Nguyễn Ngọc Chính
Bức tượng “Thương Tiếc”, nặng 10 tấn, cao hơn 6m,
được đặt tại cổng vào Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa
(Hình: vnrozier)
Khi
cuộc chiến leo thang khốc liệt, năm 1966 Nghĩa trang Quân đội tại Hạnh Thông
Tây, Gò Vấp, bắt đầu không còn đủ đất để các tử sĩ VNCH yên nghỉ. Chính phủ nền
Đệ nhị Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải tính đến việc thành lập một
nghĩa trang mới và địa điểm được lựa chọn nằm dọc theo phía tay trái của xa lộ
Biên Hòa (nay là xa lộ Hà Nội) nếu từ hướng Sài Gòn đi Biên Hòa.
Kiến
trúc sư kiêm điêu khắc gia, Đại úy Nguyễn Thanh Thu, được lệnh của Tổng thống
Thiệu lên đường đi Phi Luật Tân để nghiên cứu mô hình xây dựng Nghĩa trang Quân
đội Hoa Kỳ tại Manila (American Cemetery in Manila), được coi là một nghĩa
trang đẹp nhất Á châu.
Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila
(Hình tác giả chụp tại thủ đô Manila, năm 2003, https://www.flickr.com/photos/nguyen_ngoc_chinh/837204065/in/photolist-2gYTAR-2gYTze)
Năm
2003, tôi đã có dịp đến Phi Luật Tân và viếng Nghĩa trang Hoa Kỳ tại thủ đô
Manilla [1]. Nghĩa trang có tên American
Cemetery, đây là nơi chôn cất thi hài quân nhân Mỹ và đồng minh đã nằm xuống
trong cuộc chiến ở Thái Bình Dương vào thời thế chiến thứ hai.
Nghĩa
trang mằn trên một khu đất rộng 615,000 mét vuông, trồng cỏ xanh rì vây quanh
là những hàng cây rợp bóng mát. 17,206 ngôi mộ chiến sĩ được đánh dấu bằng các
thập tự giá và xếp hàng thẳng tắp như một đội quân thầm lặng. Điểm xuyết cho
nghĩa trang là một vài tượng đài kỷ niệm ghi những dòng chữ tưởng nhớ công ơn
những vị anh hùng “vị quốc vong thân”.
Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila
(Hình tác giả chụp tại thủ đô Manila, năm 2003)
Sau
chuyến đi tham khảo tại Phi Luật Tân, Đại úy Thu sẽ phải trình đề án lên Tổng
thống Thiệu để giao cho công binh xây dựng một nghĩa trang mới mang tên Nghĩa
trang Quân đội Biên Hòa. Ông còn gợi ý phải có một tác phẩm điêu khắc tại cổng
vào nghĩa trang để nói lên sự tri ân của mọi người tại hậu phương trước những tử
sĩ được chôn cất tại đây.
Đại
úy Nguyễn Thanh Thu xin 1 tuần để suy nghĩ về dự án và trước khi ra về anh còn
được Tổng thống Thiệu nhắc nhở bằng những lời rất thân tình: “Anh cần chú ý đến ý nghĩa của nghĩa trang phải
xoay quanh “cục nhưn” là bức tượng… Tôi đặt nhiều hy vọng vào anh…”.
Tất
cả mọi chuyện chỉ bắt đầu một cách giản dị như vậy. Tuy nhiên, đối với nhà điêu
khắc Nguyễn Thanh Thu đó là thời gian anh trăn trở nhiều nhất với những ý tưởng
của một nghệ sĩ sáng tạo cho một công trình mang tầm vóc quốc gia nói lên lòng
tri ân của mọi người đối với những chiến sĩ đã bỏ mình ngoài chiến trường.
Trong
suốt một tuần lễ, hầu như ngày nào anh cũng có mặt tại nghĩa trang Hạnh Thông
Tây để chứng kiến những cảnh tang tóc, đau thương của vợ con tử sĩ. Nhà chứa
xác đầy nghẹt, những chiếc hòm chưa chôn còn mịt mù nhang khói tại những khu phải
căng lều bạt chờ chôn… trong khi trực thăng vẫn hàng ngày tiếp tục chở xác về
nghĩa trang.
Ngày
cuối cùng của một tuần tìm ý tưởng là vào một buổi trưa Thứ Sáu trên đường từ
Nghĩa trang Hạnh Thông Tây anh Thu ghé vào một quán nước gọi ly đá chanh. Và
đây chính là giờ phút “định mệnh” khi anh nhìn thấy một người lính thuộc binh
chủng Nhảy dù ngồi trước những chai bia và hai cái ly…
Anh
lính ngồi nói chuyện với cái ly thứ hai trước sự ngạc nhiên của chủ quán lẫn
khách uống nước. Hình như anh lính là người vừa thăm bạn được chôn cất tại
Nghĩa trang Hạnh Thông Tây. Một ly anh cúng bạn và một ly anh uống. Anh ngồi vừa
uống vừa nói chuyện với chiếc ly!
Cảm
động trước hình ảnh một người lính khổ sở khi phải mất bạn, anh Thu cầm ly nước
chanh bước qua bàn lảm quen. Anh lính ngước lên nhìn anh Thu với vẻ khó chịu vì
sự riêng tư của mình bị người lạ làm phiền và tiếp tục trở về với ly bia “cúng”
bạn.
Anh
Thu cũng bị lúng túng vì thái độ “bất hợp tác” của anh lính nhảy dù. Mấy cô bán
hàng lại cười khúc khích, có lẽ các cô nghĩ nãy giờ có một người “điên” ngồi uống
bia nói chuyện với cái ly và bây giờ lại thêm người “điên” nữa lân la đến làm
quen.
Người
lính tiếp tục gục đầu ngồi độc thoại, phớt lờ những lời xã giao làm quen của
anh Thu. Dường như anh tưởng bị quân cảnh hỏi giấy nên lẳng lặng móc bóp giấy tờ
cho anh Thu mà không hề ngước mắt nhìn và tiếp tục uống!
Anh
Thu cầm bóp trở về bàn mình và ghi lại tên anh lính: Võ Văn Hai, cấp bậc Hạ sĩ,
binh chủng Nhảy dù, cả tên tiểu đoàn lẫn KBC (Địa chỉ Khu Bưu Chính của quân lực
VNCH). Khi anh Thu trả lại giấy tờ, Hạ sĩ Võ Văn Hai nhét vào túi với vẻ bất cần,
cũng không thèm ngước mặt nhìn lên.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu
Khuya
Thứ Sáu anh Thu mới bắt đầu vẽ để sáng Thứ Bảy trình Tổng thống. Từ 8g tối đến
6g sáng anh phác thảo được 7 bản vẽ trong tiếng súng và bom thỉnh thoảng vọng về
Sài Gòn. Những ý nghĩ ở một hậu phương yên bình trong khi những người lính ngày
cũng như đêm xả thân ngoài chiến trường khiến anh Thu dồn hết tâm trí vào những
nét vẽ của anh.
Anh
Thu hôm đó chỉ ngủ 2 tiếng thì bị đánh thức bởi tiếng chó sủa, thì ra theo lời
của vợ anh: “Có người đến nhà mời anh đi
trình dự án!”. Họ đến sớm để mời anh đi ăn sáng trước khi gặp Tổng thống
Thiệu. Lần trước đây anh gặp Tổng thống để bàn về dự án tại Bộ Tổng tham mưu
nhưng lần trình dự án lại là tại dinh Gia Long.
Lịch
gặp Tổng thống vào lúc 9 giờ sáng nhưng vì
Tổng thống còn đang tiếp khách nên anh Thu trong lúc đi lại trên hành lang dinh
Gia Long bỗng nảy ra câu hỏi “Tại sao lại
không vẽ Võ Văn Hai?”. Nghĩ là làm ngay. Anh tưởng tượng một bố cục dựa
trên hình ảnh Hạ sĩ Hai ngồi nhớ bạn tại quán nước.
Anh
trở ngay vào phòng Đại tá Cầm, tùy viên của Tướng Thiệu, chụp một cây bút
nguyên tử, lấy trong giỏ rác một bao thuốc lá và rút mảnh giấy bọc bao thuốc trở
ra hành lang ngồi vẽ lại hình ảnh Hạ sĩ Hai.
Một
lần nữa, “định mệnh” lại ra tay: trong 7 bản vẽ mang theo, anh Thu thấy bản cuối
cùng, một “tốc họa” trên bao thuốc lá tại dinh Gia Long, là bản anh ưng ý nhất.
Đến khi vào gặp Tổng thống, anh trải 7 bản vẽ lên sàn nhà trước bàn làm việc, bản
vẽ cuối cùng trên bao thuốc lá anh vẫn còn cầm trên tay.
Tổng
thống Thiệu sau khi đi tới, đi lui ngắm 7 bản vẽ, ông nói: “Anh là “cha đẻ” của dự án này nên theo ý anh, bức nào làm anh hài lòng
nhất”. Phải nói, anh Thu là người thật thà, chất phác, anh thẳng thắn trình
bày:
“Thưa Tổng thống, nếu
Tổng thống cho tôi chọn lại thì bản vẽ mới đây tôi vừa nghĩ ra và vẽ vội trên
bao thuốc lá lại là bản vẽ tôi ưng ý nhất… nhưng tôi sợ mình quá vô lễ để đưa
ra tại đây”.
Tổng
thống Thiệu vui vẻ và đồng ý xem “tốc họa” trên bao thuốc lá. Ông cầm bản phác
thảo Hạ sĩ Võ Văn Hai về ngồi trên ghế ngắm nghía, một lúc sau ông nói: “Anh Thu à, người nghệ sĩ hay lãng mạn lắm
mà chiến sĩ của mình thực tế hơn, họ cần một cái tên cho đề tài, anh cho tôi biết
đề tài của bức hình là gì đây?”.
Anh
Thu lần lượt đề nghị các tên: (1) Khóc bạn, (2) Tình đồng đội, (3) Nhớ nhung, (4)
Thương tiếc và (5) Tiếc thương. Cuối cùng Tổng thống chọn tên “Thương Tiếc” cho
bức phác họa Hạ sĩ Võ Văn Hai ngồi nhớ bạn. Tổng thống còn nhắc nhở phải làm
sao nói lên được ý nghĩa vừa thương tiếc bạn bè nằm xuống nhưng cũng phải thể
hiện tinh thần chiến đấu của người lính VNCH lúc nào cũng vững tay súng.
Bất
ngờ, Tổng thống yêu cầu anh vẽ một bản thứ hai lớn hơn, vẽ tại chỗ, ngay ở dinh
Gia Long. Thế là với dụng cụ giấy vẽ, bảng đen và các loại màu được cung cấp
ngay theo yêu cầu, anh Thu bắt đầu… “ra tay” trước mặt Tổng thống Thiệu và một
số sĩ quan thân cận của ông.
Anh
Thu có thêm yêu cầu cần một người ngồi làm mẫu… và trong số các sĩ quan hiện diện,
chính Đại tá Cầm “xung phong” làm… người mẫu! Thực ra thì hình ảnh Đại tá Cầm mặc
quân phục chỉnh tề, “ủi hồ láng cóng”, không thích hợp với hình ảnh người lính
thật sự nhưng đó chỉ là một hình ảnh gợi ý để sáng tác cấp tốc.
Anh
Thu còn xin thêm thêm 1 khẩu súng trường cho Đại tá Cầm để trên đùi, đó là khẩu
Garant M1 đang được quân đội sử dụng trên chiến trường… Anh cũng đề nghị trong
lúc anh vẽ, tất cả mọi người miễn đặt câu hỏi, vì nếu như thế anh sẽ mất sự tập
trung trong sáng tác và sẽ thất lễ nếu anh không dừng vẽ để trả lời.
Khó
khăn của anh Thu là phải hoàn thành tác phẩm trong một thời gian gấp rút, anh
tâm sự: “Lúc bấy giờ, không biết có một
điều xui khiến vô hình nào đó mà tôi xuất thần phóng bút vẽ lại Hạ sĩ Hai…
Không biết là tôi vẽ hay là ai nữa!”.
Nguyễn Thanh Thu
Sau
khi Tổng thống Thiệu ký tên vào bức “tốc họa”, anh Thu chỉ có 3 tháng để hoàn tất
công trình tượng đài trước ngày 1/11/1967, ngày Quốc khánh của VNCH. Vấn đề trước
mắt là đi tìm “người mẫu” Võ Văn Hai trong quán nước ngày trước tại Gò Vấp. Anh
đã tìm đến đơn vị của Hạ sĩ Hai và gặp vị Thiếu tá phụ trách đơn vị.
Thoạt
đầu khi nghe anh Thu trình bày vấn đề, vị Thiếu tá có vẻ băn khoăn, suy tính…
nhưng khi thấy tận mắt bức họa có chữ ký của Tổng thống Thiệu, ông lại hãnh diện
khi có người lính thuộc đơn vị nhảy dù của mình được chọn làm biểu tượng cho
người lính VNCH tại nghĩa trang…
Vị
Thiếu tá còn ra lệnh cho tập họp đại đội với súng ống đầy đủ để anh Thu chọn
“người mẫu”, vì theo ông, trong đơn vị có nhiều người cao to tới 1,7 hoặc 1,8
mét, còn Hạ sĩ Hai chỉ cao chừng thước 1,6… Chính ông Thiếu Tá cũng chọn được 4
người lính lực lưỡng trong hàng đầu còn anh Thu thì chỉ réo tên Võ Văn Hai ở gần
cuối hàng quân.
Anh
Thu được giao 5 người lính nhảy dù để làm mẫu cho bức tượng Thương Tiếc trong
vòng 3 tháng. Anh cũng nói riêng với các “người mẫu”, sự thật anh chỉ cần Hạ sĩ
Hai, nhưng tất cả đều được nghỉ phép 3 tháng tại Sài Gòn với điều kiện chỉ được
mặc quần áo dân sự để không bị quân cảnh làm khó dễ.
Anh Thu bên bản sao bức tượng “Thương Tiếc”
Chính
hình ảnh Võ Văn Hai ngồi tiếc thương bạn trong quán nước đã ám ảnh anh Thu để
sáng tạo ra bức tượng “Thuơng Tiếc” ngồi trước cửa Nghĩa trang Quân đội Biên
Hòa. Ngày ngày, anh Hai trong bộ quần áo dân sự đạp xe lên nhà anh Thu, tại đây
anh thay bộ quân phục, với ba lô, súng đạn đầy đủ để ngồi làm mẫu.
Một
hôm, khi bức tượng gần hoàn chỉnh chỉ còn thiếu chi tiết khuôn mặt, anh Thu đã
cố tình để cho người lính ngồi một mình trong phòng, còn anh kín đáo quan sát
qua bông gió trên tường. Đây là dụng ý của nhà điêu khắc muốn để anh ngồi một
mình nhớ đến người bạn đã qua đời.
Anh
Thu có thể thấy từng đường nét diễn biến trên khuôn mặt lúc anh lính ngồi buồn
một mình và nhà điêu khắc đã phác họa lại trên giấy khuôn mặt anh. Phần mình, Hạ
sĩ Võ Văn Hai lại sợ đã làm chuyện gì khiến Đại úy Nguyễn Thanh Thu phiền lòng
nên cho anh về sớm mà không biết ông đã bí mật quan sát!
Khuôn mặt người lính “Thương Tiếc” bạn được tái hiện qua
bức tượng trong cuộc phỏng vấn
Khoảng
3 giờ sáng anh Thu thức dậy để bắt đầu giai đoạn hoàn chỉnh cuối cùng của bức
tượng: nét mặt của người lính. Anh dùng đèn cầy để lấy ánh sáng chiếu vào nhiều
góc cạnh, qua đó anh có thể sửa lại nét mặt người lính theo những gì anh phác họa.
Loại
ánh sáng nhân tạo qua ánh đèn cầy có tác dụng điều chỉnh các góc cạnh của tác
phẩm theo hướng người nghệ sĩ di chuyển từ nhiều phía. Anh Thu hoàn toàn bị cuốn
hút vào những cảm xúc trên khuôn mặt người lính. Đó là những giây phút chỉ mình
anh và nhân vật của bức tượng trong ánh sáng mờ ảo của cây đèn cầy.
Sau
một giấc ngủ ngắn, anh tỉnh dậy sáng hôm sau để quan sát và so sánh công trình
của mình đêm qua dưới ánh đèn cầy với ánh sáng ban ngày. Anh mừng vì khuôn mặt
của người lính giữa ánh sáng tự nhiên ban ngày và ánh sáng nhân tạo từ đèn cầy
vẫn hiện lên một nét buồn ray rứt.
Như
vậy là điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu có thể hài lòng với công trình nghệ thuật
kéo dài 3 tháng của mình. Và chúng ta được chứng kiến pho tượng “Thương Tiếc”
ngồi trước cổng vào Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa từ năm 1967 cho đến sau ngày
30/4/1975.
Bức tượng “Thương Tiếc” được đắp lại cho cuộc phỏng vấn
***
Chuyện
bây giờ mới kể về bức tượng “Thương Tiếc” được viết lại theo nội dung cuộc phỏng
vấn của Lê Xuân Trường với nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu qua một video clip
dài 36,57 phút vừa xuất hiện trên Youtube, bạn đọc có thể theo dõi qua địa chỉ:
Cuộc phỏng vấn của Nguyễn Xuân Trường với điêu khắc gia
Nguyễn Thanh Thu
Trong
clip này, ở phần cuối dài hơn 5 phút, có đề cập đến thời gian đi học tập
cải tạo
của Đại úy Nguyễn Thanh Thu. Anh tâm sự cuộc đời của mình dính liền với
tác phẩm Thương Tiếc, từ “danh vọng” đến “thê thảm”. Tại trại cải tạo
trong thời gian bị
“biệt giam” 22 tháng trong “thùng conex” [2] với lời buộc tội: “Tướng lãnh, sĩ quan xong giặc rồi là hết,
còn anh vẫn lưu lại tư tưởng phản động qua tác phẩm….”.
Cán
bộ trong trại chắc cũng chưa từng thấy bức tượng “Thương Tiếc” mà chỉ nghe đồn
qua người Sài Gòn vì bức tượng đã bị giật sập và nấu thành kim loại sau năm
1975. Khi ở trong trại được khoảng 8 tháng, có lần “quản giáo” trong trại đề
nghị anh Thu khai chỉ đóng vai phụ giúp trong việc tạc tượng còn tác giả đã ra
nước ngoài!
Anh
Thu đã trả lời một cách khẳng khái rằng anh đã “làm” thì anh “chịu”, tàu chìm
thì anh chìm theo, máy bay rớt thì anh rớt theo, tượng chết thì anh chết theo…
chứ không thể nào khác được. Anh Thu đã phải trả giá về sự “ngoan cố” của mình,
nhưng một “phép lạ” đã xảy ra trên đường ra pháp trường sử bắn…
Nguyễn Thanh Thu diễn tả lại cảnh vì sao anh bị… điếc
Người
xem video clip này dễ dàng nhận thấy giữa người phỏng vấn Lê Xuân Trường và người
được phỏng vấn, anh Nguyễn Thanh Thu, đôi lúc không có sự “ăn ý” trong đối thoại.
Chỉ ở đoạn cuối mới có câu trả lời tại sao anh Thu đã bị “điếc” trong thời gian
đi cải tạo khiến cho những đối thoại trong cuộc phỏng vấn không được “trơn tru”
như bình thường.
Nguyên
do tại sao xin bạn đọc theo dõi phần cuối câu chuyện bây giờ mới kể trên video
clip đã dẫn.
Bức tượng Thương Tiếc sau 30/4/1975
***
Chú
thích:
[1]
Xem thêm bài viết “Phi Luật Tân thời hậu
SARS” tại:
[2]
Thùng Conex: loại thùng bằng sắt để chứa hàng hóa trong quân đội Mỹ ngày xưa,
có kích thước khoảng 3 mét mỗi chiều. Ngày nay thường thấy loại thùng này lớn
hơn được chuyên chở trên các xe container.
[3]
Xem thêm bài viết “Nghĩa tử là nghĩa tận:
Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa” tại:
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/nghia-tu-la-nghia-tan-nghia-trang-quan.htmlNGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA, CHUYỆN KỂ TỪ ĐẦU
LTS: Lần đầu tiên, chính quyền cộng sản Hà Nội có một thông cáo
chính thức liên quan đến nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa. Thông báo phổ
biến cuối năm 2006. Nghĩa trang này được Công Binh Quân Lực Việt Nam
Cộng Hoà khởi công từ năm 1965, giành đất mai táng cho 30 ngàn tử sĩ.
Sau các trận Mậu Thân 1968, đến Mùa Hè 1972, rồi các trận đánh giành dân
lấn đất kỳ Hiệp Ðịnh Paris, nghĩa trang này đã chôn cất 16 ngàn tử sĩ.
Khoảng 8,000 mộ phần đã có bia; một nửa kia chỉ mới đắp đất. Ðó là tính
đến ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Cộng Sản vào Sài Gòn, tượng Tiếc Thương bị giật sập, một số mộ bị phá phách nhưng thật sự không có chiến dịch ủi quang hay phá sập toàn diện. Cho đến nay, các kiến trúc chính thức gồm Cổng Tam Quan, Ðền Liệt Sĩ và Nghĩa Dũng Ðài vẫn còn y nguyên. Từ xa lộ Biên Hòa nhìn vào chỉ thấy cây cối um tùm và nhà dân che khuất nên nhiều người tưởng nghĩa trang không còn nữa.
Cơ quan IRCC, Inc., do cựu Ðại Tá Vũ Văn Lộc làm giám đốc, với các nhân viên tự nguyện về thăm gia đình tại Việt Nam đã đến thăm nghĩa trang hàng năm, tảo mộ và ghi lại hình ảnh. Sau đó, IRCC, Inc., nhờ các thương phế binh tổ đang sinh sống tại Việt Nam tảo mộ hàng năm. Hiện nay đã có nhiều ngôi mộ có thân nhân cải táng hay tu sửa. Số còn lại ước chừng từ 8 ngàn đến 10 ngàn ngôi mộ.
Trước thông tin chính thức do chính quyền Việt Nam công bố liên quan đến nghĩa trang Quân Ðội, và trong những đồn đoán về số phận của nghĩa trang đang gìn giữ 16,000 tử sĩ Việt Nam Cộng Hoa, ông Vũ Văn Lộc cùng một số thân hữu đã thực hiện một loạt bài viết có tên “Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa, Chuyện Kể Từ Ðầu.” Nay, Nhật Báo Người Việt, được sự cho phép của ông Vũ Văn Lộc và IRCC, Inc., xin trích đăng một phần lớn những thông tin này đến độc giả của mình.
Ai sáng lập Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa?
Nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa là sáng kiến của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Khi dự án xây dựng nghĩa trang, do Cục Quân Nhu phối hợp Công Binh, được trình lên Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Tiếp Vận. Dự án này được tiếp tục trình lên Bộ Quốc Phòng, thủ tướng, và rồi cuối cùng, được trình lên, và được tổng thống đồng ý.
Dự án xây dựng nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa liên quan đến đất đai và nhiều lãnh vực khác, nên cuối cùng, trở thành một đề tài liên bộ; từ Bộ Quốc Phòng, qua Bộ Công Chánh, Bộ Nội Vụ và liên quan cả đến Bộ Giáo Dục và Y Tế.
Ðến khoảng năm 1964, nghĩa trang Quân Ðội ở Gò Vấp trở nên chật hẹp, không gánh vác được sức nặng của chiến tranh. Trong khi ấy, chiến tranh gia tăng, phần lớn sĩ quan của khu vực thủ đô đều chôn ở nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi, Sài Gòn. Nơi đây, đất cũng bắt đầu khan hiếm và tốn kém. Nhu cầu chôn cất tử sĩ, không phân biệt cấp bậc, tại một nghĩa trang rộng lớn hơn đã được nghĩ tới.
Ðơn vị Chung Sự, chuyên lo hậu sự của những chiến sĩ đã nằm xuống, cũng có nhu cầu về cơ sở để hoạt động. Kiến nghị được trình lên cấp trên, thông qua hệ thống Cục Quân Nhu, Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Tiếp Vận. Các sĩ quan Quân Nhu, Công Binh, Ðịa Ốc Tổng Tham Mưu bay trực thăng trên không phận Thủ Ðức, Bình Dương, Biên Hòa, tay cầm bản đồ nghiên cứu địa thế thật đẹp dành làm nơi an nghỉ nhìn thu cho chiến hữu.
Quá trình xây cất nghĩa trang Biên Hòa
Sau nhiều lần sửa đổi, mô hình và khu đất được chọn xây nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa đã được Phủ Tổng Thống chấp thuận.
Khu đất rộng 125 mẫu Tây ở phía tay trái xa lộ Sài Gòn. Toàn thể khu nghĩa trang làm thành hình con ong vĩ đại nằm quay đầu ra xa lộ.
Giữa lưng con ong là Nghĩa Dũng Ðài cao 43 thước. Ðầu ong là đền thờ chiến sĩ, cũng có lúc gọi là Ðền Tử Sĩ hay Ðền Liệt Sĩ. Phía dưới chân đền là Cổng Tam Quan nối thẳng một đường dài ra xa lộ. Con đường này làm thành cây kim nhọn của con ong và đầu kim là bức tượng Thương Tiếc ngay cạnh xa lộ.
Từ chân Nghĩa Dũng Ðài, lưng ong chia làm hình nan quạt hướng ra 4 phía và làm thành lưới nhện. Phần đuôi ong hẹp, phần dưới dài ra như quả trứng. Các ngôi mộ giống nhau chia thành từng khu. Khu quốc gia dành cho các vị lãnh đạo, khu tướng lãnh, khu cấp tá, cấp úy và binh sĩ.
Một ngày đầu Xuân 1965, Thiếu Tướng Ðồng Văn Khuyên từ Bộ Tổng Tham Mưu gọi điện thoại cho Ðại Tá Nguyễn Thiện Nghị, liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 30 Công Binh Kiến Tạo đóng tại Hóc Môn. Sau đó chiếc xe ủi đất đầu tiên của Tiểu Ðoàn 54 Công Binh bắt đầu công tác.
Rồi doanh trại của Liên Ðội Chung Sự và khu nhà xác được thiết dựng năm 1966 để nhận những di hài tử sĩ đầu tiên.
Nghĩa trang được xây dựng trong chiến tranh với sự phối hợp giữa Quân Nhu và Công Binh. Công Binh tiếp tục làm đường, phân lô, xây Cổng Tam Quan, xây Ðền Liệt Sĩ, đúc các tấm ciment và làm mộ bia.
Quân Nhu nhận tử sĩ từ mặt trận chở về ngày đêm để chôn cất. Trận Mậu Thân, trận Mùa Hè, trận Hạ Lào, trận Cambodia. Tử sĩ của các đơn vị tổng trừ bị đem về từ 4 quân khu. Tử sĩ của quân khu thủ đô và các tiểu khu lân cận. Tử sĩ của các quân chủng, nữ quân nhân, thiếu sinh quân, tất cả đều nằm trong lòng đất Biên Hòa.
Tử sĩ chôn từ trung tâm Nghĩa Dũng Ðài lần lượt ra các khu bên ngoài. Ðã có trên 10 tướng lãnh nằm tại nghĩa trang Biên Hòa kể cả các vị đại tá vinh thăng sau khi tử trận. Người có cấp bậc cao cấp nhất là cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí. Hiện nay ngôi mộ này đã được gia đình cải táng nhưng vị trí cũ vẫn còn di tích.
Nghĩa Dũng Ðài và kiến trúc công trình Nghĩa Trang
Nghĩa trang Quân Ðội tại Biên Hòa có nhiều công trình xây cất đáng kể.
Trước hết là bức tượng Thương Tiếc, thể hiện hình ảnh người lính Việt Nam Cộng Hòa ngồi nghỉ chân trên bệ đá, súng để ngang trên đùi, nét mặt buồn và rất Việt Nam. Câu chuyện về bức tượng này đã được kể lại nhiều lần. Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, tượng này bị chính quyền cộng sản giật sập. Phóng viên ngoại quốc có chụp được hình. Tin sau cùng cho biết bức tượng đã đưa vào kho tại quận Dĩ An và sau cùng có thể bị nấu ra lấy đồng và không còn vết tích.
Tác giả của pho tượng này là điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, lấy hình người mẫu là một binh sĩ nhảy dù. Hiện nay ông Thu, nguyên là một sĩ quan Quân Nhu, theo đặc san của ngành này cho biết, đã trở về Việt Nam “để tìm cách thực hiện lại bức tượng Thương Tiếc.”
Ngoài bức tượng kể trên, trên đường vào nghĩa trang, đi theo con đường chánh xuyên tâm, lên dốc cao, phải qua Cổng Tam Quan, một công trình xây cất giản dị nhưng bề thế và chân phương. Giữa cảnh hoang tàn rêu phong hiện nay, Cổng Tam Quan vẫn giữ được đường nét vững vàng và gần như còn nguyên vẹn.
Qua Cổng Tam Quan, con đường dẫn đến ngôi Ðền Tử Sĩ trên một ngọn đồi nhỏ có 4 lối lên bốn phía. Ðây là nơi để linh cữu các vị tướng lãnh trước khi chôn cất. Ðây cũng là nơi khi tổng thống, thủ tướng hay các giới chức cao cấp chủ tọa các buổi lễ chiêu hồn tử sĩ.
Tháng Ba, 1975, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm lên thăm viếng và làm lễ đặt vòng hoa. Không ai biết rằng đây là lần sau cùng.
Cũng tại đây và tại Vành Khăn Tang của Nghĩa Dũng Ðài là nơi các toán quân danh dự canh gác theo nghi lễ. Các quân nhân từ các quân binh chủng mặc sắc phục được điều động về theo đơn xin và có đủ điều kiện. Vóc dáng trẻ trung, khỏe mạnh, cao lớn, đoàn quân này được huấn luyện để canh gác và biểu diễn các thao tác nghi lễ như các đoàn quân danh dự tại nghĩa trang Arlington Hoa Kỳ.
Sau Ðền Liệt Sĩ, phải đi một đoạn rất dài mới đến đỉnh một dải đất cao, chính giữa trung tâm là Nghĩa Dũng Ðài. Ðây là công trình quan trọng nhất mà Công Binh Việt Nam đã thực hiện.
Cục Công Binh sau khi khởi công xây cất nghĩa trang, song song với việc bang đất, giúp Cục Quân Nhu chôn cất thì bắt đầu nhận công tác từ Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Tiếp Vận để xây cất Nghĩa Dũng Ðài vào Tháng Mười Một, 1967. Một kỳ thi được thực hiện phối hợp giữa Công Binh và trường đại học Kiến Trúc Sài Gòn. Có tất cả 54 đồ án dự tuyển. Ban chấm thi chọn đồ án gồm đại diện trường đại học Kiến Trúc, Tổng Cục Tiếp Vận, Chiến Tranh Chính Trị, Cục Quân Nhu, Cục Công Binh.
Trên nền đất phẳng, Công Binh cho đổ 10,000 thước khối đất làm thành một ngọn đồi nhân tạo. Ðại đội xe “benne” phải làm việc gần hai tháng.
Trên ngọn đồi nhỏ này, Công Binh xây bệ tròn, chính giữa là ngọn kiếm hướng mũi lên trời. Cây kiếm có thân bốn cánh hình chữ thập cao 43 thước. Chân của chữ thập đường kính 6 thước rưỡi và trên mũi nhọn là ba thước rưỡi, có bậc thang để leo lên đỉnh và đứng trên này sẽ nhìn thấy thành phố Sài Gòn.
Cây kiếm đúc bằng ciment cốt sắt từng tảng chồng lên nhau chịu được sức gió trên 120km/giờ. Phía dưới bệ đài xây ciment vòng chung quanh thành một vành khăn được gọi tên rất xúc động là Vành Khăn Tang. Trên Vành Khăn này dự trù sẽ có các công trình điêu khắc về các chiến công của Quân Ðội Việt Nam qua các thời đại. Từ thời Hùng Vương lập quốc đến các vị anh hùng chống xâm lăng phương Bắc rồi đến các chiến công của Việt Nam Cộng Hòa. Tất cả công trình xây cất nghĩa trang Quân Ðội gần như hoàn tất và riêng Nghĩa Dũng Ðài thì đã xong phần kiến trúc căn bản.
Cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975, những đơn vị kiến tạo của TÐ54 Công Binh vẫn còn hiện diện tại công trường. Một toán đặc phái công tác về sửa chữa Dinh Ðộc Lập vẫn còn thấy các vị cao cấp ra vào trước khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam.
Ngoài sự hy sinh đổ máu của Công Binh Chiến Ðấu, thêm bao nhiêu công thự, cầu đường do Công Binh Kiến Tạo góp phần trên toàn thể miền Nam thì công trường Dinh Ðộc Lập và công trường nghĩa trang Quân Ðội là các di sản hãnh diện của ngành Công Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Sau hơn 30 năm, cả hai công trình này và đặc biệt là Nghĩa Dũng Ðài vẫn tồn tại và hy vọng sẽ tồn tại vĩnh viễn. Nghĩa Dũng Ðài suốt 30 năm qua đã được bảo vệ bởi 16 ngàn tử sĩ ở lại nghĩa trang Quân Ðội.
Ðứng trên khu vực dưới chân Nghĩa Dũng Ðài nhìn xuống cả cánh đồng mộ chí bát ngát, vào thời điểm này, còn ít nhất là 8,000 tử sĩ nằm lại. Xa xa là Ðền Tử Sĩ. Quanh cảnh càng tiêu điều, càng hoang vu.
Nghĩa trang Quân Ðội thuộc Biên Hòa hay Bình Dương?
Trước năm 1975, toàn thể miền Nam có trên 50 nghĩa trang quân đội. Tiểu khu nào cũng có một khu mai táng tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa nhưng khi nói đến nghĩa trang quân đội, tất cả đều nghĩ đến nghĩa trang Biên Hòa.
Có lúc, nghĩa trang được gọi tên đầy đủ là nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa. Nói chuyện với người Hoa Kỳ thường phải dịch là nghĩa trang của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa tại Biên Hòa mới thật rõ ràng. Bởi vì không có “quân đội Biên Hòa.”
Sau Tháng Tư, 1975, ai cũng tưởng là khu nghĩa trang này đã bị cày nát san bằng. Ði xe trên xa lộ Biên Hòa, thấy bức tượng Thương Tiếc, thể hiện hình ảnh người lính ngồi nghỉ chân không còn nữa. Ai nấy đều nói rằng: “Thôi rồi, chúng nó phá hết rồi.” Từ ngoài nhìn vào, chỉ thấy cây cỏ um tùm, nhà dân xây cất che khuất cả một vùng phía bên này sông Ðồng Nai. Những tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa nằm trong lòng đất lạnh tưởng chừng bị quên lãng.
Ngay từ khi chiếm miền Nam, chính phủ Cộng Sản xếp khu nghĩa trang và doanh trại Liên Ðội Chung Sự là khu vực quân sự thuộc Bộ Quốc Phòng. Bộ Quốc Phòng giao cho Quân Khu 7 quản trị, có một đơn vị đóng doanh trại cạnh nghĩa trang Biên Hòa. Việc kiểm soát rất tùy tiện. Lúc dễ lúc khó. Tuy nhiên nói chung, thân nhân vẫn được vào tìm mộ thân nhân để chăm sóc. Một số đã bốc mộ đem về quê.
Ngày xưa trước khi thành lập Việt Nam Cộng Hòa, phần đất bên này sông Ðồng Nai gồm quận Dĩ An vốn thuộc về tỉnh Bình Dương. Tổ chức Việt cộng nằm vùng cũng theo ranh giới đó hoạt động. Tỉnh ủy Bình Dương chỉ huy du kích Dĩ An. Sau này quận Dĩ An được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sáp nhập vào tỉnh Biên Hòa khu nghĩa trang lại nằm cạnh xa lộ Biên Hòa nên mới có tên nghĩa trang Biên Hòa.
Bây giờ chính phủ Cộng Sản cho lệnh giao khu nghĩa trang từ Bộ Quốc Phòng cho bên chính quyền dân sự thì vẫn theo ranh giới hành chánh cũ từ hồi nằm vùng. Tỉnh Bình Dương nhận công tác quản trị nghĩa trang và sẽ dân sự hóa. Họ gọi là khu nghĩa trang Bình An, thuộc quận Lái Thiêu, tỉnh Bỉnh Dương.
Cộng Sản vào Sài Gòn, tượng Tiếc Thương bị giật sập, một số mộ bị phá phách nhưng thật sự không có chiến dịch ủi quang hay phá sập toàn diện. Cho đến nay, các kiến trúc chính thức gồm Cổng Tam Quan, Ðền Liệt Sĩ và Nghĩa Dũng Ðài vẫn còn y nguyên. Từ xa lộ Biên Hòa nhìn vào chỉ thấy cây cối um tùm và nhà dân che khuất nên nhiều người tưởng nghĩa trang không còn nữa.
Cơ quan IRCC, Inc., do cựu Ðại Tá Vũ Văn Lộc làm giám đốc, với các nhân viên tự nguyện về thăm gia đình tại Việt Nam đã đến thăm nghĩa trang hàng năm, tảo mộ và ghi lại hình ảnh. Sau đó, IRCC, Inc., nhờ các thương phế binh tổ đang sinh sống tại Việt Nam tảo mộ hàng năm. Hiện nay đã có nhiều ngôi mộ có thân nhân cải táng hay tu sửa. Số còn lại ước chừng từ 8 ngàn đến 10 ngàn ngôi mộ.
Trước thông tin chính thức do chính quyền Việt Nam công bố liên quan đến nghĩa trang Quân Ðội, và trong những đồn đoán về số phận của nghĩa trang đang gìn giữ 16,000 tử sĩ Việt Nam Cộng Hoa, ông Vũ Văn Lộc cùng một số thân hữu đã thực hiện một loạt bài viết có tên “Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa, Chuyện Kể Từ Ðầu.” Nay, Nhật Báo Người Việt, được sự cho phép của ông Vũ Văn Lộc và IRCC, Inc., xin trích đăng một phần lớn những thông tin này đến độc giả của mình.
Ai sáng lập Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa?
Nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa là sáng kiến của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Khi dự án xây dựng nghĩa trang, do Cục Quân Nhu phối hợp Công Binh, được trình lên Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Tiếp Vận. Dự án này được tiếp tục trình lên Bộ Quốc Phòng, thủ tướng, và rồi cuối cùng, được trình lên, và được tổng thống đồng ý.
Dự án xây dựng nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa liên quan đến đất đai và nhiều lãnh vực khác, nên cuối cùng, trở thành một đề tài liên bộ; từ Bộ Quốc Phòng, qua Bộ Công Chánh, Bộ Nội Vụ và liên quan cả đến Bộ Giáo Dục và Y Tế.
Ðến khoảng năm 1964, nghĩa trang Quân Ðội ở Gò Vấp trở nên chật hẹp, không gánh vác được sức nặng của chiến tranh. Trong khi ấy, chiến tranh gia tăng, phần lớn sĩ quan của khu vực thủ đô đều chôn ở nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi, Sài Gòn. Nơi đây, đất cũng bắt đầu khan hiếm và tốn kém. Nhu cầu chôn cất tử sĩ, không phân biệt cấp bậc, tại một nghĩa trang rộng lớn hơn đã được nghĩ tới.
Ðơn vị Chung Sự, chuyên lo hậu sự của những chiến sĩ đã nằm xuống, cũng có nhu cầu về cơ sở để hoạt động. Kiến nghị được trình lên cấp trên, thông qua hệ thống Cục Quân Nhu, Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Tiếp Vận. Các sĩ quan Quân Nhu, Công Binh, Ðịa Ốc Tổng Tham Mưu bay trực thăng trên không phận Thủ Ðức, Bình Dương, Biên Hòa, tay cầm bản đồ nghiên cứu địa thế thật đẹp dành làm nơi an nghỉ nhìn thu cho chiến hữu.
Quá trình xây cất nghĩa trang Biên Hòa
Sau nhiều lần sửa đổi, mô hình và khu đất được chọn xây nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa đã được Phủ Tổng Thống chấp thuận.
Khu đất rộng 125 mẫu Tây ở phía tay trái xa lộ Sài Gòn. Toàn thể khu nghĩa trang làm thành hình con ong vĩ đại nằm quay đầu ra xa lộ.
Giữa lưng con ong là Nghĩa Dũng Ðài cao 43 thước. Ðầu ong là đền thờ chiến sĩ, cũng có lúc gọi là Ðền Tử Sĩ hay Ðền Liệt Sĩ. Phía dưới chân đền là Cổng Tam Quan nối thẳng một đường dài ra xa lộ. Con đường này làm thành cây kim nhọn của con ong và đầu kim là bức tượng Thương Tiếc ngay cạnh xa lộ.
Từ chân Nghĩa Dũng Ðài, lưng ong chia làm hình nan quạt hướng ra 4 phía và làm thành lưới nhện. Phần đuôi ong hẹp, phần dưới dài ra như quả trứng. Các ngôi mộ giống nhau chia thành từng khu. Khu quốc gia dành cho các vị lãnh đạo, khu tướng lãnh, khu cấp tá, cấp úy và binh sĩ.
Một ngày đầu Xuân 1965, Thiếu Tướng Ðồng Văn Khuyên từ Bộ Tổng Tham Mưu gọi điện thoại cho Ðại Tá Nguyễn Thiện Nghị, liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 30 Công Binh Kiến Tạo đóng tại Hóc Môn. Sau đó chiếc xe ủi đất đầu tiên của Tiểu Ðoàn 54 Công Binh bắt đầu công tác.
Rồi doanh trại của Liên Ðội Chung Sự và khu nhà xác được thiết dựng năm 1966 để nhận những di hài tử sĩ đầu tiên.
Nghĩa trang được xây dựng trong chiến tranh với sự phối hợp giữa Quân Nhu và Công Binh. Công Binh tiếp tục làm đường, phân lô, xây Cổng Tam Quan, xây Ðền Liệt Sĩ, đúc các tấm ciment và làm mộ bia.
Quân Nhu nhận tử sĩ từ mặt trận chở về ngày đêm để chôn cất. Trận Mậu Thân, trận Mùa Hè, trận Hạ Lào, trận Cambodia. Tử sĩ của các đơn vị tổng trừ bị đem về từ 4 quân khu. Tử sĩ của quân khu thủ đô và các tiểu khu lân cận. Tử sĩ của các quân chủng, nữ quân nhân, thiếu sinh quân, tất cả đều nằm trong lòng đất Biên Hòa.
Tử sĩ chôn từ trung tâm Nghĩa Dũng Ðài lần lượt ra các khu bên ngoài. Ðã có trên 10 tướng lãnh nằm tại nghĩa trang Biên Hòa kể cả các vị đại tá vinh thăng sau khi tử trận. Người có cấp bậc cao cấp nhất là cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí. Hiện nay ngôi mộ này đã được gia đình cải táng nhưng vị trí cũ vẫn còn di tích.
Nghĩa Dũng Ðài và kiến trúc công trình Nghĩa Trang
Nghĩa trang Quân Ðội tại Biên Hòa có nhiều công trình xây cất đáng kể.
Trước hết là bức tượng Thương Tiếc, thể hiện hình ảnh người lính Việt Nam Cộng Hòa ngồi nghỉ chân trên bệ đá, súng để ngang trên đùi, nét mặt buồn và rất Việt Nam. Câu chuyện về bức tượng này đã được kể lại nhiều lần. Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, tượng này bị chính quyền cộng sản giật sập. Phóng viên ngoại quốc có chụp được hình. Tin sau cùng cho biết bức tượng đã đưa vào kho tại quận Dĩ An và sau cùng có thể bị nấu ra lấy đồng và không còn vết tích.
Tác giả của pho tượng này là điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, lấy hình người mẫu là một binh sĩ nhảy dù. Hiện nay ông Thu, nguyên là một sĩ quan Quân Nhu, theo đặc san của ngành này cho biết, đã trở về Việt Nam “để tìm cách thực hiện lại bức tượng Thương Tiếc.”
Ngoài bức tượng kể trên, trên đường vào nghĩa trang, đi theo con đường chánh xuyên tâm, lên dốc cao, phải qua Cổng Tam Quan, một công trình xây cất giản dị nhưng bề thế và chân phương. Giữa cảnh hoang tàn rêu phong hiện nay, Cổng Tam Quan vẫn giữ được đường nét vững vàng và gần như còn nguyên vẹn.
Qua Cổng Tam Quan, con đường dẫn đến ngôi Ðền Tử Sĩ trên một ngọn đồi nhỏ có 4 lối lên bốn phía. Ðây là nơi để linh cữu các vị tướng lãnh trước khi chôn cất. Ðây cũng là nơi khi tổng thống, thủ tướng hay các giới chức cao cấp chủ tọa các buổi lễ chiêu hồn tử sĩ.
Tháng Ba, 1975, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm lên thăm viếng và làm lễ đặt vòng hoa. Không ai biết rằng đây là lần sau cùng.
Cũng tại đây và tại Vành Khăn Tang của Nghĩa Dũng Ðài là nơi các toán quân danh dự canh gác theo nghi lễ. Các quân nhân từ các quân binh chủng mặc sắc phục được điều động về theo đơn xin và có đủ điều kiện. Vóc dáng trẻ trung, khỏe mạnh, cao lớn, đoàn quân này được huấn luyện để canh gác và biểu diễn các thao tác nghi lễ như các đoàn quân danh dự tại nghĩa trang Arlington Hoa Kỳ.
Sau Ðền Liệt Sĩ, phải đi một đoạn rất dài mới đến đỉnh một dải đất cao, chính giữa trung tâm là Nghĩa Dũng Ðài. Ðây là công trình quan trọng nhất mà Công Binh Việt Nam đã thực hiện.
Cục Công Binh sau khi khởi công xây cất nghĩa trang, song song với việc bang đất, giúp Cục Quân Nhu chôn cất thì bắt đầu nhận công tác từ Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Tiếp Vận để xây cất Nghĩa Dũng Ðài vào Tháng Mười Một, 1967. Một kỳ thi được thực hiện phối hợp giữa Công Binh và trường đại học Kiến Trúc Sài Gòn. Có tất cả 54 đồ án dự tuyển. Ban chấm thi chọn đồ án gồm đại diện trường đại học Kiến Trúc, Tổng Cục Tiếp Vận, Chiến Tranh Chính Trị, Cục Quân Nhu, Cục Công Binh.
Trên nền đất phẳng, Công Binh cho đổ 10,000 thước khối đất làm thành một ngọn đồi nhân tạo. Ðại đội xe “benne” phải làm việc gần hai tháng.
Trên ngọn đồi nhỏ này, Công Binh xây bệ tròn, chính giữa là ngọn kiếm hướng mũi lên trời. Cây kiếm có thân bốn cánh hình chữ thập cao 43 thước. Chân của chữ thập đường kính 6 thước rưỡi và trên mũi nhọn là ba thước rưỡi, có bậc thang để leo lên đỉnh và đứng trên này sẽ nhìn thấy thành phố Sài Gòn.
Cây kiếm đúc bằng ciment cốt sắt từng tảng chồng lên nhau chịu được sức gió trên 120km/giờ. Phía dưới bệ đài xây ciment vòng chung quanh thành một vành khăn được gọi tên rất xúc động là Vành Khăn Tang. Trên Vành Khăn này dự trù sẽ có các công trình điêu khắc về các chiến công của Quân Ðội Việt Nam qua các thời đại. Từ thời Hùng Vương lập quốc đến các vị anh hùng chống xâm lăng phương Bắc rồi đến các chiến công của Việt Nam Cộng Hòa. Tất cả công trình xây cất nghĩa trang Quân Ðội gần như hoàn tất và riêng Nghĩa Dũng Ðài thì đã xong phần kiến trúc căn bản.
Cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975, những đơn vị kiến tạo của TÐ54 Công Binh vẫn còn hiện diện tại công trường. Một toán đặc phái công tác về sửa chữa Dinh Ðộc Lập vẫn còn thấy các vị cao cấp ra vào trước khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam.
Ngoài sự hy sinh đổ máu của Công Binh Chiến Ðấu, thêm bao nhiêu công thự, cầu đường do Công Binh Kiến Tạo góp phần trên toàn thể miền Nam thì công trường Dinh Ðộc Lập và công trường nghĩa trang Quân Ðội là các di sản hãnh diện của ngành Công Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Sau hơn 30 năm, cả hai công trình này và đặc biệt là Nghĩa Dũng Ðài vẫn tồn tại và hy vọng sẽ tồn tại vĩnh viễn. Nghĩa Dũng Ðài suốt 30 năm qua đã được bảo vệ bởi 16 ngàn tử sĩ ở lại nghĩa trang Quân Ðội.
Ðứng trên khu vực dưới chân Nghĩa Dũng Ðài nhìn xuống cả cánh đồng mộ chí bát ngát, vào thời điểm này, còn ít nhất là 8,000 tử sĩ nằm lại. Xa xa là Ðền Tử Sĩ. Quanh cảnh càng tiêu điều, càng hoang vu.
Nghĩa trang Quân Ðội thuộc Biên Hòa hay Bình Dương?
Trước năm 1975, toàn thể miền Nam có trên 50 nghĩa trang quân đội. Tiểu khu nào cũng có một khu mai táng tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa nhưng khi nói đến nghĩa trang quân đội, tất cả đều nghĩ đến nghĩa trang Biên Hòa.
Có lúc, nghĩa trang được gọi tên đầy đủ là nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa. Nói chuyện với người Hoa Kỳ thường phải dịch là nghĩa trang của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa tại Biên Hòa mới thật rõ ràng. Bởi vì không có “quân đội Biên Hòa.”
Sau Tháng Tư, 1975, ai cũng tưởng là khu nghĩa trang này đã bị cày nát san bằng. Ði xe trên xa lộ Biên Hòa, thấy bức tượng Thương Tiếc, thể hiện hình ảnh người lính ngồi nghỉ chân không còn nữa. Ai nấy đều nói rằng: “Thôi rồi, chúng nó phá hết rồi.” Từ ngoài nhìn vào, chỉ thấy cây cỏ um tùm, nhà dân xây cất che khuất cả một vùng phía bên này sông Ðồng Nai. Những tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa nằm trong lòng đất lạnh tưởng chừng bị quên lãng.
Ngay từ khi chiếm miền Nam, chính phủ Cộng Sản xếp khu nghĩa trang và doanh trại Liên Ðội Chung Sự là khu vực quân sự thuộc Bộ Quốc Phòng. Bộ Quốc Phòng giao cho Quân Khu 7 quản trị, có một đơn vị đóng doanh trại cạnh nghĩa trang Biên Hòa. Việc kiểm soát rất tùy tiện. Lúc dễ lúc khó. Tuy nhiên nói chung, thân nhân vẫn được vào tìm mộ thân nhân để chăm sóc. Một số đã bốc mộ đem về quê.
Ngày xưa trước khi thành lập Việt Nam Cộng Hòa, phần đất bên này sông Ðồng Nai gồm quận Dĩ An vốn thuộc về tỉnh Bình Dương. Tổ chức Việt cộng nằm vùng cũng theo ranh giới đó hoạt động. Tỉnh ủy Bình Dương chỉ huy du kích Dĩ An. Sau này quận Dĩ An được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sáp nhập vào tỉnh Biên Hòa khu nghĩa trang lại nằm cạnh xa lộ Biên Hòa nên mới có tên nghĩa trang Biên Hòa.
Bây giờ chính phủ Cộng Sản cho lệnh giao khu nghĩa trang từ Bộ Quốc Phòng cho bên chính quyền dân sự thì vẫn theo ranh giới hành chánh cũ từ hồi nằm vùng. Tỉnh Bình Dương nhận công tác quản trị nghĩa trang và sẽ dân sự hóa. Họ gọi là khu nghĩa trang Bình An, thuộc quận Lái Thiêu, tỉnh Bỉnh Dương.
Lịch sử nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa |
Ai đã bảo toàn nghĩa trang trong 30 năm qua?
Sau 30 Tháng Tư, 1975, miền Bắc chiếm đóng
miền Nam. Ngành nào theo ngành đó, binh chủng nào theo binh chủng đó. Tự
do chiếm giữ các tài sản công thự của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Cái gì của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa thì quân đội nhân dân Việt Cộng
vào chiếm. Bộ Y Tế Cộng Sản lãnh các nhà thương và cơ sở y tế. Giáo dục
theo giáo dục. Thành ủy chiếm tòa thị chính. Phía quân đội cũng như thế.
Duy có hai nơi không đơn vị và thủ trưởng nào vào nhận lãnh, vì vậy vẫn
còn cho đến ngày nay. Ðó là Dinh Ðộc Lập và nghĩa trang Quân Ðội Biên
Hòa.
Trung Ương Ðảng ở Hà Nội không muốn vào
chiếm đóng Dinh Ðộc Lập. Cơ sở đứng đầu chính phủ cộng sản miền Nam cũng
không cảm thấy đủ tư cách tranh lấy một dinh thự nổi tiếng ở Ðông Nam
Á. Vì vậy, Dinh Ðộc Lập bỏ trống trở thành di tích lịch sử. Nghĩa trang
Biên Hòa ở cùng một hoàn cảnh. Sau này chính quyền cộng sản đã tìm một
khu đất gần xa lộ Biên Hòa để xây dựng nghĩa trang liệt sĩ cho chiến
binh miền Bắc.
Từ 1980, chính thân nhân của tử sĩ, trong
tình cốt nhục “mở cuộc chiến mới.” Không cần lãnh đạo, không cần chỉ
huy, không cần lý luận, những người vợ đi tìm mộ chồng, người con đi tìm
mộ cha, gia đình đi tìm mộ của người thân yêu. Một lần không được thì
hai lần. Ngày qua ngày, con đường nghĩa trang xưa mở ra những lối mòn.
Xe ôm đi tảo mộ. Ði xe ngựa lên tảo mộ.
Từ Cà Mau, gia đình vợ con Hạ Sĩ Dương Chu
đã gồng gánh lên ngủ đường để cải táng đem di hài người lính Cộng Hòa về
chôn ở Ðầm Dơi. Nơi đầm lầy mỗi lần lên Cà Mau phải đi tàu mất nửa
ngày. Cứ như thế gần 8,000 gia đình đã thăm viếng và cải táng người thân
trong suốt 30 năm dài.
Họ không quên người đã chết, họ đến với nghĩa trang và họ đã làm cho nghĩa trang tồn tại.
Bây giờ vẫn còn gần 10,000 ngôi mộ. Có gia
đình thân nhân kiên quyết không bốc mộ, để người chiến sĩ ở lại chiến
trường. Cũng có khi thân nhân chẳng còn ai. Bia mộ có tên mà trở thành
vô danh. Cũng có gia đình nghèo khổ không có phương tiện. Nhưng hàng
ngày, hàng năm, vẫn còn những người trở lại thăm viếng. Họ ở cùng khắp
trên đất nước và họ ở cùng khắp trên địa cầu. Rất kiên trì và âm thầm,
qua tình cốt nhục gia đình, những người còn lại không cầm vũ khí đã tiếp
tục giữ mãi phòng tuyến cuối cùng trong lòng địch.
Ðó là câu trả lời, vì đâu nghĩa trang Biên Hòa vẫn còn tồn tại và ai là người đã bảo toàn.
Thăm viếng và tảo mộ nghĩa trang Biên Hòa sau 1975
Một sĩ quan vô danh đã lên thăm nghĩa trang
ngay sau 30 Tháng Tư, 1975. Sau đó, ông còn trở lại sau 8 năm cải tạo.
Ông cho biết năm 1975 có 8 vị tướng lãnh; là các vị Trí, Hiếu, Ánh,
Soạn, Ðồng, Phước, và hai vị nữa. Ðại Tá Phước, quân đoàn 4 chôn ở khu
tướng lãnh vì được truy thăng. Gia đình đã chuẩn bị bốc mộ năm 1980
nhưng cho biết ông về báo mộng yêu cầu nằm lại với anh em nên bây giờ
gia đình chỉ lên chăm sóc hàng năm.
Cũng theo vị sĩ quan này, trên con đường
chính giữa, gần Nghĩa Dũng Ðài có ngôi mộ đề là Vô Danh số 1. Bia đã bị
lật nghiêng, khi thấy công an và lính Cộng Sản vắng mặt, các cựu chiến
binh Cộng Hòa đã tìm cách chôn trở lại vào vị trí cũ.
Ðại Tá Lê Ðình Luân, gốc Thừa Thiên, nguyên
chỉ huy trưởng đơn vị Quân Báo 101 Bộ Tổng Tham Mưu, 17 năm tù cải tạo
khi ra tù đã luẩn quẩn nhiều ngày tại nghĩa trang Quân Ðội. Ông Luân là
người đã đem bản báo cáo đầy đủ về Nghĩa Trang Quân Ðội đến San Jose vào
năm 1998.
Ðặc biệt, tất cả các thương phế binh Ðặc Khu
Sài Gòn-Gia Ðịnh đều nghe nói đến Thượng Sĩ Công Binh Nhảy Dù Trần Văn
Tảo. Ông Tảo là trưởng toán công tác tảo mộ tại nghĩa trang Quân Ðội, do
IRCC, Inc. ủy nhiệm, suốt 10 năm từ 1994 đến 2004.
Những năm sau này, tình hình dễ dàng hơn,
toán công tác của ông Tảo từ 15 đến 20 người thuê xe lên làm cỏ từng
vùng. Những lúc khó khăn thì đi từng nhóm lẻ tẻ. Ông thông thạo địa thế,
quen biết với cư dân địa phương và các thành phần an ninh trật tự. Năm
nào ông cũng tổ chức nhiều lần, quay phim, chụp hình đầy đủ. Hoạt động
với tính các dân địa phương, tảo mộ gia đình nên hoàn toàn thành công
tốt đẹp.
Nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa, có thể
nói, là sáng kiến của chính những người đã vĩnh viễn nằm xuống. Trong
suốt hơn 30 năm qua, chính 16,000 ngàn tử sĩ tại đây đã gìn giữ nghĩa
trang này; sau khi đã hy sinh cuộc sống để gìn giữ tổ quốc.
Thi sĩ Thanh Nam đã viết vần thơ sau đây dâng tặng hương hồn tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa, sau 30 Tháng Tư, 1975.
... Ta như người lính thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn, truy điệu mộng xưa…
Bây giờ thi sĩ cũng đã trở thành cây cỏ gục
ven bờ, vì vậy phải ghi lại rằng chính người chiến sĩ đã chết là những
người có sáng kiến thành lập nghĩa trang Quân Ðội. Nơi yên nghỉ ngàn thu
của chính tử sĩ.
Xem thêm : Ảnh về NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA – BIÊN HÒA, VIỆT NAM
Xem thêm : Ảnh về NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA – BIÊN HÒA, VIỆT NAM
|
No comments:
Post a Comment