Ký giả Huyền Vũ
Đối
với hầu hết những người Việt Nam, nhất là những người hâm mộ bóng tròn
kể từ năm 1975 trở về trước, không ai là không biết hoặc không nghe
giọng nói của Huyền Vũ, một ký giả kiêm bình luận viên trực tiếp truyền
thanh các trận bóng đá trong suốt một phần tư thế kỷ vừa qua.
Trong
những buổi tường thuật trực tiếp truyền thanh, ký giả Huyền Vũ, tên
thật là Nguyễn Ngọc Nhung, đã khiến cho người nghe, dù ở thành thị hay
vùng thôn quê xa xôi hẻo lánh, đều có cảm tưởng như mình đang hiện diện
ngay tại sân cỏ để chứng kiến những pha gay cấn trong cuộc tranh tài.
Giọng
nói miền Nam của ông có sức thu hút lạ lùng, khi thì ung dung như quả
bóng đang lăn chậm chạp trên sân cỏ, khi thì dồn dập như mưa sa bão táp
cuốn hút người nghe vào những pha công phá đang diễn ra sôi nổi trước
khung thành. Cứ sau mỗi pha đầy gay cấn như vậy thì người ta lại nghe
ông kể lại cách sắp xếp của hàng tấn công và hàng phòng thủ của 2 đội,
chẳng khác nào một cuốn phim được quay chậm trở lại trên màn ảnh để khán
giả có thể biết được một cách rõ ràng hơn.
Huyền
Vũ dùng những cụm từ mà những người theo dõi qua radio không thể nào
quên: khi trận đấu chưa có bàn thắng, ông dùng cụm từ ‘màng lưới đôi bên vẫn còn trinh bạch’, khi cầu thủ sút bóng không vào gôn, ông bình luận thêm ‘vượt cầu môn trong gang tấc’ hoặc ‘bỏ lỡ cơ hội bằng vàng’…
Hồi xưa
chưa có truyền hình, được nghe Huyền Vũ trực tiếp truyền thanh qua radio
là một niềm say mê đối với những người ghiền túc cầu…
Ngầu đang lừa banh… qua rồi… truyền lại cho Há… Liêm đã sẵn sàng ở phiá sau… cú sút như trái phá… nhưng ‘quả da’ đụng khung thành bật ra trong gang tấc…
Ngay cả
trong lúc dự những trận đấu tại sân Tao Đàn hoặc trên sân Cộng Hòa (ngày
nay là sân Thống Nhật) thì ngoài việc coi trực tiếp những trận banh
diễn ra trên sân cỏ, một số người còn mang thêm radio transistor để nghe
Huyền Vũ mô tả tên cầu thủ, những đường banh lắt léo, và những lời bình
luận độc đáo của ông. Huyền Vũ mất ngày 24/8/2005 tại Hoa Kỳ, hưởng thọ
90 tuổi.
Ngày
xưa, bóng đá được người Sài Gòn gọi nôm na là đá banh hay văn hoa hơn
là túc cầu. VNCH thời 1966 đã từng đoạt cúp Merdeka của Malaysia, khi đó
đội tuyển được đặt dưới sự dìu dắt của huấn luyện viên Weigang, người
Đức. Đội hình ra sân có thủ môn Lâm Hồng Châu, hậu vệ gồm Phan Dương Cẩm
(tự Hiển), Nguyễn Văn Có, Phạm Huỳnh Tam Lang, Lại Văn Ngôn (II), giữ
vị trí tiền vệ có Đỗ Thới Vinh, Nguyễn Ngọc Thanh và hàng tiền đạo gồm
Nguyễn Văn Ngôn (I), Nguyễn Văn Chiêu, Lê Văn Đức, Trần Chánh.
Trận
chung kết giải Merdeka có khoảng 40,000 khán giả ngồi kín Sân Vận động
Quốc gia với sự chủ tọa của Quốc vương Mã Lai và Thủ tướng Abdulraman.
Đội tuyển VNCH ra sân trong màu áo vàng, quần trắng, vớ vàng, được sự cổ
vũ nồng nhiệt của khán giả Malaysia, nhất là tiền vệ Đỗ Thới Vinh,
người dễ nhận ra nhất trong đội hình Việt Nam với cái đầu hói và những
pha lừa bóng điệu nghệ cùng những cử chỉ pha trò có duyên của anh trên
sân cỏ đã thu được cảm tình của khán giả và báo chí nước chủ nhà.
Với
ý chí quyết tâm, toàn đội Việt Nam đã ‘ăn miếng trả miếng’ trong trận
chung kết với đội Miến Điện (ngày nay gọi là Myanmar) một cách xuất sắc.
Tuy nhiên, hiệp một chấm dứt mà không bên nào mở được tỉ số.
Sang
đến hiệp hai, cơ hội bằng vàng đến với đội tuyển VNCH ở phút 72. Từ
đường chuyền của thủ quân Phạm Huỳnh Tam Lang, Nhà Ảo Thuật Đỗ Thới Vinh
khéo léo dẫn banh qua hai cầu thủ Miến Điện, mở bóng xuống vừa đúng tầm
để trung phong Nguyễn Văn Chiêu băng xuống.
Chiêu
dùng ngực hứng bóng, xoay người, tung quả sút hiểm hóc từ xa 25 mét
bằng chân trái, bóng đi như ánh chớp vào góc thượng của khung thành Miến
Điện trước sự ngỡ ngàng của Đệ nhất Thủ môn Á Châu thời bấy giờ là Tin
Tin An, mở tỷ số 1-0 cho Đội tuyển Việt Nam. Bàn thắng này cũng là tỷ số
chung cuộc của trận đấu và là bàn thắng đáng giá ngàn vàng đưa đội
tuyển VNCH lên ngôi Vô địch Giải Túc cầu Merdeka 1966 tại Mã Lai.
Trung
phong Nguyễn Văn Chiêu và tiền vệ Đỗ Thới Vinh là đôi bạn thân thiết
cùng chung màu áo từ đội Quan Thuế rồi khi vào quân ngũ cả hai đá cho
Đội Tổng tham mưu. Giải ngũ, cả hai trở về đội Quan Thuế và cùng đá
trong đội tuyển quốc gia. Cuộc đời hai anh gắn liền cả chục năm trời bên
nhau trên sân cỏ.
Tại
Giải Merdeka năm 1966, Vinh và Chiêu là hai người lập công trạng lớn
nhất đem vinh quang về cho Việt Nam. Giờ đây, hai anh kẻ trước người sau
ra đi trong âm thầm, thiếu vắng đồng đội tiễn đưa, không một lời ai
điếu nhắc lại thời huy hoàng của trên sân cỏ.
Nguyễn
Văn Chiêu đã vĩnh viễn ra đi năm 1987 tại Long Thành trong hoàn cảnh
thương tâm, chỉ có người vợ cùng mấy người con khóc nghẹn trước thân xác
lạnh lẽo của chồng và cha trong căn chòi lá nằm sâu trong một góc vắng
của thị xã Long Thành. Đám tang anh vội vã, không kèn không trống. Mộ
phần không tiền xây cất, đắp đất sơ sài.
Tiền vệ
Đỗ Thới Vinh cũng mất tại Việt Nam năm 1995 vì bệnh tiểu đường. Anh là
nhân vật tên tuổi trong giới túc cầu được nhiều người ái mộ từ trong
nước ra tới hải ngoại nhưng anh cũng âm thầm ra đi trong hoàn cảnh đơn
chiếc, túng thiếu.
Lão
tướng Quách Hội, 73 tuổi, kể về chiếc Cúp Merdeka năm 1966 như sau: “Năm
1995, một sáng tôi đi ngang một tiệm bán đồ lạc-xon trên đường Hải
Thượng Lãn Ông, tình cờ tôi nhìn thấy, bày trong số đồ bán của tiệm,
chiếc Cúp Vô Địch Giải Túc Cầu Merdeka mà Đội Tuyển Túc Cầu Việt Nam
Cộng Hoà, trong đội có tôi, đoạt được năm 1966 tại Malaysia.
Người
chủ tiệm nói chắc giá 5 triệu đồng. Không có tiền, tôi đứng trước tiệm
lạc-xon ấy từ sáng đến trưa với hi vọng có bạn đồng đội cũ nào đi ngang
thì báo tin để kêu gọi anh em góp tiền mua lại chiếc Cúp. Chờ mãi không
gặp được ai, tôi đi về mà nước mắt ứa ra vì tiếc cho kỷ vật ghi lại
chiến tích một thời của anh em chúng tôi. Không biết giờ này chiếc Cúp
Merdeka của anh em chúng tôi lưu lạc về đâu.”
Cũng
phải nói thêm về thủ môn Phạm Văn Rạng đã một thời nổi tiếng với danh
hiệu Lưỡng thủ vạn năng vẫn sống mãi trong ký ức của những người hâm mộ
bóng đá thuộc lứa tuổi U-60 và U-70. Năm 1949, từ vai trò trung phong
của trường Việt Nam Học đường ông bất ngờ trở thành người giữ khung
thành khi thủ môn chính thức không thể ra sân.
Năm 1951
Phạm Văn Rạng được đội Ngôi sao Bà Chiểu của ông bầu Võ Văn Ứng mời về
giữ khung thành, rồi chỉ hai năm sau được chọn làm thủ môn cho đội tuyển
Thanh Niên. Năm 1953 bị động viên, ông trở thành người trấn giữ khung
thành cho đội Tổng Tham mưu. Cùng năm đó, ông được tuyển vào đội tuyển
VNCH, khi mới 19 tuổi và khoác áo đội tuyển cho đến năm 1964 thì giải
nghệ.
Năm
1966, dù đã 31 tuổi, ông vẫn được mời vào đội tuyển Ngôi sao châu Á
(All Stars Team of Asia), bởi vị trí thủ môn chưa có cầu thủ nào của
châu Á có thể cạnh tranh được. Đội Ngôi sao châu Á do cựu danh thủ Lý
Huệ Đường làm HLV trưởng, trợ lý HLV là ông Peter Velappan (hiện nay là
Tổng Thư ký LĐBĐ châu Á).
Sau
khi được các đồng đội như Tam Lang, Dương Văn Thà, Võ Thành Sơn, Tư Lê,
Hồ Thanh Cang cùng nhiều người hâm mộ đã giúp đỡ xây dựng cho một ngôi
nhà cấp 4 tại sân bóng Thuận Kiều, thủ môn huyền thoại Phạm Văn Rạng đã
qua đời vào tháng 11 năm 2008. Tôi còn nhớ, ngày xưa mỗi khi họp nhau đá
bóng, bọn trẻ chúng tôi luôn luôn bàn cãi trong việc chọn lựa ai sẽ là…
Gôn Rạng! Hai chữ Gôn Rạng đã đi vào đầu óc non trẻ của chúng tôi trong
ngôn ngữ hàng ngày.
Tại
sân vận động Cộng Hòa vào giữa tháng 12/1967 có Giải Túc cầu Thân hữu
Việt-Mỹ. Từ Mỹ sang là đội Dallas Tornado, họ đấu 2 trận, trận thứ nhất
gặp Hội tuyển Thanh niên ngày 14/12/1967 và trận thứ nhì ngày 16/12/1967
gặp Hội tuyển Sài Gòn. Trận gặp đội tuyển có tới 20.000 khán giả đến
chật kín sân vận động và kết quả 2 đội hòa nhau 1-1.
Đặc
biệt vào thời xưa, trước các trận đấu chính luôn luôn có các trận mở
màn để các đội bóng thanh thiếu niên hoặc lão tướng có dịp ra sân trình
diễn trước khán giả. Tôi nghĩ, đây là một việc làm rất tốt của Tổng cục
Túc cầu Việt Nam thời đó, một mặt khuyến khích các đội trẻ mặt khác phục
vụ khán giả một cách tận tình bằng những ‘bữa tiệc’ túc cầu có nhiều
món khác nhau. Điều này, bóng đá sau năm 1975 không hề có.
Trở
lại chuyện mê đá bóng của tôi hồi còn đi học. Túc cầu cũng mang lại cho
tôi nhiều rắc rối. Đá bóng vào giờ nghỉ trưa thì không sao nhưng những
trận đấu sau giờ học chiều mới có chuyện vì khi đó chắc chắn sẽ về nhà
muộn.
Tàn
trận bóng mới bắt đầu lo vì đường từ trường Trần Hưng Đạo về đến khu
Hòa Bình quá xa mà lại còn phải đi bộ. Đến bến xe đò đi Trại Hầm trước 6
giờ thì may còn kịp chuyến xe chót về nhà và nếu không còn xe thì đành
cuốc bộ.
Như
vậy, cuốc bộ suốt con đường từ trường về nhà, tròm trèm 6km, cũng mất
độ gần 2 tiếng. Về đến nhà còn phải nghĩ ra lý do để giải thích: có việc
đột xuất ở trường nên thầy giáo cho về trễ hoặc không hiểu sao xe đò
lại nghỉ sớm, nhưng hoàn toàn không bao giờ có lý do… mê đá bóng.
Bây
giờ tuổi đã già, niềm say mê bóng đá vẫn còn đó nhưng chỉ thể hiện qua
việc xem bóng đá trên TV vào những ngày cuối tuần. Bóng đá Việt Nam vẫn
chưa đi vào chuyên nghiệp, cầu thủ đa số là những người có chút ít kỹ
thuật nhưng lại không được đào tạo về văn hóa còn khán giả phần đông là
những người trẻ, họ đến sân với một tinh thần ‘cay cú, ăn thua’. Những
khán giả chân chính chỉ còn biết ngồi nhà xem TV để không phải ‘tai
nghe, mắt thấy’ những hành động thiếu văn hóa diễn ra trên sân cỏ!
(Trích Nguyễn Ngọc Chính, Hồi Ức Một Đời Người – Chương 2: Thời niên thiếu)
***
2. Tam Lang và hào quang của túc cầu VNCH
Vũ Tứ Lang
Danh thủ Tam Lang đã qua đời chỉ vài tuần trước khi World Cup mở màn.
Tên
thật là Phạm Huỳnh Tam Lang, ông sinh năm 1942 ở Gò Công, năm 1955 lên
Sài Gòn và thi đậu vào trường Petrus Ký, được một người đồng hương là
Nguyễn Văn Tư cưu mang.
Duyên
may, người đồng hương này là cầu thủ nổi tiếng của làng bóng Sài Gòn
với biệt danh “mũi tên vàng đội AJS”. Nguyễn Văn Tư đưa Tam Lang về nhà ở
và dìu dắt vào nghiệp cầu thủ: buổi sáng đi học, buổi chiều cùng ông
đến tập luyện với đội bóng.
Sau
khi vừa học chữ vừa luyện bóng năm năm, năm 1949 Tam Lang được nhận vào
đội tuyển thiếu niên Nam Việt Nam cùng với Võ Bá Hùng, Phạm Văn Lắm,
Nguyễn Văn Ngôn, Quan Kim Phụng…. Từ đội tuyển thiến niên, năm 1960 Tam
Lang được nhận vào đội tuyển VNCH, tức lúc chỉ có 19 tuổi. Đến năm 1966
khi chuẩn bị đi Malaysia dự Merdeka Cup, Tam Lang được HLV Waigang chọn
làm thủ quân.
Tuy
nhiên đội tuyển chỉ tập trung trong các dịp thi đấu quốc tế và phần lớn
thời gian Tam Lang đứng trong đội hình chính thức của đội bóng Cảnh sát
Quốc gia: ngoài những phụ cấp cho một cầu thủ, trong sổ lương ông ăn
lương trung sĩ cảnh sát.
Trận
chung kết Merdeka 1966 đội VNCH gặp đội Miến Điện, mà lúc đó VNCH lại
có cái “huông” thua Miến Điện giống như VN thường thua Thái Lan mấy năm
nay. Theo hồi ức của người dự trận thì Tam Lang đã đá trận này không chỉ
bằng chân mà bằng miệng: từ vị trí hậu vệ, Tam Lang đã hò hét khản cổ
để điều quân chống trả những đợt tấn công sấm sét của đội Miến, đặc biệt
khi VNCH chuyển từ thế công ở đội hình 1-4-2-4 sang thế thủ 1-4-3-2-1
sau khi ghi được một bàn thắng.
Thời
đó Tam Lang nổi tiếng nhờ lối đá mà báo chí Sài Gòn gọi là “mạnh mẽ,
quyết liệt nhưng hào hoa, lịch thiệp” với những pha bật tường nhỏ và rất
nhuyễn. Đặc biệt Tam Lang có một kỹ thuật độc chiêu là miếng xỉa từ
phía sau để cướp bóng mà báo chí thời đó gọi là miếng “bọ cạp nước”.
Xỉa
người chuồi chân để cướp bóng từ phía sau là động tác nguy hiểm vì dễ
gây lỗi khi đụng chân đối thủ, dễ bị trọng tài nhìn nhầm và do đó dễ ăn
thẻ vàng hay thậm chí thẻ đỏ. Tuy nhiên theo người thời đó thì dù chạy
sau đối phương ở khoảng cách từ 2 tới 3 mét, Tam Lang vẫn có thể phóng
người bay lên rồi chuồi chân để cướp bóng rất chính xác. Họ cho biết
thời đó người Nhật đã quay đi quay lại “ngón” này của Tam Lang để mang
về làm tài liệu luyện tập cho cầu thủ của mình.
Sau ngày
30-4-1975, Tam Lang chơi trong đội Cảng Sài Gòn và đã tham gia trận ra
mắt trong trận đấu giao hữu với Hải Quan (hậu thân của đội Quan Thuế)
trên sân Thống Nhất. Năm 1980, Tam Lang giã từ đời cầu thủ, thăng lên
làm HLV phó cho đội Cảng Sài Gòn rồi được đưa sang Đông Đức để theo học
một khóa huấn luyện viên.
Tại sao một “trung sĩ cảnh sát” lại được ưu ái cho đi du học trong thời điểm này?
Điều
này có nhiều lý do. Một phần, chính sách của Sài Gòn dưới thời ông Võ
Văn Kiệt có phần cởi mở hơn là bộ sậu trung ương ở Hà Nội, bằng cách “xử
đẹp” với người nổi tiếng của VNCH như Tam Lang, ông sẽ có thể giữ lại
được nhiều nhân tài đang nhấp nhổm vượt biên. Mặt khác, dù sao thì lúc
này Tam Lang cũng “kiếm” được một lý lịch khá tốt: bố là “liệt sĩ” chống
Pháp.
Năm
1981 Tam Lang trở về nắm chức HLV trưởng đội Cảng Sài Gòn và giúp đội
này đoạt bốn danh hiệu vô địch quốc gia (1986, 1993-1994, 1997,
2001-2002), ba lần đoạt cúp quốc gia và hàng loạt cúp vô địch Sài Gòn,
vô địch giải bóng đá các tỉnh thành phía Nam.
Cũng xin nói thêm: năm 1993 “cựu trung sĩ cảnh sát quốc gia” Phạm Huỳnh Tam Lang được kết nạp, trở thành đảng viên ĐCSVN.
Năm
1997 Tam Lang chính thức giữ vai trò HLV phó đội tuyển quốc gia dưới
quyền HLV trưởng Colin Murphy (HCĐ SEA Games 1997), Alfred Riedl (HCB
Tiger Cup 1998, HCB SEA Games 1999, Tiger Cup 2000, Dido SEA Games
2001).
Tháng 9-1982 chính thức làm HLV đội Cảng Sài Gòn cho đến nay với bốn lần đội đoạt chức vô địch quốc gia: 1986, 1994, 1997, 2002
Năm
2003, đội Cảng Sài Gòn rớt hạng và ngày 1-9-2003 ông nhận quyết định
nghỉ hưu. Sau đó ông chuyển sang làm việc tại Trung tâm thể thao Thành
Long, chuyên về công tác đào tạo tài năng trẻ.
[…]
Nay
nhân sự ra đi của cầu thủ lừng lẫy một thời và cũng nhân mùa bóng World
Cup sắp diễn ra, tưởng cũng nên nói lại danh tiếng một thời của nền túc
cầu Việt Nam cộng hòa và lý do tại sao túc cầu Việt Nam tàn lụi.
Túc cầu VNCH
Nói về túc cầu VNCH, người ta nhắc tới ba ngôi sao sáng: Phạm Văn Rạng, Đỗ Thới Vinh và Tam Lang.
Ngày xưa
còn nhỏ những ai đã từng mê truyện Duyên Anh cũng đã nhiều lần nghe tác
giả nhắc tới trong tác phẩm của mình. Trong các nhân vật của Duyên Anh
có chú bé “Bồn Lừa” với tài lừa banh và “Chương Còm” với tài “bắt gôn”,
xuất hiện trong nhiều tác phẩm như Dzũng Đa Kao, Thuở mơ làm Quang
Trung, Gấu Rừng và đặc biệt là Bồn Lừa, tác phẩm mang tên nhân vật
chính. Bồn Lừa có khi được tác giả gọi là “Vinh em”, còn “Chương Còm”
được gọi là “Rạng em”, ý muốn nói đó là những thế hệ tiếp nối, hậu duệ
của hai bậc đàn anh.
Trong
tác phẩm trên Duyên Anh tưởng tượng ngày Đội tuyển VNCH chiếm giải quán
quân World Cup ngay trên đất Ba Tây, sự kiện khiến nước Pháp phải xấu hổ
và xin lỗi về 80 năm thực dân hóa nước ta. Duyên Anh tưởng tượng cảnh
“Vinh em” lừa bóng “chiến” đến độ Pelé đổ quạu chơi xấu còn “Rạng em”
chinh phục thế giới với cú bay người như chim để bắt cú sút điểm trúng
góc vuông khung thành: một tay bắt bóng và một tay ôm xà ngang đu người
trên không.
Với điều
này, tác giả như có ý nói rằng nếu những thế hệ sau có thể tiếp tục
ngọn lửa của những Rạng và Vinh thời ấy thì ngày Việt Nam đến với World
Cup cũng chẳng có gì là xa vời.
Quả
đúng, ngày đó người Việt ai cũng tin tưởng như vậy. Sau trận VNCH đá
thắng đội Nhật vào năm 1966, các ký giả Nhật đặt câu hỏi là bao giờ VN
sẽ tham dự vòng chung kết World Cup. Lúc đó nguyên thủ quân đội tuyển
VNCH Tam Lang nhẩm tính 20 năm nhưng khiêm tốn trả lời: “Khoảng chừng 30
năm nữa”.
Thế
nhưng hơn gần 50 năm sau thì thực tế trái hẳn: Nhật từng vào vòng II
World Cup, đã từng vô địch Asian Cup trong khi đó thì may lắm Việt Nam
mới lọt vào tứ kết Asian Cup và tuyệt đối không dám mơ tuởng đến World
Cup.
Nói
lại nền túc cầu VNCH, ở đây chúng ta đề cập đến các tuyển thủ lừng lẫy
một thời: ngòai Tam Lang đã nói ở trên, còn hai bậc đàn anh là Phạm Văn
Rạng và Đỗ Thới Vinh.
Phạm Văn Rạng
Với
đôi tay bắt bóng như nam châm hút sắt hay “bắt dính như nhựa
Mít-xờ-lanh”, thủ môn Phạm Văn Rạng được ký giả thể thao Thiệu Võ gọi là
“Lưỡng thủ vạn năng” và từ đó ông đã “chết” cái tên này. Trong khi đó
thì báo chí Á châu gọi Phạm Văn Rạng là “Đệ nhất thủ môn Á châu”.
Phạm
Văn Rạng sinh ngày 8 tháng giêng, 1934 tại Mỹ Tho và chiến tranh đã xô
đẩy gia đình lên Sài Gòn và tại đây ông theo học tại trường tư thục
“Việt Nam Học Đường”. Thời ấy phong trào túc cầu ở Sài Gòn rất sôi nổi
và Phạm Văn Rạng được giữ chân trung phong trong đội bóng Việt Nam Học
Đường. Năm 1949 khi đội Việt Nam Học Đường so chân với đội bóng trường
Huỳnh Khương Ninh vào năm 1949, thủ môn của đội nhà vắng mặt vào giờ
chót vì chuyện gia đình nên Phạm Văn Rạng xung phong thay thế.
Được
giáo viên thể dục chấp nhận, Phạm Văn Rạng đã vĩnh viễn gắn bó với vị
trí này và càng ngày càng nổi tiếng. Năm 1951 Phạm Văn Rạng được ông bầu
Võ Văn Ứng của đội bóng Ngôi sao Bà Chiểu của mời về làm thủ môn. Đến
năm 1953 ông được đưa vào đội hình Đội tuyển Thanh Niên, thay cho thủ
môn sáng giá nhất thời đó là Lâm Kinh.
Theo
lệnh quân dịch, năm 1953 Phạm Văn Rạng gia nhập quân đội và được điều
về làm thủ môn cho đội bóng Bộ Tổng tham mưu. Sau đó, khi hết hạn quân
dịch Phạm Văn Rạng chuyển qua đá cho đội Quan Thuế với vai trò cầu thủ
kiêm HLV.
Trong
thời gian từ năm 1952 đến 1964 ông là thủ môn chính của đội tuyển VNCH
và đã tham dự các đại hội thể thao SEAP Games 1959, 1963, 1965; các giải
Á vận hội 1958 và 1962, Cúp Merdeka từ năm 1958 đến năm 1962. Chính
Phạm Văn Rạng đã góp phần đem về cho đội tuyển VNCH một huy chương vàng,
hai huy chương đồng SEAP và hai giải tư Á châu.
Năm
1964 Phạm Văn Rạng giải nghệ, chuyển ngạch sang làm công chức ngành
quan thuế nhưng năm 1966, sau khi đã giải nghệ 2 năm, anh được HLV Lý
Huệ Đường năn nỉ để mời anh đứng vào đội hình đội tuyển All Stars Team
of Asia, quy tụ toàn những ngôi sao lừng lẫy nhất của bóng đá Á châu.
Thực sự
thì khi Phạm Văn Rạng giải nghệ thì cả Á châu chưa sinh sản được một thủ
môn xứng với tầm vóc của anh, người được báo chí Á châu và cả AFC bình
chọn là “Đệ nhất thủ môn Á châu”. Cũng mở ngoặc để nói thêm rằng trong
thập niên 50 và 60 phong trào túc cầu ở Hồng Công rất sôi nổi với trung
phong Lý Huệ Đường nổi danh là “vua bóng đá Á châu”, một thứ “Pelé da
vàng”. Khi đó AFC mời Lý Huệ Đường làm HLV trưởng Đội tuyển Á châu, còn
phụ tá HLV là Peter Velappan, người nắm chức Tổng Thư ký AFC, tức LĐBĐ Á
châu từ 1987 đến 2007.
Và quả
Lý Huệ Đường đã không chọn lầm người. Trong trận đấu trên sân Malaysia
năm đó Đội tuyển Á châu đã hạ gục CLB Chelsea 2 –1 trong đó công đầu
phải thuộc về Phạm Văn Rạng: bất chấp những đợt tấn công sấm sét của
hàng tiền đạo Chelsea, khung thành đội tuyển Á châu vẫn vững vàng với
đôi tay Việt Nam.
Sau năm
1975 Phạm Văn Rạng được đội Tổng cục Vật tư mời làm HLV cho đến năm 1978
và từ đó ông bắt đầu cuộc mưu sinh chật vật với rất nhiều nghề, tới
nhiều địa phương, trường học huấn luyện các đội bóng con con. Năm 1985,
ông được công ty Cao su Bình Long mời về làm HLV và sau đó là đội bóng
Cao su Lộc Ninh.
Cho
đến khi qua đời vào ngày 7 tháng 11 năm 2008 thì cuộc sống của Phạm Văn
Rạng khá chật vật, không có nhà phải ở nhà thuê và không có xe để đi
lại. Năm 2005, các cựu tuyển thủ thuộc thế hệ sau ông như Tam Lang,
Dương Văn Thà, Võ Thành Sơn, Tư Lê, Hồ Thanh Cang… và người hâm mộ tổ
chức trận đấu giao hữu để quyên tiền giúp ông mua một căn nhà nhỏ để ở.
Sau đó thầy trò trường Lê Hồng Phong đã tổ chức quyên góp để giúp ông
tiền mua một chiếc Chaly (xe máy phân khối nhỏ) để chạy: trước kia ông
từng huấn luyện cho đội bóng của trường!
Đỗ Thới Vinh
Ðỗ
Thới Vinh sinh khoảng năm 1940 quê ở Phan Thiết và đến tuổi trưởng
thành vào Sài Gòn và đầu tiên chơi trong đội bóng Quân Cụ. Sau hơn hai
năm ở đầy, Ðỗ Thới Vinh giã từ Quân Cụ để đầu quân cho đội Quan Thuế.
Với
lối đi banh lắc léo khiến hậu vệ đối phương khó truy cản cùng với những
đường banh chuyền chính xác, tài nghệ của Ðỗ Thới Vinh đã được Tổng
Cuộc Túc Cầu VNCH để ý đến và có chân trong đội tuyển VNCH từ năm 1956
cho đến 1969.
Đỗ
Thới Vinh – có biệt danh Vinh Sói – được xem là tuyển thủ tiêu biểu của
nền túc cầu VNCH với phong cách thi đấu “hào hoa và hiệu quả”, từng
đứng vào đội hình đội tuyển Á châu cùng với Phạm Văn Rạng.
Trong
đội tuyển VNCH Đỗ Thới Vinh thi đấu ở vị trí tiếp ứng, tức cầu thủ mang
danh vị “trung phong”, người thực sự nắm giữ linh hồn của trận dấu với
vai trò liên lạc giữa tuyến dưới và tuyến trên. Trong trận đấu với Miến
Điện ở giải Merdeca 1966, Đỗ Thới Vinh thi đấu ở một trong hai vị trí
liên lạc của đội hình 4-2-4.
Sau năm
1966, với chiếc cúp vô địch Merdeka trở về, Đỗ Thới Vinh đầu quân trong
đội bóng Tổng Tham Mưu. Sau này, khi được biệt phái lại ngành cũ, Ðỗ
Thới Vinh lại thi đấu trong đội hình Quan Thuế.
Ông là cầu thủ tiền vệ tạo được nhiều kỷ lục nhất:
-
13 năm liên tục là tiền vệ của đội tuyển VNCH với 118 trận đấu quốc tế.
-
Một lần được vinh hạnh chọn đá trong thành phần đội tuyển Châu Á.
-
11 lần tham dự giải Merdeka từ 1957 đến 1969.
-
6 lần dự giải Ðông Nam Á Vận Hội (SEAP Games).
-
6 lần có mặt ở giải King’s Cup của Thái Lan.
-
2 lần dự Á Vận Hội.
Những dấu ấn mà tiền vệ Ðỗ Thới Vinh tạo ra trên sân cỏ nhiều lắm nhưng đáng kể nhất là SEAP Games 1959 và giải Merdeka 1966.
Trận
chung kết đem chiếc huy chương vàng đầu tiên về cho VNCH của giải bóng
tròn SEAP Games 1959 sau khi đá bại đội tuyển Thái Lan 3-1 đã in đậm
công lao và tài năng của Vinh “đầu sói”, đặc biệt với cú bay người đánh
đầu đưa banh làm thủng lưới Thái Lan.
Một dấu
ấn khác cũng được nhắc đến với Ðỗ Thới Vinh, với tài năng chói sáng của
Vinh, đã khiến cho chính vị thủ tướng cũng như dân chúng Malaysia thời
bấy giờ rất ngưỡng mộ và chính vị thủ tướng Malaysia vào năm 1968, Abdul
Rahman, vừa là Chủ Tịch Liên Ðoàn Bóng Tròn Á Châu thời bấy giờ, đã
đích thân viết thư mời Ðỗ Thới Vinh sang Malaysia đá cho đội tuyển Á
Châu.
Ngoài ra
Vinh còn có phong cách thi đấu hòa nhã và mã thượng. Trong trận mở màn
Merdeka Cup với đội Malaysia trên sân Kuala Lumpur năm 1966, Đỗ Thới
Vinh đã để lại những ấn tượng tuyệt vời với khán giả nước ngoài: Sau khi
bị một hậu vệ Malaysia hất té lăn tròn mấy vòng, Đỗ Thới Vinh đã bật
dậy và xăm xăm chạy lại khiến ai cũng lo ngại, những tưởng rằng anh sẽ
chạy lại để gây gỗ, đánh lộn. Thế nhưng hóa ra Vinh chỉ chạy lại để chìa
tay ra bắt tay hậu vệ Malaysia và hành động mã thượng này đã khiến hàng
vạn khán giả vỗ tay hoan hô, tán thưởng. Nhờ vậy nên khi đội tuyển VNCH
đấu trận chung kết với Miến Điện, khán giả Malaysia đã trở thành những
cổ động viên nhiệt tình nhất của họ.
Sau năm
1975 cuộc sống của Ðỗ Thới Vinh trở nên bần hàn, không được sung túc,
thiếu trước hụt sau. Sau năm 1975 đội Quan Thuế này chuyển thành đội Hải
Quan và Đỗ Thới Vinh có mặt trong đội hình của Hải Quan trong trận gặp
đội Ngân Hàng ngày 2.9.1975.
Xin nói
thêm rằng đội Ngân Hàng cũng lấy từ đội Việt Nam Thương Tín trước năm
1975, bởi thế trận đấu này quy tụ nhiều cầu thủ VNCH như Hồ Thanh Chinh,
Trần Thanh Long, Đỗ Minh Khá, Nguyễn Văn Ngôn, Trần Tiết Anh, Hồ Thanh
Cang, Võ Thành Sơn, Quang Đức Vĩnh, Dương Văn Thà.
Đến năm
1976 tỉnh Sông Bé thành lập hai đội bóng và mời ông về làm HLV trưởng.
Chỉ hai năm sau tỉnh Sông Bé cử cả hai đội bóng tỉnh tham dự giải bóng
đá hạng A toàn quốc và đội thứ hai đoạt chức vô địch khu vực phía Nam.
Sau thành công này tỉnh Sông Bé sáp nhập hai đội lại thành một đội tuyển
và đuổi việc Đỗ Thới Vinh, giao cho ông Nguyễn Kim Phụng làm HLV
trưởng. Về sau tay cơ hội chủ nghĩa này trở thành Phó Giám đốc sở TDTT
tỉnh Bình Dương.
Điều này
cho thấy khi đã thành công thì họ gạt Đỗ Thới Vinh ra ngoài và sau đó
không thấy báo chí trong nước nhắc gì tới ông nữa.
Một số
tài liệu cho biết trong khoảng năm 1989-1990 Đỗ Thới Vinh lâm cảnh bần
cùng, phải tìm đến một người anh em quen biết đang trông coi sân Kỵ Mã,
Tao Ðàn và sống trên chiếc giường nhỏ cho qua ngày tháng. Sau đó ông mất
bên sân cỏ vì bệnh tiểu đường nhưng không nói rõ mất năm nào. Chỉ được
biết rằng từ năm 2002 các cựu đồng đội và hậu duệ vẫn đều đặn tổ chức
các “trận đấu tưởng niệm Đỗ Thời Vinh”.
Cứ đến
ngày giỗ tiền đạo tài hoa này thì các thế hệ đàn em ông và cả những học
trò từng sống với Đỗ Thới Vinh trong những ngày cuối đời của ông trên
sân Kỵ Mã đều tổ chức giỗ. “Đám giỗ” có khi chỉ là một trận bóng và sau
đó tất cả quây quần bên những ly trà đá hoặc nếu khá giả thì thì có thêm
thêm vài chai bia.
Trong
những ngày giỗ này không ít những cựu tuyển thủ chống gậy đến sân,
trong đó có Tam Lang. Cũng có những cựu tuyển thủ nghèo khó, tuổi già
sức yếu lại sống nhờ con cái vốn không khá giả, nhưng tất cả đều có một
chữ tình. Thí dụ trận đấu giỗ ngày 18.5.2013, trên sân Tao Đàn (quận 1,
Sài Gòn) với trận bóng đá giữa cựu tuyển thủ Sông Bé (cũ) và cựu tuyển
thủ Sài Gòn.
Trích Vũ Tứ Lang, Tam Lang và hào quang của Túc Cầu VNCH. Việt Luận.
Lịch Sử Đá Banh Việt Nam Cộng Hoà
Mường Giang
Đội tuyển quốc gia VNCH
Lịch sử 100 năm Túc Cầu VNDân tộc VN xưa nay vốn có truyền thống thượng võ, nên rất coi trọng việc rèn luyện cơ thể hằng ngày như là phương tiện để mà phát triển quân sự. Đá cầu là một trong những môn chơi rất được mọi tầng lớp xã hội các thời Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn.ưa thích và được coi đây là xuất xứ của môn Túc Cầu VN, chính thức thành hình hơn 100 năm qua.
Phạm Huỳnh Tam Lang nâng cao cúp Vàng Merdeka, tổ chức tại Mã Lai Á năm 1966
Theo tài liệu, thì đội túc cầu đầu tiên của nước ta ra đời vào năm 1906 tại Gia Định. Hai mươi năm chiến tranh (1955-1975) với bao nhiêu nổi buồn bom đạn nhưng cũng là thời kỳ huy hoàng nhất của nền túc cầu Nam VN, chẳng những trong khu vực Đông Nam Á, mà tiếng thơm còn bay bổng tận làng bóng quốc tế, với những tên tuổi Phạm Văn Rạng, Phạm Văn Mỹ, Đỗ Thới Vinh, Phạm Huỳnh Tam Lang, Lâm Hồng Châu …
Ở Miền Bắc xã nghĩa, từ năm 1964 các giải Túc Cầu thường diễn ra trên các sân vận động Hải Dương, Thái Bình, Bắc Giang … mà không tổ chức tại Hà Nội, vì sợ máy bay Mỹ oanh tạc. Năm 1965, đội tuyển Bắc Việt, tham dự Giải Túc Cầu hữu nghị, được tổ chức tại sân vận động Bình Nhưỡng (Bắc Hàn) gồm các đội banh Trung Cộng, Nam Dương, Kampuchia, Guinee, Bắc Cao. Đội Bắc Việt đứng hạng ba. Năm 1966, Liên Xô đá giao hửu và thua Bắc Việt 1-0. Cũng năm 1966, trong giải Ganefo tổ chức tại Nam Vang, gồm 10 nước tham gia, đội Bắc Việt lãnh huy chương đồng. Nói chung, trước năm 1975, Bắc Việt cũng có một đội Túc Cầu, gồm Nguyễn Văn Vĩnh (thủ môn) và các cầu thủ Hiếu, Thêm, Hiền, Hiển, Long, Vinh, Thọ, Ngọc, Phàn, Chinh … tuy nói là tham dự nhiều nới, nhưng chẳng đem về cho quê mẹ một chiến thắng nào đáng kể, vì lúc đó Đảng tại Bắc Bộ Phủ, chỉ trăm phương ngàn kế, để mà làm sao cưỡng chiếm cho được Miền Nam, nên đâu còn sức lo cho thể thao, Túc Cầu … những món hàng được coi là xa xĩ, vô ích trong thế giới các nước xã hội chủ nghĩa.
Đội Tuyển Túc Cầu Miền Nam VN Phạm Văn Rạng, thủ môn đội tuyển VNCH 1959Năm 1959, lần đầu tiên đội tuyển Túc Cầu VNCH đã đoạt được huy chương Vàng, tại Đông Nam Á Vận Hội (không có sự tham dự của Nam Dương và Phi Luật Tân). Kỳ đó, phái đoàn thể thao Nam VN tham dự rất nhiều môn thi đấu như Boxing, bơi lội, bóng bàn, bóng chuyền, bóng rổ, xe đạp, điền kinh và Túc Cầu. được tổ chức tại Thái Lan. Về đội tuyển VNCH có Phạm Văn Rạng (thủ môn), Nguyễn Văn Cụt, Phạm Văn Hiếu, Nguyễn Ngọc Thanh, Lê Văn Hổ (Myo), Nguyễn Văn Nhung, Đỗ Thới Vinh, Há, Đổ Quang Thách, Nguyễn Văn Tư. Đội tuyển VN vào chung kết hạ đội Thái Lan 3-1 và được chính tay Hoàng Thái Tử Xiêm trao chiếc cúp vàng, tại sân vận động.
Trước đó ở miền Nam, có trung phong đội AJS (Association de la Jeunesse Sporttive), tức là Đội Cảnh Sát Quốc Gia sau này, cầu thủ Phạm Văn Mỹ, nổi danh trong làng bóng Đông Nam Á là “Cọp Đồng Nai” qua kỷ thuãt chơi bóng, cú sút trời giáng, tốc độ nước rút phi thường. Bên cạnh còn có Phạm Văn Rạng, từng được tạp chí thể thao hàng đầu của Pháp là tờ ‘France Football’ vinh danh là thủ môn số 1 của nền Túc Cầu Châu Á, khi đội tuyển VNCH đã thắng đội banh Do Thái 2-0, trong khuôn khổ vòng loại, để được tham dự Thế Vận Hội năm 1964. Trận đấu diễn ra trên sân vận động Cộng Hoà, do công của Ngôn và Quang. Nhờ những thành tích trên, nên đội tuyển túc cầu VNCH đã có 4 cầu thủ là Phạm Văn Rạng, Nguyễn Ngọc Thanh, Đổ Thới Vinh, và Nguyễn văn Ngôn, được vào đội tuyển Châu Á, do Thiết túc cầu đại vường Hương Cảng là Lý Huệ Đường làm huấn luyện viên và Peter Velappan phụ tá.
Năm 1966, đội tuyển VNCH lại lập thêm kỳ tích khi đoạt cúp vàng Merdeka, tổ chức tại Mã Lai Á. Tham dự lúc đó gồm có Lâm Hồng Châu (thủ môn), Lại văn Ngôn, Phạm Văn Lắm, Văn Có, Phạm Huỳnh Tam Lang, Nguyễn Văn Chiêu, Nguyễn Vinh Quang, Nguyễn Văn Ngôn, Dương văn Thà, Đổ Thới Vinh, Nguyễn Văn Mộng, Trên sân cỏ, đội banh VN đã liên tiếp hạ Tân Gia Ba (5-0), Nhật (3-0), Mã Lai Á (5-2), Đài Loan (6-1) và thua Ấn Độ (0-1). Cuối cùng VN vào chung kết với Miến Điện. Trong trận này, đối phương tấn công VN tới tắp và ba lần banh vào khung thành của thủ môn Lâm Hồng Châu nhưng đều bị gạt ra ngoài, nhờ tài nghệ phi thường của cặp trung phong Văn Có – Tam Lang và thủ môn Châu. Đến phút 68, Tam Lang cướp được banh dẫn thẳng vào tuyến địch và sút vào cầu môn Miến, đem về chiếc cúp vàng vô địch cho quê hương.
Tại Đông Nam Á Vận Hội kỳ IV năm 1967, đội Túc Cầu VNCH lại đoạt huy chương Bạc, khi thắng Lào 5-0, Thái Lan 5-0 và thua Miến Điện 1-2 khi vào chung kết. Trong trận đó, hội tuyển VN có Lâm Hồng Châu (thủ môn), Hồ Thanh Chinh, Lại Văn Ngôn, Nguyễn Văn Mộng, Phạm Huỳnh Tam Lang, Nguyễn Vinh Quang, Dương Văn Thà, Nguyễn Thái Hưng, Đỗ Thới Vinh, Võ Bá Hùng, Lê Văn Đức, Nguyễn Văn Thuận, Hồ Thanh Cang, Quang Kim Phụng, Nguyễn Văn Chiêu, Cù Sinh, Nguyễn Văn Ngôn, Trương Văn Tư. Năm 1973, tại Đông Nam Á Vận Hội ở T6n Gia Ba, đội tuyển VN lại dành Huy chương bạc, sau khi vào chung kết lại thua Miến Điện, khi trận đấu chỉ còn 8 phút thì kết thúc với tỷ số 3-2.
Trong nỗi thăng trầm của túc cầu VNCH từ 1955-1975, chỉ có một điều đáng tiếc được báo chí thời đó ghi nhận,là sự xung đột giữa trung phong Ứng đội CSQG và tiền vệ Tống Mành của đội Tổng Tham mưu. khi tranh dành chức vô địch trên sân cỏ, Mành chẹn gãy chân Ứng. Tuy nhiên đó chỉ là chuyện rất thường trên sân cỏ. Điều quan trọng nhất là hầu như tất cả các cầu thủ của VNCH, hiện còn sống tại Sài Gòn, khi được báo chí thành Hồ phỏng vấn, đều tỏ ra xúc động và luyến tiếc thời vàng son của nền Túc Cầu Miền Nam, giờ đây gần như tuyệt vọng, trước tệ nạn tham nhũng và cá độ của cái gọi là đội tuyển quốc gia,khi mang chân tới đá tại các sân cỏ xứ người, mà tỷ số thắng thua đã được định trước bằng tiền thưởng.
Dương Văn Thà, một cầu thủ lừng danh là ‘ thần mã’, của đội tuyển Miền Nam từ 1967-1974, cho biết trước năm 1975 là thời kỳ cực thịnh của Túc Cầu VN, qua nghệ thuật nhồi bóng cùng với tinh thần kỹ luật, tự giác và sự luyện tập. Còn Lê văn Tâm (cha Lê Huỳnh Đức, trung phong số 1 của VN ngày nay), nhắc lại trận đấu giữa VN và Nam Hàn, trong giải King’s cup ở Thái Lan năm 1970, VN thắng nước này 1-0, qua cú sút phạt của Võ Thành Sơn và Lê văn Tâm đội đầu.
Thế mà ngày nay, đội bóng của VN càng ngày càng sa sút, trong khi đó Nam Hàn, chẳng những lừng lẫy tại Á Châu mà còn được chen chân vào các kỳ Thế Vận Hội,điển hình là kỳ World Cup 2006 tại Đức sắp tới. Riêng Đổ Càu cho biết, cầu thủ VNCH khi dự các cuộc tranh giải ở các quốc gia bạn, đều được đồng bào địa phương, thương mến, trân trọng vì bản chất của cầu thủ VN hiền lành, đứng đắn, biết tôn trọng kỷ luật trên sân cỏ, cũng như đã giao đấu rất dũng mãnh, nhiệt tình, để dành vinh quang danh dự về cho màu cờ, sắc áo của dân tộc. Sau năm 1975, các cựu cầu thủ miền Nam như Phạm Huỳnh Tam Lang, Quảng Trọng Hùng, Cao Cường, Dương Văn Thà … làm huấn luyện viên thể thao, Nguyễn Kim Hằng bán cà phê, Tư Lê lái taxi, Nguyễn văn Mộng, Đinh Công Hoàng … thì ẩn dật …
Viết chuyện người khiến hồn thêm bồi hồi khi nghĩ tới quê hương và những ngày xa cũ, nhất là Phan Thiết quê tôi, vùng đất đam mê đá banh như là món ăn tinh thần không sao thiếu được. Trước khi Việt Cộng cưỡng chiếm được VNCH ngày 30/04/1975, Bình Thuận là một trong những tỉnh có phong trào thể thao rất mạnh, mà tiêu biểu là môn túc cầu. Từ năm 1962-1968, hàng năm Bình Thuận đều tham gia giải Liên quân khu, gồm 11 đội bóng của các tỉnh Quảng Ngãi, Pleiku, Kontum, Darlac, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Tuyên Đức và hầu như chức vô địch trong những lần tổ chức ấy, khó có đội nào hơn được Bình Thuận.
Năm 1971, tại giải vô địch toàn miền Nam, với sự tham dự của 43 đội từ các tỉnh thị và 4 quân khu, đội bóng Bình Thuận, đã đoạt chức vô địch Túc Cầu toàn quốc, sau khi hạ đội Mỹ Tho với tỷ số 2-1 tại sân vận động Cộng Hoà. Ngoài ra đội Bình Thuận còn đá giao hữu với các đội chuyên nghiệp lúc đó tại Sài Gòn như Quan Thuế, Không Quân, Hải Quân và Cảng. Các cầu thủ Tam Lang, Dương Văn Thà, Nguyễn Văn Ngôn, Võ Thành Sơn, Cù Sinh, Phạm văn Rạng … măc dù chơi hay, nổi tiếng và chuyên nghiệp nhưng khi đụng với Phan Thiết, cũng rất e dè và thán phục.
Đó cũng là do công dìu dắt của ông bầu Tăng Khánh (nhà sách Vui Vui), và các ông Quản Đầu, Ba Hoàng (nước mắm Vĩnh Hương), Khánh Cao. Nhưng đặc biệt nhất phải kể tới công của ông Bầu Ba Toại, đã chiêu dụ được nhiều cầu thủ danh tiếng ở tỉnh ngoài về đá cho Phan Thiết như Đổ Thới Vinh, từng đá cho các đội Quân Cụ, Quan Thuế, Tổng Tham Mưu tại Sài Gòn. Với chiếc đầu hói, sống mũi dọc dừa, đôi mắt sâu sâu và nước da ngâm đen, đã tạo cho đồng đội nhiều cơ may dứt điểm khung thành địch. Vinh đang ở trong đội tuyển Miền Nam, thì được chọn vào đội tuyển Quốc Gia tham dự giải Đông Nam Á Vận Hội.
Cầu thủ Trần Ta, em ruột cầu thủ Trần Néo, sinh tại Phú Trinh, Phan Thiết, năm 18 tuổi là cầu thủ của đội trường trung học Phan Bội Châu, giúp đội đá bại trường trung học Võ Tánh, Nha Trang, đoạt chức vô địch Túc Cầu cấp tỉnh miền Trung. Sau Trần Ta về đầu quân cho đội Thương Khẩu của Bầu Quyền. Rồi được tuyển chọn vào Đội túc cầu Thanh Thiếu Niên Miền Nam, tham dự nhiều nước Đông Nam Á như Phi, Mã và Nam Dương. Từ năm 1961 trở về sau, tài năng của cầu thủ Trần Ta người Phan Thiết đang lên vùn vụt, thì đột nhiên anh bị tử nạn năm 1966, trên đường từ Sài Gòn đi Đà Lạt. Người ta đã tìm thấy xác Ta và chiếc xe gắn máy hiệu Sprint dưới lũng sâu của đèo Blao, quốc lộ 20.
Tuy nhiên cũng có nguồn tin nói là Trần Ta bị Việt Cộng chận đường giết, rồi xô xuống đèo làm như là một tai nạn giao thông, câu chuyện xì xào một thời gian rất lâu trong giới mộ điệu thể thao tại Phan Thiết. Hai anh em Trần Mai và Trần Đáng cũng được Bầu Toại chiêu mộ từ Huế vào, đá cho đội banh Phan Thiết. Nhiều năm liền, cả hai rất được hâm mộ, vì đều là trụ cột làm bàn, sát bóng manh, lừa giỏi, đưa đội bóng Bình Thuận đoạt được nhiều giải tại miền Trung và toàn quốc. Sau năm 1957, hai anh vì lý do gia cảnh, nên trở về Huế và gia nhập đội tuyển miền Trung từ giai đoạn 1961-1963.
Tóm lại, ngoài các cầu thủ trên, thành phần đội túc cầu Bình Thuận-Phan Thiết gồm có : Thủ môn Đại, Du (thập niên 50,60). Hậu vệ Xây, Bụt (sau bị hư một mắt), Lâu (được mệnh danh là trụ đồng), Ngọ (búa). Hàng tiền vệ có Thơm, Néo (anh ruột Trần Ta), Phối, Nhiều, Minh. Tiền đạo Mỉn (chết trong tù cải tạo VC năm 1975), Phê, Tùng (năm 1970 được tuyển vào Đội Thanh Thiếu Niên Miền Nam, tham dự các giải Đông Nam Á), Quang. Hàng Trung phong có Hoan dù chỉ thuận chân mặt nhưng là một trong những kiện tướng làm bàn hàng đầu của Đội.
Phan Thiết còn có Huyền Vũ, là một ký giả thể thao nổi tiếng, qua những bài tường thuật cũng như bình luận, các trận cầu quốc tế tại sân cỏ, trên làn sóng phát thanh Sài Gòn, được phóng đi cùng khắp. Do trên nhiều người không có thì giờ vì bận rộn sinh kế, công vụ, chỉ cần mở máy thu thanh cũng đủ cảm thấy như mình đang tham dự trận đá một cách thích thú. Giọng tường thuật của ông rất truyền cảm, thu hút được nhiều người nghe cũng như ái mộ.
Ông cũng là ký giả của nhiều tờ báo, viết nhiều bài tường thuật rất có giá trị. Theo Đinh văn Ngọc, vì ông với bản tính ăn ngay nói thật của người Phan Thiết, thấy sao nói vậy, không bưng bợ hay phe cánh cá nhân, do trên bị va chạm nhiều người, nhất là giới thể thao và đồng nghiệp. Tên thật là Nguyễn Ngọc Nhung, sinh tại Phú Trinh Phan Thiết, chủ bút tạp chí thể thao hàng tuần và báo Nguồn Sống trước năm 1975 … Ngoài ra cũng kể thêm một ký giả thể thao khác của Bình Thuận là Thanh Điều kiêm Trọng tài các trận túc cầu giao hữu trên sân cỏ Phan Thiết Huyền Vũ vừa qua đời tại Hoa Kỳ.
Trước năm 1975, những ông bầu túc cầu nổi tiếng của Phan Thiết như Tăng Khánh, Ba Hoàng, Khánh Cao, Ba Toại … là những nhà Mạnh Thường Quấn, rất quan tâm tới đội tuyển của tỉnh nhà. Tiệm cà phê Phú Ngữ là nơi thường trực tập trung các cầu thủ cũng như giới hâm mộ, mỗi buổi sáng, để bàn chuyện thể thao. Trong những khi có trận đấu, trước khi đội ra sân, các cầu thủ tập trung tại Phú Ngữ, vừa uống cà phê, vừa lắng nghe Huấn Luyện Viên Nguyễn Văn Quới, nguòi Hóc Môn, Gia Định, đã từng đá cho các đội AJS, Cảnh Sát Quốc Gia và Đội tuyển Miền Nam. Ông Quói được Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, chọn về làm huấn luyện viên trưởng cho đội tuyển Túc Cầu Phan Thiết, nhờ vậy mới đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.
Vậy mà cũng bốn chục năm rồi đó, nhưng không làm sao quên được, những tháng sáu mùa hè, ngồi trong lớp học hay đi dọc theo con đường Nguyễn Hoàng, bất chợt nhìn thấy hoa phượng chúm chím nở hoa, là lòng lại bồi hồi xúc động và vui tới rớm lệ khi giờ cuối cùng đã hết, học trò lớn nhỏ, ai cũng nhắp nhỏm chờ lên tàu, để trở về quê củ, có thầy me đợi em trông, trên đường làng huyết lệ nở thành bông và vườn rộng nhiều trái cây ngon ngọt, như Xuân Tâm đã viết, mà bọn học trò nhỏ ngày xưa ai cũng thuộc.
‘Kiểm soát kỷ có khi còn thiếu sót
Rương chật rồi khó nhốt cả niềm riêng’
Nhưng làm sao quên được những niềm vui ấu thơ, những ngày theo bạn bè đá banh hay leo tường vào sân vận động, để mà xem chui những trận giao đấu banh, giữa các đội học sinh Trung Học Phan Bội Châu với đội tuyển Phan Thiết và các đội banh danh tiếng tại Sài Gòn.
Nhật Trường Trần Thiện Thanh trước khi trở thành ca nhạc sỷ nổi tiếng của VN, từng là thủ môn của đội Túc Cầu Trung Học Phan Bội Châu – Phan Thiết.
nguồn: hoiquanphidung.comPhỏng vấn các tuyển thủ bóng tròn thời VNCH
http://www.youtube.com/watch?v=CwL5ke6SJT8
1 comment:
Greetings from Italy!
Please, is it possible to know the names and the sports of Vietnamese athletes who won 29 medals (4 gold, 11 silver and 14 bronze) at the Asian GANEFO 1966 in Phnom Penh?
My email is: ga57@yahoo.com
My best wishes
Giovanni Armillotta
Post a Comment