Hình tác giả: VĂN QUANG tại Sài Gòn năm 2011.
Tôi không nhớ rõ năm đó là năm thứ mấy chúng tôi “học tập cải tạo”,
chỉ biết rằng khi ấy trong chúng tôi đã có những người “quen” với những ngày
tháng cực khổ, dài lê thê trong những căn nhà giam được “xây dựng” bằng đủ thứ
kiểu giữa những vùng rừng núi âm u miền Bắc. Ở Sơn La thì “trại” được làm trên
những nhà tù từ thời xa xưa, trên những cái nền nhà lỗ chỗ, người ta dựng vách
đất trộn rơm, mái lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che kín được khung trời.
Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù chính trị, rồi một thời
gian sau, VN giam những người tù Thái Lan và trong chiến tranh đã có khi người
ta dùng làm “công binh xưởng” chế tạo lựu đạn. Vì thế nên thỉnh thoảng chúng
tôi nhặt được vài cái vỏ lựu đạn ở đâu đó quanh khu vực này. Ở Vĩnh Phú thì nhà
tranh vách đất, ngoại trừ một khu người ta gọi là khu “biệt kích” gồm vài căn
nhà “xây dựng kiên cố” bằng gạch lợp tôn xi măng. Chúng tôi “được học tập cải
tạo” trong dãy nhà này. Cũng nghe người ta nói lại là khu này trước kia dùng để
giam giữ những người lính biệt kích đã từng nhảy dù ra Bắc rồi bị bắt giam ở
những khu đặc biệt đó. Muốn vào khu này phải qua hai lần cổng có tường gạch bao
quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ biệt kích thì khác, còn khi chúng tôi “được giam”
ở đây có vẻ như “cởi mở” hơn vì những cánh cổng thường không đóng bao giờ. Họ
để cho chúng tôi đi lao động hàng ngày cho khỏi phải mở ra đóng vào.
Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi rồi người ta cũng phải quen.
Nhịp sống hàng ngày cứ thế trôi đi dù là trong đói rét, thiếu thốn và trong
những cấm đoán vô cùng khe khắt. Nhà tù nào chẳng thế, nó có những quy luật và
quy định riêng. Những ngày đầu người ta cấm luôn cả trà, cà phê, thậm chí cấm
cả người tù đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm
nữa. Chỉ còn những thứ đã thành “luật” thì luôn bị cấm và cấm ở bất cứ đâu. Cấm
“mua bán đổi chác linh tinh”, cấm dùng thức ăn lâu ngày bằng bột, cấm tỏi và
cấm tất cả những dụng cụ sinh hoạt bằng sắt như dao, kéo, muỗng nĩa… Tuy vậy có
anh tù nào lại ngây thơ ngoan ngoãn đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định
ấy. Mua bán đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra, dao kéo vẫn cứ được lén lút sử dụng hàng ngày nhưng đó là những thứ đã
được “cải biên” thành dao kéo mini nhỏ síu cho dễ cất giấu. Nó là những vật
dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày, dù có bị bắt thì cũng chỉ bị tịch thu
chứ không đến nỗi bị cùm một hoặc hai chân –tùy theo tội– hay bị đưa vào “thiên
lao” tức là thứ phòng giam đặc biệt trong trại tù.
Ngày qua ngày, cái “không khí êm ả” của trại giam trở nên phẳng
lặng nhưng dĩ nhiên là không thể nào nói rằng đó là thứ “an tâm, hồ hởi phấn
khởi” mà bất kỳ anh “trại viên” nào cũng cứ phải viết khi phải làm những “bản
kiểm điểm”, mặc dù kể cả người viết và người đọc đều chẳng ai tin.
Nhưng cái không khí ấy đôi khi bỗng nhiên bị xáo trộn. Vào một buổi
sáng tinh mơ, khi chúng tôi đang ngồi ở cái sân đất giữa trại, chờ gọi tên từng
đội đi lao động để “một ngày lại vinh quang như mọi ngày” thì bỗng đâu toán
lính gác trại tù sồng sộc chạy vào. Họ chạy rầm rập như ra trận, súng ống chĩa
về phía “quân thù”, mặt mũi “khẩn trương” rõ rệt. Họ sộc thẳng vào những phòng
giam trống hốc cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong đó.
Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn, không hiểu họ giở trò gì. Có những
khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo bâng quơ. Chuyển trại hay có ai đó trốn trại?
Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi mà mỗi người tù có được
trong gói hành trang của riêng mình. Sau đó chừng nửa giờ, một vài gói đồ bị
tịch thu được vác lên “phòng thi đua”. Lúc đó thì chúng tôi mới hiểu rằng đó
chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ “quốc cấm” mà trại đã quy
định tù không được dùng.
Thật ra, đó cũng là cái cung cách mà ở những “trại cải tạo” thường
dùng để khuấy động cái không khí trầm lặng dễ phát sinh ra những “tiêu cực”.
Bởi trong cái sự yên bình của một trại giam, người tù có thể liên kết với nhau
làm một chuyện gì đó như tổ chức trốn trại hoặc có thể có những vụ xúi giục
“tuyệt thực”, bàn bạc chống đối… Và nếu nói đến sự chống đối thì có hàng trăm
thứ để có thể chống đối được. Thí dụ sự ăn đói, sự đối xử bất công, sự oan ức
vô lý, sự trù dập của một vài anh “quản giáo”, sự thô bạo của mấy anh lính võ
trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì thế thỉnh thoảng họ phải làm
cho cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng để chứng tỏ lúc nào họ cũng đề
phòng, lúc nào họ cũng “đề cao cảnh giác”, lúc nào họ cũng sẵn sàng đối phó với
mọi “mưu đồ”.
Các anh tù đừng có tưởng bở, chẳng bao giờ yên đâu. Cứ sau mỗi lần
như thế, chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được vài anh tù nào đó giấu những thứ vớ
vẩn như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc, đồ dùng ngoài quy
định. Tất nhiên sẽ có những cuộc “kiểm điểm, phê bình” mà chúng tôi gọi là
những “buổi tối ngồi đồng” để từ đó lòi ra một vài cái “tội”. Ðội nào khôn
ngoan thì cứ ngồi im, ai “phê” thì cứ mặc, còn cãi là còn “ngồi đồng”. Ði làm
suốt ngày mệt mỏi đến thở không ra, tối về còn ngồi đồng, còn “phê bình” còn
“kiểm thảo” thì chịu sao nổi. Nay “làm chưa xong” thì mai lại ngồi tiếp, ngồi
cho đến khi nào tìm ra tội mới thôi. Tội nặng, tội nhẹ tùy theo tình hình của
từng thời điểm.
Thời điểm “căng” thì vào tù phạm tội vào nhà kỷ luật đặc biệt nằm
“treo một chân”, thời điểm nhẹ nhàng thì cảnh cáo, ghi tội vào biên bản. Và họ
sẽ có những biện pháp an toàn như chuyển đổi năm bẩy anh từ đội này sang đội
khác để phòng tránh những vụ tù kết hợp thành tổ chức, những phe nhóm có thể
gây nguy hại đến an ninh của trại tù.
Chung quy đó chỉ là một cách đào xới tung cái tinh thần “tưởng rằng
yên ổn” của mấy anh “trại viên” còn tỏ ra cứng đầu, còn có mưu toan lôi kéo
người này người kia vào trong phe mình để từ đó có những yêu sách hoặc toan
tính bất lợi cho trại tù. Quả là mỗi lần như thế trại tù cũng rối tung lên và
làm cho những anh yếu bóng vía thường phải sống dựa vào tinh thần bè bạn càng
thêm rụt rè, chẳng biết tin vào ai được nữa. Nhưng riết rồi trò gì cũng thành
quen và đối với một số người tù “chẳng còn có gì để mất” thì họ trơ như đá,
muốn làm gì thì làm, chỉ có cái thân tù đói này thôi, sống cũng được mà chết
cũng chẳng sao.
Có lẽ tôi cũng đã học tập được cái tinh thần ấy của những anh bạn
trẻ, bởi tôi cũng chẳng còn có gì để mất. Vợ con nhà cửa đều đã mất tất cả rồi,
chẳng có gì phải lo. Ðôi khi tôi sống tưng tưng, ông anh rể ở Sàigòn gửi cho cái
gì thì nhận cái nấy. Và một sự thật không thể quên là nếu không có ông anh rể
tốt bụng đó thì tôi cũng đã trở thành một thứ “Tù Caritas” như một số anh em ở
trong trại tù rồi. Tức là những người tù chẳng có ai thăm nuôi.
Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói rách lầm than, họ lo cho
chính họ còn không xong thì lấy gì đi “thăm nuôi” người ở trong tù mà lại tù ở
tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp. Thậm chí có người tù còn vui mừng khi thấy vợ
mình bước đi bước nữa với một anh nào đó và đưa các con ra được nước ngoài. Tôi
nói thế để chứng minh rằng không nên trách cứ bất kỳ một ai trong hoàn cảnh cay
nghiệt này. Theo tôi thì những anh “mồ côi” không ai thăm nuôi trong trại tù
mới chính là những anh hưởng trọn vẹn được cái “thú đau thương”.
Trở lại chuyện buổi sáng tinh mơ, khi toán lính chạy sồng sộc vào
trại. Ðó là một buổi sáng cuối mùa đông, trước Tết âm lịch chừng vài ngày. Ðây
cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù trước những ngày lễ Tết
lớn. Tôi thảnh thơi theo đội đi làm ở ngoài đồng. Tôi vẫn cứ yên trí rằng tôi
chẳng có gì để mất, hay cái vật tôi mất chẳng có gì quan trọng.
Vào mùa đông cái thứ quan trọng nhất với người tù chỉ là rau. Mùa
này thiếu rau đến… khô quắt cả dạ dày, rau muống bầu bí không trồng được, chỉ
còn rau cải và trồng cải thì lâu mới được ăn và năng suất không cao, cho nên có
được tí rau là hạnh phúc nhất. Tôi ngồi lê la trước mấy luống su hào, đó là thứ
“thực phẩm cao cấp” nhất trong khu vườn rau của toàn đội. Những củ su hào bắt
đầu to hơn nắm tay nằm tròn trĩnh dưới những tàu lá xanh mượt mà, tôi trông coi
chúng vì cái công sức tôi bỏ ra hơn một tháng trời. Tôi coi chúng cũng như một
tác phẩm nào đó mà tôi đã từng viết ra, ở đây không có gì để coi như tác phẩm
thì coi nó là tác phẩm vậy, để có cái mà thú vị và để có cái mà quên đi những
thứ quanh mình.
Cứ như thế tôi tha hồ đặt tên từng luống su hào, có khi là một cái
tên nghe có vẻ “lả lướt” như tên người tôi đã gặp ở tiệm khiêu vũ, có khi là
một cái tên rất dung tục. Âu cũng là một trò “nghịch ngầm” giữa vùng rừng núi
âm u, hầu như không có mặt trời mùa đông này. Nhưng tôi biết rằng trò chơi của
tôi sẽ phải chấm dứt trong một hai ngày nữa. Bởi Tết đã đến, dù 12 luống su hào
còn non chưa đến ngày “thu hoạch” nhưng cần thức ăn trong ba ngày Tết nên họ sẽ
nhổ. Nếu tù không ăn thì cai tù ăn, chứ không đời nào họ chịu để đến mùa xuân.
Nhưng vui chơi được giờ nào hay giờ ấy trong cuộc sống phù du này.
Buổi trưa về đến trại, trong khi bạn bè xung quanh đang xôn xao, kẻ
bị tịch thu cái này, người bị mất cái kia thì tôi vẫn nhởn nhơ vì tôi chẳng có
gì để mất. Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm, nhưng thật ra chỉ có đúng
một bát bo bo tương đối khá đầy đặn. Tôi ăn thì tạm lưng lửng, nhưng những
người bạn tôi thì không bao giờ đủ. Họ thường nói “Vừa ăn xong mà vẫn cứ tưởng như
mình chưa ăn”. Cái đói cứ lửng lơ mãi ngày này qua ngày khác, thế mới là khó
chịu. Có những ông bạn tôi ăn theo cái kiểu câu dầm, tức là lấy cái muỗng tre
nhỏ xíu, hoặc một cái gì đó lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng bo bo ăn rả
rích suốt ngày để có cảm tưởng lúc nào cũng được ăn, nó làm lu mờ cái cảm giác
đói, đó là cách tự đánh lừa mình.
Tôi cũng “ăn dè hà tiện” nhưng tôi ăn bằng muỗng. Cái muỗng rất đặc
biệt bằng inox hẳn hoi, có chạm trổ tinh vi và luôn được chùi rửa sáng bóng.
Nhưng sáng nay, được chia hai củ khoai lang ăn sáng nên tôi để cái muỗng ở nhà.
Tôi thường cất nó vào trong chiếc lon Guigoz – một loại vỏ hộp sữa được chế
biến thành đồ dùng rất thông dụng và nhiều lợi ích của hầu hết những anh tù, nó
có thể dùng “trăm công ngàn việc” từ đựng các loại thức ăn, thức uống đến đun
nấu, câu móc, đựng mắm muối, chứa đồ để dành, múc nước tắm rửa đánh răng, rửa
mặt. Nhưng hôm nay thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là nó đã bị tịch thu trong
buổi khám xét trại sáng nay.
Ðây là thứ “gia bảo” tôi đã cất giấu nó suốt mấy năm nay chưa hề
lơi lỏng. Nó luôn nằm sát bên tôi, lúc đi lao động cũng như khi nằm ngủ. Có thể
ví như cái nạng của một anh què, cái gậy của ông lão chín mươi, một thứ đã
thành thói quen bám vào cuộc sống.
Sau một buổi trưa mưu toan tính kế, chiều hôm đó tôi quyết định đến
gặp Dực, anh chàng trưởng ban thi đua của trại. Dực cũng chỉ là một “trại
viên”, nhưng trước đây anh ta là cán bộ, anh “thoái hóa tiêu cực” sao đó nên bị
đi tù. Những anh cán bộ và quân nhân trong trại tù thường được gọi là “phạm
binh, phạm cán” tức là tội phạm thuộc binh sĩ hoặc cán bộ cũ. Họ có một chế độ
đãi ngộ riêng và thường được dùng vào trong các công việc cần đến sự tin cậy
của giám thị.
Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái
Bình, Dực liền hỏi quê quán và nhận là người cùng quê. Một lần Dực dẫn chúng
tôi đi lấy quần áo ngoài trại chính, qua khoảng đồi núi quanh co, anh ta chỉ
tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng “Cậu Huyện Nhụ nằm ở đó”.
Tôi hỏi anh có họ hàng thế nào với ông Huyện Nhụ, anh ta nói anh là
cháu gọi ông Nhụ bằng cậu, nhưng gia đình cụ Nhụ vào Nam còn
gia đình anh vốn là nông dân nên ở lại miền Bắc.
Cụ Nguyễn Mạnh Nhụ trước năm 75 làm chánh án ở Tòa án Sài Gòn và
tôi nghe nói là cũng có họ hàng với gia đình tôi, nhưng là họ xa. Cụ làm tri
huyện từ khi còn rất trẻ. Sau này tôi có gặp cụ vài lần. Tôi kể cho Dực nghe
đôi ba chuyện về cuộc sống của cụ Huyện Nhụ khi còn ở Sài Gòn. Sau này đi “cải
tạo” cụ Huyện Nhụ mất ở trại này. Dực nói là trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm
được ăn một cái bánh dò. Dực nhắn người nhà ở Thái Bình khi đi thăm nuôi thì
ghé qua Hà Nội mua lên vài cái, nhưng khi bánh dò mang lên thì cụ mất rồi.
Từ đó, đối với tôi, Dực có phần dễ dãi hơn. Nhưng dĩ nhiên cái
khoảng cách giữa một bên là “ngụy” một bên là “cán” thì khó mà san lấp được…
Nhưng hôm nay thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi trưa tôi không gặp
được Dực. Cho đến hai hôm sau, khi trại đã xôn xao chuẩn bị cho những ngày Tết
tôi mới gặp được Dực. Trong khi đó tôi dò hỏi mấy tay làm văn hóa xem những thứ
bị tịch thu còn để trong phòng thi đua không. Họ nói còn để trong kho lẫn lộn
với những thứ đồ dùng khác. Tôi mang cho Dực một ít thuốc đau dạ dày của ông
anh tôi mới gửi vào. Rất may cho tôi là hắn cũng bị đau dạ dày. Mà cái thứ
thuốc trị bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó chỉ là tí mật ong trộn với nghệ nên
không công hiệu. Tôi có thứ thuốc “cao cấp” hơn là Maalox, uống vào là cơn đau
dịu xuống ngay. Thuốc Mỹ đàng hoàng, người ta ghét Mỹ nhưng thuốc của nó tốt
thì cứ thích, có sao đâu.
Tôi gạ chuyện để xin lại cái muỗng. Dực trợn mắt:
“Anh làm cái gì mà cần cái muỗng đến thế? Bây giờ để trong kho,
chui vào đấy mà trực trại nó biết thì tôi vào nhà đá.”
Tôi nằn nì:
“Ðấy là đồ gia bảo của tôi đấy. Anh biết không, tôi mất nhiều thứ
lắm, một cái bằng lái xe ba dấu, một cuốn tự điển. Nhưng tôi không cần, tôi chỉ
cần cái muỗng thôi.”
Dực nhìn tôi nghi ngại:
“Mày giấu cái gì trong đó?”
Dực hơn tôi hai tuổi nên hắn có gọi tôi bằng mày tôi cũng không tự
ái, mà dù hắn có kém tôi vài ba tuổi mà lúc đó hắn gọi tôi bằng mày tôi cũng
cho qua luôn.
“Cái muỗng đặc và nhỏ như thế làm sao giấu cái gì trong nó được?”
Dực nửa đùa nửa thật:
“Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày chẳng làm được. Chưa
biết chừng mày giấu cả cái máy quay phim trong đó cũng nên. Tao nghe nói mày có
sách làm phim phải không?”
“Ðúng, nhưng là tôi viết truyện rồi người ta lấy làm phim chứ tôi
biết cái cóc khô gì.”
“Vậy sao mày chỉ đòi lấy lại cái muỗng, mày mua chuộc tao bằng hai
vỉ thuốc đau dạ dầy, không bõ. Khéo không chết cả đám. Tao không chơi.”
Tôi thất bại, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc. Chiều hôm đó, Dực lại
được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp Tết. Tôi đang loay hoay dán
mấy cành hoa đào lên tấm phông trên hội trường thì Dực kéo tôi xuống. Nó bảo tôi
đi khuân sách trên thư viện về hội trường, kê bàn ghế, trang trí thành khu đọc
sách báo trong ba ngày Tết cho ra vẻ “có văn hóa”. Nhưng nếu coi thư viện thì
không được ăn Tết ở phòng mà phải ngồi trực ở hội trường. Tôi nhận lời ngay dù
biết rằng tôi sẽ mất cái thú dự những ngày Tết với anh em trong phòng giam và
mất cái thú ngồi đánh mạt chược bằng những con bài gỗ do chúng tôi tự làm lấy.
Thế là tôi lại có dịp lân la nói chuyện với Dực về cái muỗng của
tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng tôi có cái gì giấu trong đó, hay tôi cần cái muỗng
để làm việc gì đó. Tôi đành kể cho Dực nghe:
“Buổi sáng hôm tôi phải đi “học tập cải tạo”, vợ tôi chuẩn bị một
số đồ dùng cho vào túi xách để tôi mang đi. Ðứa con gái của tôi, khi đó mới hơn
ba tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi xách nào là quần áo, khăn mặt, thuốc… nó đang ăn
sáng, cũng bỏ vào xách tay của tôi cái muỗng nó đang ăn và dặn: “Con cho bố
mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy”.
Tôi ôm con gái gật đầu hứa khi về bố sẽ trả con. Nhưng quả thật tôi
vẫn nghĩ chẳng bao giờ tôi trả lại được cho nó. Lần chia tay này có thể là vĩnh
viễn… Chúng tôi ngậm ngùi chia tay, không thể hẹn được ngày về vì có biết ngày
nào về đâu mà hẹn!
Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt trong những bữa ăn, suốt
trong những giấc ngủ. Hình ảnh con gái và gia đình tôi hiện lên qua cái muỗng
đó. Tôi vẫn đánh lừa tôi rằng tôi đang được ăn bên con gái tôi, bên những người
thân yêu của tôi. Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy là một niềm ước vọng không
bao giờ thành hiện thực, nhưng vậy mà đôi lúc tôi cũng thấy ấm lòng.
Nghe câu chuyện ấy, Dực tỏ ra chần chừ, nhưng hắn vỗ vai tôi:
“Thôi được, nếu là như thế thì tôi giúp cậu. Tối nay, khi cậu ngồi
coi phòng đọc sách, tôi sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu, tôi sẽ gọi cậu
xuống phòng thi đua cho cậu ngồi ăn ở đó, trong khi tôi gọi ban thi đua lên
phòng hội thì tôi giả vờ để quên chìa khóa kho. Cậu mở cửa kho vào mà tìm,
nhưng có gì thì cậu chịu trách nhiệm. Nó mà vớ được thì ‘kỷ luật’ suốt cái Tết
này đấy, chưa biết chừng suốt mùa xuân.”
Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo cách “ăn trộm” này. Tối
đó tôi mở khóa mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ nhà ngoài hắt vào, vừa đủ soi
sáng cái đống hầm bà làng đủ thứ đồ dùng lặt vặt vừa bị thu mấy hôm trước. Tôi
sục ngay vào cái đống linh tinh đó, quả là những anh bạn tù của tôi có lắm trò
chơi thật.
Thôi thì đủ thứ, cái điếu cày được làm bằng những ống hỏa châu hoặc
những cáng băng ca được cắt ngắn, chạm trổ rồng phượng, khắc gọt rất tinh vi.
Những cái trâm cài đầu, những cái lược cho con gái hay cho người yêu, làm bằng
nhôm được khắc những cái tên “Hồng Hoa, Bích Phượng, Thúy Hường…” nghe nao cả
lòng. Những con dao nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn cũng có hoa lá cành .
Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.
Sách vở tiếng Anh tiếng Pháp và đủ thứ giấy tờ lộn xộn. Cái mà tôi
kiếm được trước tiên lại là cái bằng lái xe của tôi. Tôi không dại gì mà không
đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục tiếp, vừa hồi hộp vừa
phải làm thật nhanh tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng động nhỏ cũng
khiến tôi giật mình. Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột nóng như lửa
đốt, tôi bới tung hết cả cái đống ấy và đâm hốt hoảng nếu cái muỗng không còn ở
đó nữa. Nhưng may quá, cái muỗng kia rồi, nó nằm dưới cuốn sách dày cộm của
“thằng chết tiệt” nào đó. Nó chỉ thò ra có mỗi cái đuôi, tôi cũng nhận ra nó
ngay. Lúc đó tôi có cảm tưởng như “Con có ở xa bố hàng cây số thì bố cũng cứ
nhận ra con như thường”.
Tôi vồ lấy nó như sợ bị người ta giật mất. Tôi nhìn cái hoa văn
chạy dọc theo cán muỗng mà tôi đã quá thân thuộc như chính cái nét mặt con gái
tôi khi nó “nhí nhảnh” đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn cứ tưởng là một
chuyện vui, bố đi chơi vài ngày rồi bố về. Ừ thì vui. Tôi cười trong nụ cười
mếu máo của mẹ nó và trong nụ cười hồn nhiên của nó. Không hiểu sao trong lúc
gay cấn như thế mà hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh như một ánh chớp. Tôi
vọt ra khỏi phòng, khóa cửa lại, biến nhanh vào bóng tối trên con đường về “khu
biệt kích”. Thoát nạn!
Cái Tết ấy tôi lại được vui chơi với cái muỗng của tôi, dù tôi đã
phải hy sinh suốt ba ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi thì tôi cứ phải
quanh quẩn trong cái “phòng đọc sách” chẳng có ma nào thèm ngó đến ấy.
Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi như chuyện được ăn một
bữa cơm đúng là cơm chứ không phải khoai sắn hay bo bo. Nhưng quả là tôi thấy
hạnh phúc dù ngồi thui thủi một mình. Tôi có cái muỗng rồi, còn cần gì vui chơi
nữa. Ðó chính là mùa xuân của tôi.
Nhưng không phải đó là một lần duy nhất tôi phải “cứu lấy” cái vật
gia bảo của mình. Hai lần sau cũng tương tự, cũng bị tịch thu rồi cứu lại được
cứ như sắp ra pháp trường rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người cứu tôi không
phải là người bạn đồng minh đã từng chiến đấu với các đồng ngũ của tôi trong
những năm qua, người đồng minh đó đã “gan dạ” cuốn cờ chạy nhanh và chạy xa quá
rồi. Thôi thì tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.
Một lần khác, tôi lội qua con suối sau cơn mưa lớn. Chỗ chúng tôi
làm phải đi qua một con suối, gọi là suối lạnh. Bình thường nó cạn, dòng nước
trong vắt dịu dàng trôi lờ lững trên những tảng đá xanh. Chúng tôi thường dùng
nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn là nước từ những triền đồi vây
quanh bốn hướng ào ạt đổ xuống, chỉ cần nửa giờ sau là con suối trở nên hung
hãn, nước chảy cuồn cuộn và mang theo những cành cây, những khúc gỗ lao băng
băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con suối trở về trước khi con suối trở
thành hung dữ. Sang gần tới bờ bên kia, tôi loạng choạng làm đổ cái túi đồ đựng
những thứ lặt vặt trong đó có cái muỗng. Ở đây tôi thuộc từng khe đá nên tôi
không ngần ngại nhoài người xuống mò.
Anh bạn nhảy dù, la lên:
“Bộ ông điên sao?”
Tôi điên thật, tôi muốn mò tìm cái muỗng của tôi. Nhưng nước
chảy xiết quá tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù trẻ, què một tay vì bị thương ngoài
chiến trường, rất hiểu tôi nên anh đi xa hơn một chút, anh khom người xuống,
thò một tay vào cái khe hòn đá là tìm được lại cho tôi cái muỗng. Ðôi mắt anh
rất tinh, anh mỉm cười:
“Tôi biết ông mất cái gì rồi. Tôi tìm được nó cho ông nè.”
Chuyện trớ trêu là hơn 12 năm sau, tôi trở về, nhưng tôi chưa trả
lại cái muỗng cho con gái tôi được vì mẹ con nó đã vượt biên, đã định cư ở nước
ngoài. Hơn hai mươi năm, tôi chưa một lần được gặp lại con gái tôi. Tính đến
năm nay là 27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi. Ngày 29 tháng 9-2002 vừa qua, cháu lập
gia đình ở Miami, Florida.
Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình vui hay buồn. Hình như
không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ cứ lơ lơ lửng lửng lẫn
lộn. Chú thím nó và các anh chị nó ở Mỹ đều hẹn nhau đi dự đám cưới nó. Tôi thì
không, chẳng hẹn hò được gì cả và chẳng làm được cái gì cả. Tôi có cảm giác như
mình thừa. Rất may là trước ngày đám cưới, cô chú nó về Sài Gòn, chính tay tôi
gửi được tấm thiệp mừng con gái tôi. Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái
tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi
không? Tôi không biết. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng gửi cho cháu để cháu hiểu rằng
lúc nào tôi cũng coi như cháu còn nhỏ lắm, như mới hôm qua hai bố con còn ở bên
nhau. Tôi đi chơi đâu đó và hôm nay trở về. Nhưng cháu đã đi xa và tôi còn ở
lại Sài Gòn, nơi nó đã sinh ra. Cháu sẽ nghĩ gì, tôi không biết.
Nhưng vài hôm sau thì có một điều tôi biết rất rõ là từ khi cái
muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải như mất mát một cái gì, xa vắng một
cái gì thân thiết hàng ngày ở bên mình. Tôi cho rằng nó cũng giống như cái cảm
giác của những ông bố bà mẹ khi cho con gái mình đi lấy chồng xa. Nỗi buồn lâng
lâng bay chập chờn khắp nơi. Nhưng đó chính là sợi dây vô hình nối liền mãi mãi
tình thương yêu dù ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Cuối cùng người ta chỉ
còn lại cái Tình. Cái Tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi khi mạnh
và sâu hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới mất mãi mãi. Tôi
chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật trên đời không gì có thể so sánh
được.
Lẽ ra chuyện này tôi đã viết ngay từ tháng 9/2002 khi tôi được tin
cháu lập gia đình. Nhưng nhiều lần muốn viết tôi cứ ngồi mãi trước computer,
không gõ được chữ nào, đầu óc lung tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta
không thể làm gì được ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới
cơn mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy
mặt, thế thôi! Ðúng là chuyện của người thì làm xong nhanh mà chuyện của mình
thì nghẹn. Mãi đến hôm nay tôi mới ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi
cho rằng chẳng bao giờ muộn vì nó là thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn
đời.
Văn Quang
Sao Y Bản Chính
NGUỒN : https://sites.google.com/site/hoikysite/cai-muong
No comments:
Post a Comment