRC-47 nên cả 2 máy đều bị cháy mới bốc khói như vậy.” Tôi
bảo kiểm tra ‘núm điện chính’ (Power switch) của bảng điều khiển trước
mặt tài xế thì HS Thẩm nói là vẫn còn hoạt động. Tôi nói: “Như vậy là xe vẫn còn nổ máy được.”
Và bảo lính gở thêm 1 máy PRC-25 trong M.577 ra khỏi giá khung và đặt
vào khoang tài xế chiến xa để cho tài xế sử dụng khi cần.
Như
vậy, lúc này địch đã dùng hỏa tiển chống chiến xa điều khiển từ xa để
diệt các cấp chỉ huy khiến cho các Chi Đoàn trưởng lo lắng hơn. Tình
hình càng lúc có vẻ càng nguy ngập nhưng tôi vẫn không báo cáo về cho
BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC vì biết Đ/tá Trí luôn theo dỏi trên các hệ thống
chỉ huy của các Chi Đoàn và Thiết Đoàn20CX.
Khoảng
10:10, trên hệ thống nội bộ của Chi Đoàn tôi bổng có tiếng gọi Hồng
Nhạn (danh hiệu của tôi) nhưng nghe giọng nói có vẻ khác lạ. Tôi cầm máy
trả lời thì mới biết đó là tiếng của Đ/u Tạ-quang-Trung báo Chi Đoàn
1/17CX M.41 của anh ta đang tiến gần đến vị trí của chúng tôi, mang theo
lương thực tiếp tế. Tôi liền báo cho các Chi Đoàn biết để thông báo cho
TQLC tùng thiết. Tôi gọi tiếp Đ/u Trung và hỏi trên đường đi có gì
không và Trung nói chỉ gặp vài loạt súng lẽ tẻ thôi nên Chi Đoàn vô sự.
Tôi hỏi có tùng thiết không thì Trung bảo là có 1 râu (1 đại đội TQLC)
đó là ĐĐ2/TĐ2 TQLC của Tr/u Từ đức-Thọ
Khoảng
10:20, chiếc M.41 đầu tiên đến gần vị trí tận cùng phía nam của chúng
tôi. Một đợt pháo nữa của địch, toàn là loại 130 ly, lại bắt đầu rơi
xuống các vị trí. Tôi gọi và bảo Đ/u Trung cứ bình tỉnh tiếp tục cho Chi
Đoàn M.41 bố trí xen kẻ và nối thêm vào khoảng trống còn lại, quay đầu
xe bố trí về hướng nam, còn BCH/Chi Đoàn 1/17CX thì tiến thẳng về hướng
bắc đến gần BCH/Chi Đoàn 2/17TK và nằm ở đó. Tôi cũng báo cho các Chi
Đoàn cho anh em từng đợt đến nhận lương thực tiếp tế.
Dù
muốn dù không, có thêm lực lượng tăng cường cũng khiến cho anh em vững
tâm hơn. Nhưng tôi thì lại nghĩ khác: phòng tuyến vẫn rất vững vàng,
địch không dám tấn công mà chỉ dùng pháo và súng chống chiến xa để làm
tiêu hao quân mình, như vậy thì việc tăng cường lực lượng TG để phòng
thủ có lẽ không có lợi lắm.
Như vậy, lực lượng TG đang cố thủ tại Cửa Việt kể từ 11:15 trưa ngày 30/1/73 gồm:
– Chi Đoàn 1/20CX gồm 12 CX M.48 + M.113 + M.577: 14 chiếc
– Chi Đoàn 3/20CX gồm 12 CX M.48 + M.113: 13 chiếc
– Chi Đoàn 1/17CX gồm 15 M.41 + M.113: 16 chiếc
– Chi Đoàn 2/17TK gồm 22 M.113: 22 chiếc
– Chi Đoàn 3/18TK gồm 21 M.113: 21 chiếc
– BCH/Thiết Đoàn 20CX gồm 5 M.113 + 2 M.48: 07 chiếc
Tổng cộng: 93 chiếc
Và Lực lượng TQLC gồm:
– ĐĐ4/TĐ2 của Tr/u Trần-đình-Công tăng phái cho Đ/u Xứng
– ĐĐ3/TĐ4 của Tr/u Mai-văn-Hiếu tăng phái cho Đ/u Nam
– ĐĐ2/TĐ2 của Tr/u Từ-đức-Thọ tăng phái cho Đ/u Trung
Tổng cộng : khoảng 200 người.
– Chi Đoàn 3/20CX gồm 12 CX M.48 + M.113: 13 chiếc
– Chi Đoàn 1/17CX gồm 15 M.41 + M.113: 16 chiếc
– Chi Đoàn 2/17TK gồm 22 M.113: 22 chiếc
– Chi Đoàn 3/18TK gồm 21 M.113: 21 chiếc
– BCH/Thiết Đoàn 20CX gồm 5 M.113 + 2 M.48: 07 chiếc
Tổng cộng: 93 chiếc
Và Lực lượng TQLC gồm:
– ĐĐ4/TĐ2 của Tr/u Trần-đình-Công tăng phái cho Đ/u Xứng
– ĐĐ3/TĐ4 của Tr/u Mai-văn-Hiếu tăng phái cho Đ/u Nam
– ĐĐ2/TĐ2 của Tr/u Từ-đức-Thọ tăng phái cho Đ/u Trung
Tổng cộng : khoảng 200 người.
Khoảng
11:00, Đ/u Trung gọi máy báo cho tôi và các Chi Đoàn trưởng khác đến
M.113 của anh để lai rai vì có mang theo nhiều thức ăn đang chuẩn bị cho
Tết. Chờ pháo địch ngưng rơi, chúng tôi chạy đến phóng vào xe M.113 của
Trung, cùng nhau uống bia và ăn. Đã 1 ngày 1 đêm tôi chỉ uống cà phê và
ăn bánh trong thùng lương khô, không thể nào nuốt nổi một muổng cơm sấy
nào do vừa mệt vừa lo. Giờ lại có thức ăn tươi và anh em đầy đủ tôi mới
ăn được mấy miếng. Th/tá Kiều và Th/tá Tiền không đến. Sau khi ăn xong,
tôi dặn dò các Chi Đoàn trưởng và các Đại Đội trưởng TQLC: “Anh
em phải rất cẩn thận và cố giữ vững tuyến. Với tình hình này, tôi sẽ
báo cho Th/tá Kiều gọi xin lệnh rút quân và tôi cũng sẽ gọi thẳng về
Đ/tá Trí xin lệnh rút. Đây là lúc tinh thần anh em BS không còn vững và
ngay chúng mình cũng vậy. Tuy nhiên không ai trong chúng ta muốn trở
thành một Phạm-văn-Đính thứ hai (Tr/tá Tr/Đoàn trưởng Tr/Đoàn 56/BB đã
đầu hàng địch tại Carroll năm 1971). Còn nếu tự ý rút quân thì sẽ bị ra
Tòa án quân sự và thế là ‘thân bại danh liệt’ đó! Một điều rất quan
trọng là: tất cả Chiến xa và M.113 tuyệt đối không được nổ máy xe, vì
nếu chỉ có một xe nổ máy thì toàn bộ sẽ nghĩ là ‘bỏ chạy’ và sẽ chạy
theo.”
Khoảng
25 phút sau, chúng tôi đều trở về BCH/Chi Đoàn của mình. Tôi gọi và nói
với Th/tá Kiều liên lạc với BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC xin lệnh rút quân vì
nếu tiếp tục ở trong tình trạng bị động như thế này thì sớm muộn cũng
chỉ bị thiệt hại thêm mà thôi. Và ông Kiều trả lời là sẽ gọi.
Từ
khoảng 12:00 giờ đến gần 14:00 giờ ngày 30/1/73, pháo địch lại ngưng
hẳn và cũng không nghe các Chi Đoàn báo cáo bị hỏa tiển chống chiến xa.
Tôi lại bảo lính pha cho tôi cà phê và vừa nhắp cà phê vừa phì phà
thuốc, suy nghĩ: Ý nghĩ đầu tiên khá lạc quan, tức là, có lẽ mấy ông lớn
đã thỏa thuận với nhau để xác định giá trị của Hiệp Định Paris nên ra
lệnh cho tụi nó ngưng bắn. Như vậy là quá tốt! Rồi ý nghĩ thứ hai lại
xen vào: biết đâu tụi nó đang dự trù một kế hoạch tấn công khác dử dội
hơn hay đang cần thời gian để chuyển quân đến thêm hay đang vận chuyển
thêm loại súng chống chiến xa để diệt Chiến xa và M.113 đang cố thủ và
là mục tiêu cố định cho chúng nhắm bắn. Và chính ý nghĩ thứ hai này đã
khiến tôi càng lo lắng hơn, nhưng cũng vẫn không kiếm ra cách giải
quyết.
Chiến
trường vẫn tiếp tục yên lắng. Ý nghĩ lạc quan của tôi chiếm chỗ của ý
nghĩ bi quan và tiếp tục dâng tràn. Không lẽ mình đoán thế mà lại đúng
sao? Tôi gọi BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cáo tình hình và hỏi xem có tin
tức gì mới không, nhưng Đ/tá Trí nói là không có gì, còn nhắc nhở tôi
cẩn thận cố giữ tuyến. Có lẽ Th/tá Kiều vẫn chưa liên lạc với Đ/tá Trí
do tình hình im lắng của chiến trường trong mấy giờ liên tục.
Đến
khoảng 15:05, bổng có một tiếng nổ lớn từ trên tuyến của Chi Đội M.48
của Th/u Thăng và tôi nghe ông báo là 1 CX đã bị bắn bằng AT-3, tiếp đến
là pháo 130 ly của địch rơi dày đặc và dử dội trên toàn vị trí của
chúng tôi. Tôi bảo Th/u Thăng báo cho tôi biết chi tiết, nhưng ông bảo
là không còn liên lạc được. Như vậy là hệ thống điện của CX đã bị bắn
hỏng. Tôi ra lệnh cho Tr/u Kinh và Th/u Thăng cho dùng Đại liên 30 ly
M.73 song hành bắn quét rộng phía trước rồi cho M.113 chỉ huy chở y tá
phóng lên chỗ chiến xa bị bắn dưới cơn mưa pháo của địch. Chứng 10 phút
sau mới nghe báo cáo toàn bộ nhân viên xa đội 4 người đều bị thương, kẻ ở
chân, kẻ ở tay. Chiến xa này đã bị tê liệt toàn bộ hệ thống điện. Tôi
ra lệnh: “Nhân viên nào trong xa đội
còn leo lên chiến xa được thì dùng cuộn dây mang theo leo vào xe, cột
chặt vào cần cò tay của đại bác rồi thả lần dây ra khỏi pháo tháp, kéo
xuống phía sau chiến xa. Sau đó tất cả đều nằm vào dưới lườn chiến xa để
tiếp tục quan sát phía trước. Chờ khi nào địch tấn công thì giật kéo
dây cò bắn đạn chài đã nạp sẵn. Rồi leo lên nạp đạn tiếp và nhảy xuống.
Như vậy thì an toàn hơn.” Chỉ phải như vậy thôi, vì không có nhân
viên thay thế. Tôi bảo Th/u Thăng ra lệnh cho các xa đội bên phải và bên
trái chú ý yểm trợ cho chiến xa đó.
Với
tình hình hiện tại, một lần nữa tôi lại phải nhắc nhở các Chi Đoàn bắn
đại liên 30 và 50 ly rà quyết cầm chừng phía trước. (Không thể sử dụng
đại bác khi không nhìn thấy mục tiêu phù hợp).
Bây
giờ đã là gần 17:00 giờ, cũng gần hết ngày 30/1. Như vậy, chúng tôi đã
chịu pháo và đạn chống chiến xa của địch 2 ngày và gần 2 đêm rồi. Riêng
Chi Đoàn của tôi bị tổn thất nhiều nhất do địch đặt trọng tâm vào đơn vị
nằm ở tuyến đầu, xa nhất về hướng bắc. Và đã có 4 CX M.48 bị bắn AT-3
và SS-11 (2 của Chi Đội 3/1/20CX + 1 của Chi Đội 1/3/20CX + chiến xa của
tôi). Có 9 HSQ và BS bị thương (1 nặng + 8 nhẹ -vẫn còn chiến đầu trên
tuyến. Chưa nói đến thi thể của HS Thìn – tài xế chiến xa của xe tôi
chết trong đêm tiến quân ra Cửa Việt)). Điều đặc biệt là không có M.48
hay M.113 nào bị cháy do bị bắn (chỉ không còn nổ máy hay liên lạc được
nữa mà thôi). Nhờ vậy mà tinh thần anh em cũng không bị sa sút nhiều.
Lúc
này tôi không muốn gọi các Chi Đoàn báo cáo tổn thất vì nếu làm thế sẽ
gây hoang mang và lo lắng thêm cho tất cả. Tôi lại gọi cho Th/tá Kiều
nhắc ông xin lệnh rút lui, nhưng hình như ông không dám. Còn tôi thì vẫn
còn do dự. Giá nào thì trời cũng sắp tối và như thế thì bớt bị đạn
chống chiến xa hơn. Còn pháo địch thì như ‘cơm bữa’ rồi, lo lắng cũng vô
ích. Tr/u Kính và Th/u Thăng thỉnh thoảng lại gọi tôi hỏi xem có lệnh
gì khác không. Tôi đã đoán biết tâm trạng của họ, nhưng chỉ bảo họ cố
gắng giữ tuyến, hy vọng tình hình sẽ chuyển biến tốt. Phải nói như vậy
thôi, trong khi tâm trạng của tôi không tốt chút nào và tôi nghĩ rằng
tất cả anh em các cấp cũng thế hoặc còn nản hơn.
Rồi
màn đêm lại buông xuống. Một đêm nữa sắp đến và tất cả sẽ ra sao đây!
Như một thói quen của một người lính đã từng lăn lộn trên chiến trường
của vùng Hỏa tuyến, tôi lại gọi nhắc nhở các Chi Đoàn cẩn thận và chịu
khó thức để kịp đối phó ý đồ của địch. Cũng may, với chiến xa M.48,
nguồn năng lượng của 6 bình điện trong xe tương đối dồi dào, có thể đã
chịu nổi 2 ngày và gần 2 đêm mà hao hụt không nhiều, vì các máy truyền
tin và hệ thống tác xạ đại bác cũng như đại liên 30 ly M.73 song hành
đều cần có điện mới sử dụng nhanh được (dĩ nhiên là vẫn có thể sử dụng
các loại súng bằng tay, nhưng máy tuyền tin thì không được). Ngoài ra,
vào ban đêm thì phải dùng Hồng ngoại tuyến trên xe để quan sát. Rồi đạn
dược dành cho đại liên 30 và 50 ly thì cũng đã gần cạn kiệt, dù các đạn
đại bác vẫn còn, nhưng đạn chài (canister) chống biển người thì số lượng
cũng hạn chế thôi. Hết lo cái này đến lo cái nọ để tìm cách giải quyết
dự phòng! Có lẽ nhờ thế mà tôi không còn suy nghĩ vẫn vơ khiến mình lo
lắng, sợ hãi.
Tôi
nằm nghỉ trên xe M.577, tai luôn lắng nghe những động tỉnh trên các hệ
thống truyền tin. Đến khoảng 21:00 giờ thì Tr/u Kinh và Th/u Thăng báo
thấy địch dàn hàng ngang chuẩn bị tấn công chúng tôi, khoảng cách chừng
70m. Tiếp đến thì Đ/u Nam cũng báo cáo như thế. Tôi nhỏm dây ra lệnh cho
Tr/u Công cho lính TQLC bò về ngang với chiến xa để cho chúng tôi đối
phó. Tôi bảo Đ/u Nam cũng làm y như thế. Riêng Chi Đoàn 1/17CX M.41 thì
không bị như thế vì đang phòng thủ về hướng nam. Còn Chi Đoàn 2/17TK và
3/18TK cũng chuẩn bị.
Tr/u
Kính lại báo thêm là địch chỉ còn cách từ 40 đến 50m thôi, cứ tiến gần
chúng tôi nhưng lại không nổ súng. Không cần suy nghĩ, tôi ra lệnh: “Nếu tụi nó đến gần trong khoảng 40m thì bắn đạn chài ngay, tiếp đến là sử dụng các loại súng đại liên.”
Pháo
130 ly của địch vẫn rơi đều trên khắp vị trí của chúng tôi, nhưng vào
lúc này thì hầu như không ai còn để ý đến, vì đang phải lo đối phó với
tình huống nguy hiểm trước mắt.

Đến
khoảng 21:30, loạt đan chài từ các đại bác của chiến xa M.48 nổ rền,
kèm theo từng loạt đại liên. Và phía địch cũng bắt đầu nổ súng nhưng rất
yếu ớt, vì không chịu nổi hỏa lực của chúng tôi. Tr/u Kính báo cáo: “Đợt này ngả xuống thì chúng dàn hàng ngang đợt khác.” Tôi nói: “Cứ bình tỉnh. Tụi nó không chịu nổi đạn chài của mình đâu! Nhưng phải chờ chúng đến đúng tầm thì mới tác xạ!”
Phía
Chi Đoàn của Đ/u Nam cũng báo như thế và tôi cũng ra lệnh như thế. Để
quan sát toàn bộ vị trí, tôi xách máy PRC-25 lên chiến xa chỉ huy (vì
máy truyền tin trên chiến xa đã bị bắn hỏng) và chỉ nhìn thấy chớp sáng
của những lằn đạn giao nhau từ phía địch và phía chúng tôi. Tôi lại nhảy
xuống vào M.577 báo cáo tình hình về BTL/HànhQuân/ SĐ/TQLC và Đ/tá Trí
nói: “Tôi vẫn đang nghe và theo dỏi. Phải cố giữ tuyến.”
Bây
giờ đã gần 23:00. Bổng nhiên tiếng súng im bặt. Toàn bộ các đơn vị đều
không bị tổn thất gì cả. Tất cả báo cáo đợt tấn công thứ hai của địch đã
tiêu tùng và không còn thấy động tỉnh gì nữa. Tôi chỉ nhắc nhở như
thường lệ vì có thể sẽ có những đợt tấn công khác. Riêng Tr/u Công thì
tôi bảo phải chú ý hơn để diệt những tên địch còn sót có thể bò vào sát
các chiến xa cũng như ngăn ngừa địch sử dụng những toán đặc công cảm tử.
Tiếng súng thì không còn, nhưng tiếng nổ của 130 ly vẫn còn lai rai.
Vào
ngồi lại trong xe M.577, tôi miên man suy nghĩ: vừa mong cho trời nhanh
sáng để địch không còn dám tấn công vì quá lộ liểu; vừa mong cho trời
chậm sáng để địch không thấy rõ các chiến xa M.48 để bắn AT-3 hay SS-11.
Đúng là mâu thuẩn!
Đến
khoảng 2:15 ngày 31/01/73 thì đột nhiên tiếng 130 ly nổ dồn dập hơn.
Còn có những tiếng nổ nhỏ hơn của cối 82 của địch. Tiếp đến thì Tr/u
Kính và Th/u Thăng lại báo địch đang từng cụm bò vào. Tôi hỏi Đ/u Nam
thì biết tình hình bên phía đó cũng như vậy. Tôi vẫn cho lệnh phản ứng
như lần địch tấn công ban đầu trong đêm.
Chỉ
khoảng 10 phút sau thì tiếng đại bác của chiến xa và đại liên nổ rền.
Với loại đạn đại bác chống biển người thì địch dù đông bao nhiêu cũng
không thể tràn qua tuyến phòng thủ của chúng tôi. Đợt trước ngả xuống
thì lớp sau lại tiến lên, nhưng địch vẫn chẳng tiến được bước nào. Th/u
Thăng còn báo 2 tên địch bò vào sát một chiến xa của Chi Đội và định leo
lên thì bị TQLC tùng thiết bắn hạ ngay.
Tiếng
nổ của các loại súng rền vang trong khoảng hơn 15 phút rồi dần giảm
bớt. Lúc này đã gần 3:00. Không cần các Chi Đội và Chi Đoàn báo cáo, tôi
cũng biết địch đã không còn tấn công nữa. Chúng tôi vẫn không bị thiệt
hại gì. Tuy nhiên, tinh thần anh em cũng có phần giảm sút, và ngay bản
thân tôi cũng càng thêm lo lắng vì đạn dược dùng cho các loại đại liên
trên chiến xa M.48 và M.113 cũng như của súng cá nhân của TQLC tùng
thiết đang cạn kiệt dần, chưa nói đến sự giảm sút về sức lực sau hơn 2
đêm không chợp mắt. Tôi chỉ còn cách gọi nhắc nhở các Chi Đoàn mà thôi
và cũng không cần báo cáo về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC vì chắc họ cũng đang
theo dỏi nhưng không biết phải cho lệnh gì nữa.
Chỉ
hơn 30 phút sau, khoảng 3:40, tiếng đại bác và đại liên của chúng tôi
lại nổ rền một lần nữa. Địch lại tấn công lần thứ 3 trong đêm. Chỉ khác
là lần này thì mức độ tấn công liên tục hơn. Súng nổ rền một chốc rồi
lại giảm bớt rồi lại nổ rền. Quân địch, lớp này ngả gục lại đến lớp
khác. Cho đến khi lớp thứ tư ngả xuống, chúng mới chịu ngưng. Tôi đoán
biết phía địch đã tổn thất không nhỏ, mà chẳng thể nào phá thủng phòng
tuyến của Chiến xa M.48 được. Tôi không gọi mà chỉ theo dỏi trên máy các
Chi Đội của tôi và của các Chi Đoàn. Đặc biệt là hướng phòng thủ (hướng
nam) của Chi Đoàn 1/17CX M.41 của Đ/u Trung thì lại không bị tấn công
do địa thế phía trước rất trống trải, chỉ là cát, không mấp mô những ụ
cát và cũng không có những bụi cây nhỏ, còn cách xa ven làng Hà tây đến
khoảng 400m.
Đồng
hồ đeo tay của tôi đã chỉ 4:35. Nhận định tình hình, tôi đoán địch thế
nào cũng cố chọc thủng phòng tuyến của chúng tôi để tràn ngập. Nhưng
trời cũng sắp sáng rồi, không biết có lợi hay có hại đây! Lòng tôi cứ
hoang mang vì không nghĩ ra được cách nào đối phó với ý đồ kế tiếp của
địch.
Thế
rồi thời gian cứ trôi qua. Pháo địch cũng giảm bớt và ngưng hẳn. Lúc
này đã là 7:05 ngày 31/01/73. Sương mù đã tan hết từ lâu nhường chỗ cho
ánh nắng ban mai. Tôi leo lên chiến xa M.48 chỉ huy quan sát kỷ toàn
cảnh một lần. Phía trước mặt chúng tôi, quang cảnh trông hầu như không
có chuyện gì xảy ra trong đêm ngoại trừ một số bụi cây nhỏ đã bị trốc
gốc và một số đụn cát đã bị bắn banh ra. Có lẽ địch đã tải lính bị chết
và bị thương trong đêm. Thật sự, tôi không thể đoán ra điều gì sẽ xảy
ra.
Đến khoảng 7:40, tôi nghe máy gọi Hồng Nhạn và nhận ra tiếng của Binh 1 Thạch Minh, tài xế xe jeep của tôi. Tôi cầm máy, bảo: “Hảy qua số nhà cũ!” (đây là tần số riêng để tôi liên lạc về với gia đình khi cần). Binh 1 Minh nói: “Ở
Huế, người ta đã loan tin rằng toàn bộ quân mình ở Cửa Việt đều đã bị
bao vây, không ai về được cả. Chị rất lo lắng nên bảo em ra Tiền cứ liên
lạc với anh.” Dù trong lòng đang lo lắng, tôi vẫn điềm tỉnh trả lời
(vì biết chỉ hai mươi mấy ngày nữa là vợ tôi đi sinh, nên không muốn
gây lo lắng cho bà trước khi sinh): “Đừng
nghe tin đồn bậy bạ. Anh vẫn bình yên. Nói với chị chuẩn bị đồ ăn mang
ra cho anh và bạn bè lai rai. Khi nào anh gọi thì mang ra.” Đúng là chết đến nơi rồi mà vẫn còn nói xạo!
Tôi
buông máy nhảy ra khỏi M.577 nhìn ra phía trước thì thấy số anh em bị
thương trước đó đang dìu nhau lò cò đi về phía BCH/Chi Đoàn của tôi. Tôi
bảo anh em lên và tiếp dìu họ về. Thấy vẻ mặt của họ, lòng tôi thật xốn
xang, nhưng biết làm sao đây. Sau khi y tá thay băng và chích thuốc cho
họ xong, tôi nói: “Với
tình hình này thì anh em cũng sẽ chết và tôi cũng sẽ chết. Chỉ có một
con đường sống mà thôi. Đó là tiếp tục chiến đấu. Anh em phải cố trở lên
tuyến và làm theo những gì tôi đã hướng dẩn hôm qua. Tụi nó sẽ không
làm gì được mình đâu. Còn nếu ở lại BCH/Chi Đoàn thì không còn ai sử
dụng đại bác trên chiến xa của anh em và thế thì phòng tuyến sẽ bị
thủng. Lúc này, lời tôi nói là lời khuyên chứ không còn là lệnh nữa. Tùy
anh em suy nghĩ. Không thể dùng xe M.113 đưa anh em lên tuyến được vì
tất cả các xe đều không được nổ máy.” Tôi không ngờ được rằng chỉ
trong vòng không đến 1 phút, tất cả các anh em đang bị thương, có 2
người bị thương đến 2 lần, đều nhỏm dậy dìu nhau bước hướng lên tuyến.
Tôi buồn bả nhìn theo, tràn đầy khâm phục, thầm nói: họ mới đúng là
những anh hùng thật sự.
Tôi
lại nhìn đồng hồ: đã 8:20 (ngày 31/1/73). Bổng một tiếng nổ vang lên từ
phía tuyến của Chi Đoàn 3/20CX, và tiếng của Đ/u Nam: “Thêm một xe nữa đã bị bắn AT-3”. Tôi chụp máy nói ngay: “Cứ bình tỉnh! Hảy cho y tá chạy bộ lên chãm sóc anh em bị thương đi! Không được dùng M.113, vì không xe nào được nổ máy.”
Tôi
lại leo lên chiến xa của tôi để quan sát. Lúc này pháo địch chỉ rơi rất
thưa thớt. Chỉ khoảng 3 phút sau thì tôi thấy một vệt sáng xẹt vào
hướng về BCH/Chi Đoàn 1/17CX M.41 và trúng ngay vào chiến xa chỉ huy của
Đ/u Trung, tiếp đến là 2 Binh sĩ phóng ra từ trong chiến xa. Tôi vội
nhảy xuống vào xe M.577 gọi Đ/u Trung thì nghe được tiếng của anh báo là
xe bị bắn nhưng lúc đó anh đang ở trong xe M.113. Nghe thế, tôi cũng
yên lòng phần nào. Nhưng nổi lo sợ của tôi lại càng tăng khi chợt nghĩ
đến viêc địch đang và có thể sẽ dùng toàn bộ súng chống chiến xa các
loại để tiêu diệt chúng tôi. Vì không thể tấn công bằng bộ binh hay
thiết giáp được, địch sẽ sử dụng chiến thuật này.
Và
tôi đã đoán không sai. Chỉ chưa đến 8 phút sau thì một qủa đạn chống
chiến xa nữa bay vào trúng vào một xe M.113 của BCH/Th/Đoàn20CX. Tôi vội
nhảy lên chiến xa của tôi để quan sát và thấy được tình trạng hổn loạn
của đám lính của xe M.113 đã bị bắn tranh nhau chạy leo vào các xe M.113
khác của BCH nằm cạnh đó. Tôi gọi ngay cho Th/tá Kiều và nói ông gọi về
BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC xin lệnh cho rút quân. Và chỉ 2 phút sau, ông báo:“Lệnh
phải cố thủ. Không được rút quân vì đây là mục tiêu của tonton (Tổng
Thống) và chỉ có tonton ra lệnh rút thì mới được rút quân.”

Địch
đã hầu như ngưng pháo, và chỉ sử dụng các loại súng chống chiến xa mà
thôi. Và chiến thuật này đã có hiệu qủa vì vừa gây thiệt hại cho Thiết
giáp vừa khiến cho tinh thần của các lực lượng đang phòng thủ sa sút.
Tôi
lại nhìn đồng hồ: 8:45. Tôi rất muốn ra lệnh rút quân nhưng lại không
dám. Tử thần cứ như lảng vảng trước mắt. Đang lúc rối trí thì lại nghe
một tiếng xẹt và thấy chiến xa M.48 chỉ huy của Đ/u Nam bị trúng một qủa
đạn chống chiến xa. Và chiến xa này đột nhiên nổ máy quay đầu phóng
chạy về hướng nam (hướng quân bạn). (Thật ra thì khi chiến xa M.48 chỉ
huy của Đ/u Nam bị bắn, anh đang ở trong xe M.113. Do đó, tài xế chiến
xa của anh quá hoảng mới nổ máy phóng chạy.) Thế là các loại xe khác đều
nổ máy chạy theo. Tôi gọi Th/tá Kiều, rồi Đ/u Nam, rồi Đ/u Cảnh, rồi
Đ/u Minh nhưng hệ thống truyền tin đã im lặng. Ngay cả khi tôi gọi máy
cho Tr/u Kính khi thấy chiến xa của anh chạy ngang qua mặt tôi, tôi vẫn
không nghe trả lời.
Tôi
tức tốc bảo HS Thẩm lên chiến xa và tôi cũng cho mang 1 máy PRC-25 vào
khoang trưởng xa để liên lạc, đồng thời cho khiêng thi thể của HS Thìn
(tài xế chiến xa cũ của tôi) lên M.577. Tôi nhìn quanh, tất cả những
loại xe còn nổ máy được đã chạy hết, trên tuyến của tôi chỉ còn lại 4
chiến xa M.48 đã bị bắn trước đó còn nằm tại chỗ. Tôi đang định ra lệnh
cho BCH/Chi Đoàn của tôi bắt đầu chạy thì thấy cách tôi chừng 30m, các
anh em đã bị thương đang cố dìu nhau chạy bộ về. Tôi tức tốc ra lênh cho
M.113 và M.577 thuộc BCH/Chi Đoàn của tôi phóng đến đón họ vào hết
trong 2 xe và ra lệnh: “M.577 sẽ chạy
song song phía bên trái chiến xa của tôi (tức là sát mé nước biển) để
được che chắn vì xe này không có trang bị súng. Xe M.113 sẽ chạy sau tôi
chừng 20 đến 30m và quay súng đại liên 50 và 30 ly về phía bên phải và
bắn cầm chừng khi chạy ngang qua các làng dọc biển. Tất cả đều phải
phóng rất nhanh.”
Lúc
này tôi không còn suy nghĩ gì nữa ngoại trừ việc ra lệnh cho HS Thẩm,
tài xế chiến xa của tôi, xe M.577, và M.113 còn lại của tôi khi cần mà
thôi. Trên đường về tôi còn thấy chiến xa M.41 của Đ/u Trung bị bỏ lại.
Tôi phải phóng khoảng gần 500m mới hết ranh giới vòng đai phòng thủ của
chúng tôi, và tôi mới thấy lính TQLC, vì không kịp leo lên xe của các
Chi Đoàn, đang chạy bộ về hướng nam, nhưng cách xa tôi về phía tây chừng
200m. Tôi không thể nào dừng lại để đón họ được, dù lúc này tôi nhìn
lại thì tuyến vẫn chưa bị địch chọc thủng vào. Có lẽ những chiến xa
M.48, M.41 và M.113 đã bị bắn tê liệt còn nằm lại khiến địch nghi ngờ
chúng tôi đang chuyển một số quân qua hướng khác.
Mấy cụ thường dạy: “Tấn công thì nên đi sau, còn chạy thì nên chạy trước” thật
không ngoa chút nào. Vì tôi chạy sau một khoảng thời gian, có lẽ chừng
15 đến 20 phút, do vị trí ở xa nhất về hướng bắc và còn phải đón anh em
bị thương từ tuyến chạy về, nên địch còn nằm ở các làng dọc biển có thời
gian chuẩn bị đón bắn chúng tôi. Súng địch từ trong làng bắn ra liên
tục. Dọc đường, tôi còn thấy rõ 2 tên địch ngang nhiên đứng giang chân
kê B-41 lên vai định bắn vào chúng tôi, nhưng đại liên 30 ly bên hông
M.113 đã quạt ngả chúng. (chiến xa M.48 chỉ huy của tôi thì không còn
bắn ai được nữa sau khi bị bắn 2 lần, nhưng tôi vẫn không rời nó được)
Tôi
nhìn địa hình và đoán mình đã vượt qua được chừng 5km. Tôi gọi báo cho
xe M.113 biết sắp đến tuyến của quân bạn rồi, vì không còn thấy trong
làng bắn ra, và ra lệnh ngưng tác xạ. Chỉ chừng 15 phút sau, tôi đã thấy
phía trước lố nhố rất nhiều lính bạn đang đứng sát mé biển trông về
hướng bắc. Khi chiến xa tôi đến, họ reo hò: ‘Đ/u Xứng đã về rồi! Đ/u Xứng đã về rồi!”.
Thở
phào nhẹ nhỏm, tôi ra lệnh cho tải thương ngay những anh em bị thương
và đưa thi thể HS Thìn về Bệnh viện. Tôi bảo Tr/u Kính kiểm tra quân số
về được thì được biết còn thiếu B1 Hoàng-Hoàng (tài xế, đã chết ngay
trong chiến xa vào giờ phút cuối nên không kịp mang theo về, còn số
chiến xa M.48 thì tôi đã thấy tại tuyến nên đã biết được.)
Sau
đó, tôi lại leo lên chiến xa của mình đang hướng đầu về phía biển, ngồi
xuống phía trước ngang với nắp tài xế, nhìn ra biển. Trời se lạnh vì
chỉ còn mấy ngày nữa là Tết. Tôi bảo lính đưa cho tôi chiếc mền mỏng
thường đắp, rồi quàng lên hai vai, cố hình dung ra một người lính của
mình đã hy sinh và bị bỏ lại. Một cái tên rất khó quên. Họ là Hoàng và
tên cũng là Hoàng. Và cũng suy nghĩ không biết phải nói gì khi Đ/tá Trí
hỏi tại sao lại chạy về.
Chừng
20 phút sau, Đ/u Nam và Đ/u Minh đến nói chuyện với tôi. Còn Đ/u Cảnh
thì đã được tải thương. Ai cũng vẫn còn lo về việc tự ý bỏ vị trí chạy
về sẽ bị hậu qủa gì, nhưng còn sống sót trở về là được rồi.
Còn
về TQLC thì chỉ có 3 Ban Chỉ Huy Đại Đội và BCH của Th/tá Tiền (đã ở
sẵn trên các M.113 chỉ huy của các Chi Đoàn) cùng một số thì đã nhanh
chân kịp leo lên M.113 mới về được. Số còn lại thì hoặc chết hoặc bị bắt
sống phải trên 100 người.
Ngay
lúc này, lính đến báo với tôi là xe jeep của tôi đã ra đến, mang theo
đồ ăn do bà xả tôi chuẩn bị. Tôi lại nhìn đồng hồ: đã 10:10 sáng ngày
31/1/73. Binh 1 Minh đã bày hết mọi thứ ra trên nắp máy xe jeep. Thế là
chúng tôi đến ăn uống lai rai. Có cả Đ/u Trung, Tr/u Nga, Tr/u Lân của
Chi Đoàn 1/17CX M.41 và vài sĩ-quan các Chi Đoàn nữa. Mỗi người chỉ nhấm
nháp được 2,3 miếng là hết thức ăn, rồi chỉ nhâm nhi bia, nhưng niềm
vui thoát được nguy hiểm đã tràn ngập tâm hồn.
Sau đó, Tr/tá Tá đến chúc mừng tôi. Tôi nói: “Chắc tôi phải về nhà nghỉ vài ngày. Việc lảnh chiến xa bổ sung và sửa chửa xe bị hỏng đã có Tr/u Điệp (Chi Đoàn phó của tôi) lo.” Và ông đồng ý. Tôi vào BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC gặp Đ/tá Trí. Ông bắt tay tôi và nói: “Tôi cứ ngở cậu không về được chứ. Nhưng theo dỏi trên máy vẫn còn nghe tiếng của cậu nên tôi vẫn hy vọng. Chúc mừng!” Tôi cảm ơn và cảm thấy yên lòng vì không nghe ông hỏi han gì về việc bỏ vị trí chạy về.
Trước
khi lên xe jeep về nhà, tôi gọi Đ/u Nam và trả lại Chi Đội chiến xa
M.48 đã tăng phái cho tôi (nhưng giờ thì không còn đủ. Rồi dặn Tr/u Kính
dẩn toàn bộ Chi Đoàn với số chiến xa chỉ còn chừng 1 Chi Đội về tiền cứ
ở Hòa Mỹ.
Cuộc
Hành Quân Tango đã kết thúc. Kể từ lúc Cánh A – Nổ lực chính- của tôi
vượt tuyến xuất phát và Chi Đoàn tôi đã đến Cửa Việt đầu tiên cho đến
khi tôi là người trở về cuối cùng là 4 ngày + 4 đêm + khoảng 3 giờ 30
phút.
Ngang
qua căn cứ Hòa Mỹ, tôi tạt vào dặn dò Tr/u Điệp những việc cần làm,
nhất là phân phối cho anh em đi phép, rồi lên xe tiếp tục về Huế nghỉ
ngơi để ngày hôm sau còn vào Bệnh viện thăm anh em bị thương và kiểm tra
xem thi thể của HS Thìn đã được chuyển về quê nhà trong Nam chưa.
Vậy
là tôi được nghỉ 3 ngày và ăn Tết tại nhà ở Huế, quá đầy đủ đối với một
người lính tác chiến. Sau đó, tôi trở lại đơn vị tại tiền cứ tại Hòa
Mỹ.
Khoảng
4 ngày sau, vào lúc gần trưa, tôi đang ở trong văn phòng Chi Đoàn
trưởng thì nghe có tiếng máy bay trực thăng. Tôi ra ngoài nhìn thì biết
ngay là trực thăng của Ch/tướng Bùi-thế-Lân (TL/SĐ/TQLC). Tôi nghĩ rằng
ông ghé xuống BCH/Thiết Đoàn 20CX nên chẳng quan tâm gì. Không ngờ, chỉ
mấy phút sau thì tiếng trực thăng đáp xuống vang lên rất gần, tôi nhìn
ra và thấy trực thăng đã đáp xuống khoảnh đất trống trong vị trí của Chi
Đoàn tôi. Tôi vội vả bước ra, chẳng kịp nai nịt súng ống gì cả, thì đã
thấy Ch/tướng Lân và Tr/tá Nguyễn-kim-Đễ bước vào. Tôi chào và lúng túng
kéo 2 chiếc ghế salon đóng bằng két đạn bằng gổ mời họ ngồi và kêu lính
gọi nước uống từ Câu lạc bộ Thiết Đoàn. Nhưng ông Lân khoác tay bảo
không cần. Ông ngồi xuống và mỉm cười nói: “Bây giờ cậu muốn được thưởng gì đây? Muốn thăng cấp Thiếu tá hay nhận Bảo Quốc Huân Chương?” Tôi chẳng biết trả lời sao vì mọi chuyện xảy ra quá đột ngột. Tôi chỉ nói được: “Thưa Thiếu tướng, đơn vị tham chiến gồm 4 Chi Đoàn và thêm 1 Chi Đoàn tăng cường nữa. Và chúng tôi đã tự ý rút về.” Ch/tướng Lân nói: “TOC
(Trung tâm Hành Quân) đã theo dỏi hệ thống truyền tin nội bộ của các
đơn vị suốt cuộc hành quân. Cậu đã có kế hoạch và chỉ huy toàn bộ 4 Chi
Đoàn hoàn thành nhiệm vụ. Giai đoạn sau thì không tính.” Tr/tá Đễ xen vào: “Xin Thiếu tướng đề nghị thăng cấp Thiếu tá mặt trận cho Đại úy Xứng. Như vậy thì cụ thể hơn.” Và Ch/tướng Lân nói: “Như vậy cũng tốt. Chúc mừng cậu trước!”
Ông đứng dậy bắt tay tôi. Tôi chỉ cảm ơn và mỉm cười. Chỉ trong khoảng
15 phút sau, tôi tiển ông và Tr/tá Đễ lên trực thăng bay luôn. Khi trở
lại, tôi thấy Tr/tá Tá, nai nịt gọn gàng bước đến, hỏi tôi: “Ông Tướng xuống Chi Đoàn anh có nói gì không?” Tôi nói dối: “Ông chỉ ghé xuống thăm và hỏi tình hình Chi Đoàn mà thôi.” Và sau này ai hỏi, tôi cũng chỉ nói như vậy.
Chỉ
khoảng hơn 2 tháng sau thì tôi (sĩ-quan duy nhất được thăng cấp) được
mang cấp bậc Thiếu tá (thăng cấp đặc cách mặt trận) do SĐ/TQLC đề nghị.
Tôi chỉ đưa ra một Tổng kết tương đối chính xác của Lực Lượng Tấn Công Chính trong cuộc Hành Quân Tango như sau:
►Địch:
1- Nhân mạng: 1 bị bắt sống. Chết và Bị thương khoảng trên 300 trên đường tiến quân của tôi và trong các loạt tấn công vào vị trí phòng thủ của các Chi Đoàn tại Cửa Việt.
2- Quân dụng: 3 T.54 hay T.59 bị bắn tê liệt
1- Nhân mạng: 1 bị bắt sống. Chết và Bị thương khoảng trên 300 trên đường tiến quân của tôi và trong các loạt tấn công vào vị trí phòng thủ của các Chi Đoàn tại Cửa Việt.
2- Quân dụng: 3 T.54 hay T.59 bị bắn tê liệt
►Bạn (Lực Lượng Tấn Công Chính):
1- Nhân mạng:
– Thiết giáp: 2 chết (1 bị bỏ lại Cửa Việt) khoảng 30 bị thương (trong đó có 2 sĩ-quan của Cánh A của tôi + 1 SQ của BCH /Th/Đoàn20CX)
– TQLC tùng thiết: Chết và Bị thương khoảng 30. Bị bắt sống khoảng trên 100 trên đường tháo chạy
2- Quân dụng: 6 CX M.48 (4 của Cánh A và 2 của Cánh B); 1 CX M.41; 5 M.113 bị bắn tê liệt và bị bỏ lại tại Cửa Việt. Không có loại nào bị cháy.
Tổng cộng: 12 xe các loại.
– 3 CX M.48 bị bắn hư hỏng nhưng vẫn chạy về được.
1- Nhân mạng:
– Thiết giáp: 2 chết (1 bị bỏ lại Cửa Việt) khoảng 30 bị thương (trong đó có 2 sĩ-quan của Cánh A của tôi + 1 SQ của BCH /Th/Đoàn20CX)
– TQLC tùng thiết: Chết và Bị thương khoảng 30. Bị bắt sống khoảng trên 100 trên đường tháo chạy
2- Quân dụng: 6 CX M.48 (4 của Cánh A và 2 của Cánh B); 1 CX M.41; 5 M.113 bị bắn tê liệt và bị bỏ lại tại Cửa Việt. Không có loại nào bị cháy.
Tổng cộng: 12 xe các loại.
– 3 CX M.48 bị bắn hư hỏng nhưng vẫn chạy về được.
►Phần đất Lực Lượng Tấn Công Chính đã tấn công càn lướt và TQLC theo sau đã điền trám được: hơn 5km (đến gần Bình An).
►Riêng về Kết qủa của các Tiểu Đoàn TQLC thì tôi không rõ.
Mượn
Tựa đề và Lời Mở đầu của Th/u Đặng-văn-Quang, tôi đã viết lại những hồi
ức, mà lẽ ra đã muốn giấu kín trong lòng và giữ làm kỷ niệm cho quãng
đời lính của mình, về Trận đánh Cửa Việt với toàn bộ sự thật, (nói là
toàn bộ sự thật thì không đúng hẳn vì: thứ nhất, ngoài giờ giấc ngưng
bắn là 7:57 ngày 28/1/73, các số giờ khác có thể có sự chênh lệnh về số
phút nhưng không sai lệnh nhiều. Thứ hai, có một số chi tiết tương đối
không quan trọng mà, vì tế nhị, tôi không tiện nêu ra vì muốn giữ lại
những tình cảm rất đáng trân trọng của anh em thuộc cả 2 binh chủng đã
dành cho tôi sau 36 năm dài dằng dặc) chỉ với mục đích xin dùng bài viết
này thay cho:
♦
Ba nén nhang cắm vào trước mộ của HS Thìn, tài xế chiến xa chỉ huy của
tôi, đã hy sinh trong đêm tiến quân ra Cửa Việt và đã phải được gói chặt
trong poncho (áo mưa của lính) suốt hơn 3 ngày liền, nghe thêm tiếng
pháo nổ đạn bay cũng như hòa quyện linh hồn mình với niềm vui và nổi lo
của đồng đội trong cuộc chiến khốc liệt nhưng bế tắc này.
♦
Ba nén nhang cắm vào trước chiếc chiến xa M.48 của Chi Đội 3/1/20CX do
Binh 1 Hoàng- Hoàng làm tài xế và đã hy sinh anh dũng, yên nghỉ ngay
trong khoang tài xế chiến xa của mình tại phòng tuyến Cửa Việt.
Xin cầu nguyện cho linh hồn hai em ở thế giới bên kia siêu thoát và cảm thấy thanh thản hơn, nếu đọc được bài viết này.
Bài viết này cũng để thay lời cảm ơn
Bài viết này cũng để thay lời cảm ơn
•
Th/u Đặng-văn-Quang, Chi Đội trưởng Chi Đội 3/1/20CX, đã bị thương ngay
sau khi đã đánh tan tuyến chặn đầu tiên và kiên cố nhất của địch.
•
Th/u Nguyễn-văn-Sa, Chi Đội trưởng Chi Đội 1/3/20CX, được tăng phái cho
tôi, đã bị thương nặng trên đường tiến quân và sau đó phải giải ngũ.
• Tr/u Tống-huy-Kính, người đã cùng tôi vượt qua suốt chặng đường đầy cam go tiến chiếm Cửa Việt.
Kỵ Binh Đặng Hữu Xứng
No comments:
Post a Comment