Bài đọc suy
gẫm: Bài điểm phim “Những ngày cuối cùng ở Việt Nam và Phép lạ bị
lãng quên”, tác giả Đinh Từ Thức tức “The Last Days in Viet Nam”, phim tài
liệu do đạo diễn Rory Kenedy thực hiện. Hình ảnh chỉ là minh
họa.
Những người Mỹ xuất hiện
trong The Last Days in Viet Nam. Hình
dưới: Đại Tá Stuart A. Herrington người trách nhiệm điều hợp cuộc
di tản từ tòa Đại sứ Mỹ trả lời phỏng vấn.
Last Days in Vietnam là bộ phim tài liệu mới
nhất về những ngày cuối cùng trước khi VNCH tan rã vào 30 tháng Tư, 1975.
Trước đây đã có hai bộ phim tài liệu với nội dung tương tự: The Fall of Saigon và The Lucky Few. Bộ phim mới này đã gây tiếng
vang trước khi được phổ biến rộng rãi.
Last Days in Vietnam do Rory Kennedy, con gái
út của Bộ Trưởng Tư Pháp và Nghị Sĩ bị ám sát Robert Kennedy, sản xuất cho hệ
thống PBS, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày Nam VN rơi vào tay cộng sản. Bộ phim
này mới được chiếu ra mắt tại một số rạp ở California, và Washington DC vào
tháng 9 và đầu tháng 10, 2014, và sẽ được cho chiếu rộng rãi vào tháng Tư,
2015. Vì nội dung tương tự, có người tưởng lầm đây là một trong hai bộ phim cũ
được chiếu lại. Thật ra, The Fall of Saigon
do Michael Dutfield sản xuất cho Discovery
Channel đã ra đời từ 1995, nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất Sài Gòn. Còn The Lucky Few do Hải Quân Hoa Kỳ (US Navy) sản
xuất năm 2010, vào dịp kỷ niệm 35 năm ngày mất miền Nam VN, ghi lại vai trò
của hộ tống hạm USS Kirk trong cuộc di tản của toàn thể hạm đội VNCH từ Sài
Gòn tới Philippines.
“Hậu sinh khả
uý”, tuy cùng là những tài liệu và nhân vật thật, nhưng bộ phim mới nhất có
những ưu điểm so với hai bộ phim trước. Về mặt kỹ thuật, Last Days in Vietnam được chiếu ở rạp, với màn
ảnh lớn và âm thanh tốt, làm tăng cảm giác của người xem. Về nội dung, tuy
cũng là phim tài liệu như hai bộ phim trước, nhưng phim này “có đầu có đuôi”
như một cuốn phim truyện. Xem xong, ngoài những hình ảnh đặc biệt, có khi lần
đầu tiên được thấy, cuốn phim còn để lại trong lòng người xem những điều đáng
suy nghĩ, về danh dự, về trách nhiệm, và tình người.
Từ hoà bình không danh dự…
Hội nghị bàn tròn tại
Paris, Hiệp định Ba Lê 1972 thực ra là hiệp định đơn phương giữa Mỹ và cs. Bắc
việt.
Cuốn phim đã
bắt đầu bằng hình ảnh và tài liệu về kết quả Hội nghị Hoà bình Paris 1973:
Chấm dứt chiến tranh trong danh dự. Nhưng những người ký tên vào Hiệp Định, và
những người long trọng hứa bảo vệ hoà bình bằng mọi giá đã coi thường danh dự
của mình. Sau khi quân chiến đấu Mỹ rút khỏi Việt Nam, và sau khi Tổng Thống
Nixon phải từ chức vì vụ Watergate, chiến tranh tiếp diễn tàn ác hơn trước khi
có hiệp định hoà bình.
Frank Snepp,
một cựu nhân viên CIA xuất hiện trong phim, nói Hiệp Định Paris là một ‘tuyệt
tác mơ hồ” (masterpiece of ambiguity), hàm ý văn bản Hiệp định Hoà bình thiếu
rõ ràng, khiến cộng sản Hà Nội có thể gia tăng chiến tranh, chiếm trọn miền
Nam trong hai năm. Nhận định này không chính xác. Với Cộng Sản, những người
theo cơ hội chủ nghĩa, khi đặt bút ký vào một thoả hiệp, là nắm lấy một điểm
tựa đề chờ cơ hội, bất chấp văn bản thoả hiệp rõ ràng hay mơ hồ. Dù văn bản
thiếu rõ ràng, khi cơ hội chưa tới, họ vẫn có thể chờ. Khi Nixon từ chức vào
năm 1974, và Quốc Hội Hoa Kỳ bác yêu cầu tháo khoán 722 triệu Mỹ kim cuối cùng
đã hứa viện trợ cho Sài Gòn, là cơ hội trời cho, Hà Nội không còn sợ Mỹ trừng
phạt, dù hiệp định hoà bình rõ ràng hay không, họ vẫn tăng tốc cuộc chiến
chiếm trọn miền Nam. Bằng chứng là Hiệp Định đình chiến Genève 1954 đã quy
định rõ ràng các viên chức thuộc chính quyền Quốc Gia phải vào phía Nam, và
phe Việt Minh phải tập kết ra phía Bắc vĩ tuyến 17. Nhưng, lãnh đạo hàng đầu
của cộng sản như Lê Duẩn, đã cố tình vi phạm Hiệp Định ngay khi nó mới được
bắt đầu thi hành, đã lên tầu cho mọi người thấy, rồi nửa đêm trốn ở lại, đặt
cơ sở cho cuộc chiến sau này.
Với những
người cộng sản, và đôi khi cả những người không cộng sản, danh dự chỉ là cái
vỏ bọc cho cơ hội.
Chỉ hai năm
sau khi Washington và Hà Nội đạt được “hoà bình trong danh dự” tại Paris, bản
đồ VN dưới vĩ tuyến 17 đã bị nhuộm đỏ trong nháy mắt, đưa tới hồi kết không
thể tránh: Mỹ rời khỏi Việt Nam. Nhưng ra đi như thế nào, vào lúc nào, và với
ai, là điều không đơn giản.
Đến trách nhiệm của người đi
Quân Mỹ chiến
đấu đã rút hết khỏi VN từ sau Hiệp Định Paris, tuy vậy, vẫn còn lại mấy ngàn
người Mỹ là nhân viên ngoại giao, các chuyên viên kỹ thuật, kiến thiết, doanh
nhân, ngân hàng…. Mỹ có trách nhiệm đưa hết người Mỹ về nước, và trách nhiệm
cả với những người Việt đã tin tưởng, cộng tác, hay làm việc cho Mỹ. Vào tháng
Tư, tin tình báo cho biết quân cộng sản cố lấy Sài Gòn để mừng sinh nhật HCM
vào ngày 19 tháng 05, 1975. Mỹ cố gắng hoàn tất việc ra đi vào cuối tháng Tư.
Ngược dòng với những người đôn đáo cố gắng ra đi, có những người từ ngoại quốc
liều lĩnh quay lại Sài Gòn, như cựu đại uý bộ binh Mỹ Stuart Herrington, cố
gắng xoay xở đưa bạn bè hoặc thân nhân người Việt ra đi. Có bốn kế hoạch ra đi
đã được dự trù: đầu tiên là máy bay thương mại, thứ nhì là máy bay quân sự, kế
tiếp là tầu thuỷ, cuối cùng là máy bay trực thăng ra Hạm Đội số
7.
Các kế hoạch
trên đã không thể thực hiện như dự tính. Những ngày cuối tháng Tư 1975, có tới
năm ngả di tản khỏi Sài Gòn:
1- Đi theo
ngả DAO, diễn ra trong mười ngày cuối cùng của tháng Tư, dành cho nhân viên
quân sự người Mỹ, người Việt và thân nhân hoặc những người quen biết. Đây là
cuộc di tản sớm nhất, kín đáo nhất, do một số giới chức quân sự Mỹ chủ trương,
không qua sự đồng ý chính thức hoặc dưới sự kiểm soát của nhà cầm quyền VNCH.
Có người đã dùng chữ “lậu” (black-ops) để chỉ ngả ra đi này, bằng máy bay quân
sự Mỹ, lúc đầu là máy bay vận tải C-141 và C-130, từ Tân Sơn Nhứt tới căn cứ
không quân Mỹ Clark Airbase ở Philippines. Sau khi Tân Sơn Nhứt và khu DAO tại
đây bị pháo kích sáng sớm 29-04, trực thăng được sử dụng để chở người ra Hạm
Đội 7. Rất ít hình ảnh được phổ biến cả từ nơi đi và nơi đến của ngả di tản
này.
2- Đi theo
ngả Toà Đại Sứ Mỹ. Đây là cuộc di tản ồn ào nhất, lộ liễu nhất, và được chú ý
nhiều nhất, bắt đầu từ sáng 29, chấm dứt sáng sớm hôm 30 tháng Tư, sẽ nói
thêm.
3- Đi bằng
tầu Hải Quân VNCH, rời Sài Gòn tối 29, tập trung ở Côn Sơn ngày 30 tháng Tư,
tới căn cứ Hải Quân Mỹ ở Subic Bay, Phi Luật Tân, ngày 07 tháng Năm, sẽ nói ở
cuối bài.
4- Một số cá
nhân hoặc nhóm, một mình hoặc cùng với thân nhân đi bằng trực thăng loại nhỏ
Huey của VNCH, một số không đủ nhiên liệu bay xa, được cho đáp xuống hộ tống
hạm Mỹ USS Kirk, hoạt động gần đất liền hơn Hạm Đội 7. Vì không đủ chỗ chứa,
13 trực thăng sau khi đáp đã bị đẩy xuống biển. Số đông hơn đủ nhiên liệu bay
tới Hạm Đội 7, gần 20 tầu, dưới quyền chỉ huy từ soái hạm Blue Ridge, xếp hàng
chờ đợi cách Vũng Tầu khoảng trên ba chục cây số. Tướng Nguyễn Cao Kỳ tự mình
lái trực thăng chở Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đáp xuống Blue Ridge. Một quân
nhân Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ kể lại, nhìn lên trời lúc đó, trực thăng tị nạn
đông như đàn ong về tổ. Có 5 chiếc bị đụng bể khi đáp, mảnh vỡ bay tứ tung,
xuýt gây tai nạn. Một chiếc rớt xuống biển.
Điều lạ trong
Last Days in Vietnam, vào thời máy quay
phim còn rất hiếm, không rõ bằng cách nào bộ phim đã có được hình ảnh chuyến
đi đầy kịch tính của gia đình thiếu tá phi công Nguyễn Văn Ba, từ khi ông lái
chiếc trực thăng khổng lồ CH-47 đáp xuống sân vận động gần nhà, đón vợ và ba
con nhỏ, bay đến USS Kirk. Trực thăng quá lớn, dài hơn 30 mét và nặng trên 10
tấn, nếu đáp xuống, có thể gây tai nạn, hoặc làm đắm tầu. Ông Ba đã tài tình
cho máy bay quần rất thấp, hai con và vợ với con gái út một tuổi lần lượt nhảy
xuống, để những bàn tay thuỷ thủ đỡ lấy. Riêng ông Ba, đã điều khiển cho trực
thăng nghiêng về một phía, tạo thế cho cỗ máy trị giá trên 30 triệu đô la
“chổng gọng” trên mặt biển, cùng lúc phóng ra từ phía kia, lặn xuống để tránh
những mảnh vỡ khi máy bay chạm nước. Mọi người hồi hộp căng thẳng chờ đợi, rồi
reo hò mừng vui thấy đầu ông nhô lên khỏi mặt nước. Không phải chỉ có mình
thiếu tá Ba và vợ con ông là những người liều lĩnh. Những ai tự nguyện đứng
dưới bụng chiếc trực thăng nặng hơn hai chục ngàn cân để đỡ người nhảy xuống,
cũng là những người can đảm cùng mình; chỉ một sơ sẩy nhỏ, cũng toi
mạng.
5- Đi bằng
tầu buôn vào sáng 30 tháng Tư, như Việt Nam Thương Tín, Trường Xuân, xà lan,
và nhiều tầu nhỏ khác. Ngả di tản này cũng đầy hiểm nguy gian khổ. Chính trên
boong tầu Việt Nam Thương Tín, nhà văn nhà báo Chu Tử đã thiệt mạng vào trưa
30-04 vì mảnh đạn pháo kích của cộng sản bắn đuổi theo người ra di, trước cửa
sông Lòng Tảo, ngang Vũng Tầu. Tầu Trường Xuân chở tới bốn ngàn người, vớt từ
nhiều thuyền nhỏ, thiếu thốn đủ thứ, gian nan tới được Hồng Kông.
Còn một cuộc
ra đi nữa bằng tầu, từ Cần Thơ, ít người biết tới. Khi được phỏng vấn về cuốn
phim Last Days in Vietnam, Rory Kennedy cho
biết đã có đầy đủ tài liệu về chuyến đi này, nhưng sợ quá rườm rà, đã loại
khỏi bộ phim. Ông Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Cần Thơ, khi được lệnh sử dụng hai trực
thăng để ra đi cùng những nhân viên người Mỹ, đã không đành lòng bỏ lại các
nhân viên người Việt và thân nhân của họ, sợ họ sẽ bị cộng sản bách hại. Vì
tình người, hành động theo lương tâm, ông bỏ trực thăng, dùng tiền của mình
mua hai chiếc tầu, chở tất cả 450 người rời lãnh sự quán theo sông ra biển.
Hành trình cũng đầy gian nan, vừa bị bắn, vừa bị phía hải quân VNCH cản trở.
Cuối cùng cũng ra tới biển.
Cuốn phim Last Days in Vietnam chỉ chú trọng nhiều tới
cảnh ra đi từ Toà Đại Sứ, không có cảnh tới Hạm Đội 7; một phần cảnh tới USS
Kirk, và ít hơn về quang cảnh trên Hạm Đội Việt Nam. Hoàn toàn vắng bóng cuộc
ra đi theo các ngả 1 và 5. Ấy là chưa kể cuộc di tản của không quân VNCH,
trước đó các phi công đã được lệnh lái một số phi cơ chiến đấu qua Thái
Lan.
Một vài hình ảnh từ tòa
Đại sứ Hoa Kỳ
Trực thăng cuối cùng rời
khỏi (hình dưới)
Người khổng lồ chậm chạp
Vì tình hình
biến chuyển quá nhanh, sau khi phi trường Tân Sân Nhứt bị pháo kích vào đêm 28
rạng sáng 29, phá hư một số máy bay, đường băng, và hai Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ
thiệt mạng tại khu vực DAO, chỉ còn kế hoạch cuối cùng được thi hành: Di
chuyển bằng trực thăng từ Toà Đại Sứ ra Hạm Đội 7. Mật hiệu tập trung để ra đi
bằng mẩu tin “thời tiết Sài Gòn nóng 105 độ F và đang lên”, tiếp theo là bài
White Christmas được phát đi trên đài radio quân đội Mỹ vào khoảng hơn 10 giờ
sáng 29. Những ai đợi lúc đó mới rời nhà, coi như quá trễ. Trước Toà Đại Sứ đã
đông nghẹt, khó chen chân vào. Theo nhân chứng Jim Kean, sĩ quan chỉ huy Đại
Đội C Thuỷ Quân Lục Chiến có nhiệm vụ canh giữ Toà Đại Sứ, số đông lúc đó
khoảng 10 ngàn người.
Thi hành một
công tác lớn, dù là cỡ chiến dịch, thường chỉ do một bộ chỉ huy ra lệnh. Kế
hoạch của Mỹ rút khỏi VNCH vào ngày cuối cùng liên hệ tới nhiều cơ quan, nhiều
cấp chỉ huy khác nhau, ở rải rác trên nửa địa cầu, trải rộng 12 múi giờ. Vì
thế, đã gặp nhiều trục trặc và chậm trễ đáng tiếc. Tổng Thống Ford và Ngoại
Trưởng Kissinger trực tiếp theo dõi, và ra chỉ thị từ Bạch Ốc. Đón người là
Hạm Đội 7, chỉ huy từ soái hạm Blue Ridge, dưới quyền bộ Tư Lệnh Thái Bình
Dương ở Hawaii. Phương tiện di chuyển và nhân sự thi hành thuộc Sư Đoàn Thuỷ
Quân Lục Chiến, chỉ huy từ chiến hạm Okinawa. Người chỉ huy tại hiện trường
Sài Gòn là Đại Sứ Martin.
Sau khi tự
mình tới Tân Sơn Nhứt quan sát những thiệt hại do cộng sản pháo kích gây ra
vào hồi sáng sớm, Đại Sứ Martin đồng ý di tản theo kế hoạch cuối cùng bằng 75
trực thăng của TQLC, chở người từ Toà Đại Sứ ra thẳng Hạm Đội 7. Một số người
không thể vào được Toà Đại Sứ đã được bốc từ các địa điểm khác bằng trục thăng
nhỏ, đưa vào khu DAO ở TSN, lên trực thăng lớn ra Hạm Đội 7. Bức hình nổi
tiếng thế giới, chụp những người nối đuôi nhau trên cầu thang dẫn lên trực
thăng, nhiều người vẫn tưởng là đậu trên nóc Toà Đại Sứ. Thật ra, đó là toà
nhà ở số 22 đường Gia Long, bên dưới là trụ sở USAID, tầng trên cùng do CIA sử
dụng.
Di tản qua ngả văn phòng
C.IA. Hình đính kèm là Bác sĩ Trần Kim Tuyến, người cuối cùng lên máy
bay.
Kế hoạch
“Frequent Wind” được chính thức loan báo bắt đầu vào lúc 10:51 sáng 29 tháng
Tư. Nhưng vì các cấp chỉ huy mỗi thành phần trách nhiệm phải liên lạc, thảo
thuận và xác nhận với nhau, rồi cấp thừa hành phải đợi lệnh từ cấp chỉ huy
trực tiếp của mình. Kết quả là mãi tới 12:15 PM kế hoạch mới được lệnh thi
hành. Nhưng vẫn còn điều cần làm sáng tỏ, ví dụ, giờ nào là giờ chính thức;
giờ GMT, giờ Washington, giờ Hawaii, giờ Okinawa, hay giờ Sài Gòn? Rồi vì quá
nhiều thông tin viễn liên được gửi qua gửi lại giữa các cấp chỉ huy, hệ thống
truyền tin bị quá tải, trục trặc. Cuối cùng, đến 3 giờ chiều, kế hoạch mới
thực sự bắt đầu. Chiếc CH-53 đầu tiên bốc người từ Toà Đại Sứ đáp xuống tầu
Blue Ridge vào lúc 3:40. Nếu không có những trục trặc chậm trễ này, khoảng
thời gian phí phạm từ gần 11 giờ sáng đến 3 giờ chiều, đã giúp được hàng ngàn
người đi thoát.
Tự mình làm con tin (Đại Sứ Martin – hình dưới)
Qua lời phát biểu của các viên chức xuất
hiện trong Last Days in Vietnam, cũng như
theo quan điểm của một số bài điểm phim, Đại Sứ Martin là một người thiển cận,
không biết rõ tình hình, và cứng đầu. Mãi đến những ngày cuối cùng, ông vẫn
không chịu thừa nhận tình trạng tuyệt vọng của VNCH, không chính thức cho thi
hành cuộc triệt thoái khỏi VN. Và cho đến ngày chót, ông vẫn cưỡng lại lệnh ra
đi, cố ở lại cho đến lúc không thể trì hoãn thêm.
Người viết
bài này nghĩ rằng Đại Sứ Martin là một người có tinh thần trách nhiệm cao,
sáng suốt, và rất nặng tình với người Việt Nam.
Mọi người
thừa biết, không có võ khí của Nga, Tầu, miền Bắc không thể đánh miền Nam, và
không có sự giúp đỡ của Mỹ, miền Nam không thể ngăn được bước tiến của miền
Bắc. Ngay cả những nước mạnh hơn, và trong thời bình, như Tây Đức và Nam Hàn,
mỗi nơi cũng cần tới mấy chục ngàn quân Mỹ đồn trú thường trực, để đối phó với
cộng quân khi cần. Cho nên, giây phút Mỹ chính thức cuốn gói rời Sài Gòn, là
tín hiệu toàn miền Nam rơi vào tay cộng sản. Xã hội sẽ náo loạn, ngay cả người
Mỹ cũng khó rút đi an toàn. Đợi cho đến sáng 29, sau khi có điện văn chính
thức của tân Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu, yêu cầu Mỹ rút trong vòng 24 giờ, Đại Sứ
Martin mới chính thức thi hành kế hoạch di tản. Như vậy, trên danh nghĩa, Mỹ
ra đi vì bị đuổi, không phải tự ý bỏ đi. Sau này, qua một cuộc phỏng vấn, được
hỏi tại sao đuổi Mỹ trong tình trạng nguy ngập như thế, ông Mẫu cho biết đã
làm theo yêu cầu của Đại Sứ Martin.
Chiều 29
tháng Tư, Toà Đại Sứ có hai bãi đáp dành cho hai loại trực thăng CH-46 trên
nóc nhà, và CH-53 dưới sân đậu xe, sau khi đã đốn một cây me lớn. Washington
chỉ thị Đại Sứ Martin ra đi sớm, và người Mỹ đi ưu tiên. Ông Martin không
chống lại lệnh thượng cấp, nhưng chần chừ không chịu đi. Đồng thời, quy định
người đi trên mỗi chuyến bay theo tỉ lệ khoảng 10 người có một người Mỹ. Ngoài
ra, một số nhân viên toà đại sứ Nam Hàn, đã vào được Toà Đại Sứ Mỹ, luôn yêu
cầu được ưu tiên ra đi, nhưng chỉ được đối xử như mọi người.
Phi công định
ngừng cầu không vận khi trời tối. Toà Đại Sứ yêu cầu tiếp tục, cam kết có đủ
ánh sáng, bằng cách gom một số xe hơi lại, cùng chạy máy, mở đèn pha chiếu
thẳng vào bãi đáp. Hơn 9 giờ rưỡi tối, có lệnh từ Hạm Đội 7 chấm dứt kế hoạch
vào lúc 11 giờ. Ông Đại Sứ vẫn yêu cầu tiếp tục. Khoảng nửa đêm, lại có lệnh
chỉ còn 20 chuyến bay nữa, trong khi vẫn còn 850 người chờ được bốc, chưa kể
225 Quân nhân Thuỷ Quân Lục Chiến. Bên ngoài, vẫn còn hàng chục ngàn
người.
Khoảng 4 giờ
sáng 30 tháng Tư, Đại Uý phi công Gerald L. “Gerry” Berry, được lệnh đáp chiếc
CH-46 trên nóc Toà Đại Sứ, và phải đợi đến khi Đại Sứ Martin lên máy bay, mới
được cất cánh. Ông Martin vĩnh biệt nhiệm sở lúc 4:58 phút. Sau ông, chỉ còn
những chuyến bay chở Thuỷ Quân Lục Chiến ra đi. Ông Martin đã tự biến mình
thành con tin, để Bạch Ốc không thể ngừng sớm cuộc di tản. Tuy nhiên, ông đã
không thành công hoàn toàn; số người kẹt lại trong khuôn viên Toà Đại Sứ
khoảng trên dưới 400.
Tư Lệnh Hạm
Đội 7, Phó Đô Đốc George Steele, cũng có cùng quan điểm:
“Một điều không được biết nhiều là Đại Sứ Martin tìm cách đề
mang đi một số lớn người Việt từ Toà Đại Sứ. Nó có vẻ như một con số bất tận,
và người cùng máy móc của chúng tôi bắt đầu thấm mệt…Tôi không muốn cho bắt
ông. Nhân vật số ba của Đại Sứ Quán đáp xuống Blue Ridge xác nhận báo cáo rằng
Đại Sứ bệnh và kiệt sức. Qua lòng thành đối với các đồng nghiệp Việt Nam của
chúng ta, ông đã cố gắng giữ cho cuộc di tản kéo dài bất tận, và theo quan
điểm của tôi, ráng giữ cho nó tiếp tục bằng cách tự mình không ra đi”
(*).
Phép lạ bị lãng quên
Trong một bài
phổ biến trên RFA sau khi xem Last Days in
Vietnam, Tổng Biên Tập của đài này là nhà báo lão thành Dan Southerland
viết:
Cuốn phim cũng kể câu chuyện về Richard Armitage
(hình bên), khi đó 30 tuổi, sĩ quan cố vấn của hải quân Việt Nam, về sau đảm
nhiệm những chức vụ cao cấp trong Bộ quốc phòng và Bộ ngoại giao Hoa Kỳ dưới
thời các Tổng thống Reagan và Bush.Armitage làm việc chặt chẽ với hạm trưởng
tàu Kirk cùng các sĩ quan hải quân khác để đưa 30 chiếc tàu của Hải quân Việt
Nam cùng với mấy chục tàu đánh cá và tàu vận tải đầy người tị nạn trốn chạy
khỏi Việt Nam. Đài Truyền thanh Quốc gia (NPR của Hoa Kỳ) trong phóng sự riêng
về chiến hạm USS Kirk, đã viện dẫn thống kê cho thấy có tới 30 ngàn người chen
chúc nhau trên những con tàu này. Một số tàu không thể nhúc nhích được, tàu
khác phải kéo đi. Nhiều chiếc khác bị vô nước. Thật là một phép lạ khi đoàn
tàu ấy, với sự giúp đỡ của người Mỹ, đã vượt được cả ngàn dặm về hướng đông để
đến được bờ bến Philippines an toàn. Nếu gọi đây là “phép lạ” thì
người viết bài này, nhờ may mắn có mặt trên chiến hạm HQ-3, soái hạm của đoàn
tầu Việt Nam, có thể nói rõ những ai đã làm được phép lạ này, và họ đã bị lãng
quên ra sao.
Đại Tá Hải Quân Đỗ
Kiểm.
Sau này, xem
các bộ phim The Fall of Saigon, Lucky Few,
và Last Days in Vietnam, tôi mới được
biết Đại Tá Hải Quân Đỗ Kiểm, là người được trao trách nhiệm tổ chức đưa toàn
bộ hạm đội VN ra đi, để khỏi rơi vào tay cộng sản. Trên HQ-3, tôi cứ đinh ninh
Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh là người chỉ huy chuyến đi. Trên tầu, còn nhiều tướng
lãnh cao cấp hơn, nhưng chỉ thấy Tướng Minh (thuỷ thủ gọi là “Đô đốc Minh” –
hình như trong hải quân, ai đeo sao cũng được gọi là “Đô Đốc”) qua lại, đôn
đốc, ra chỉ thị, hay lên tiếng trên hệ thống loa phát thanh. Chiều 30 tháng Tư
1975, ba chục chiếm hạm của VNCH tập trung ở Côn Sơn, đa số chở đầy người tị
nạn, chưa biết sẽ đi đâu. Được hỏi, Tướng Minh nói vẫn chưa biết đi đâu. Ông
thêm: Có một sĩ quan liên lạc sắp đến từ Hạm Đội 7, ông này sẽ cho biết mình
đi đâu. Với thái độ phấn khởi, Tướng Minh tiết lộ thêm: “Tay” này còn trẻ, rất
có cảm tình với Hải Quân VN, tên là Richard Armitage, biết nói tiếng Việt, có
tên Việt là Trần Văn Phú, vì thánh tổ hải quân VN họ Trần, Văn là tên đệm của
đa số đàn ông VN, Phú là giầu = rich, từ tên Richard. Khi ông Armitage, thường
phục, từ tầu liên lạc nhỏ leo lên HQ-3, đã được Tướng Minh chào đón nồng
nhiệt. Sáng 01 tháng 05, sau khi vớt thêm một số người từ Côn Sơn, cũng như
một số người xuống tầu nhỏ trở về, đoàn tầu được lệnh nhổ neo, trực chỉ
Philippines.
Nhìn toàn
cảnh, đoàn chiến hạm VNCH xếp hàng ba, mỗi hàng 10 chiếc, cùng di chuyển trên
mặt nước yên lặng xanh như thuỷ tinh, giống như trong một cuộc thao diễn khổng
lồ, rất ngoạn mục. Ban đêm, đoàn tầu lên đèn sáng trưng, như cả một thành phố
di chuyển. Nhưng thực trạng, đó là những chiếc tầu rất cũ, Mỹ đã phế thải
trước khi viện trợ cho VN tái sử dụng. Không hiểu trong tài khoản viện trợ,
chúng đã được định giá ra sao. Có thể dân Mỹ vẫn tưởng, tiền thuế của họ đã
được dùng để mua tầu mới viện trợ cho VN. Đoàn tầu di chuyển rất chậm, có
chiếc phải ròng dây kéo đi. Có chiếc bị nước vào, phải phân chia người tị nạn
sang các tầu khác, rồi bị bắn chìm. Đi từ Côn Sơn đến Phi, bình thường, chỉ
mất hai ngày hai đêm. Đoàn tầu Việt Nam đã phải đi ròng rã trong một
tuần.
Hộ tống hạm
Mỹ USS Kirk đã hướng dẫn, săn sóc, tận tình giúp đỡ, tiếp tế thuốc men và thực
phẩm. Nhưng Hạm Trưởng Jacobs, cũng như sĩ quan liên lạc Armitage, không phải
là các nhà phù thuỷ có tài hô phong hoán vũ, “bốc” cả đoàn tầu với 30 ngàn
người tị nạn đem từ Việt Nam qua Phi. Cái “phép lạ” làm được công việc này,
chính là đoàn thuỷ thủ Hải Quân VNCH.
Đại tá Đỗ
Kiểm cho biết, chủ đích của kế hoạch là đem tất cả đoàn tầu ra đi, và thuỷ thủ
cùng thân nhân đi càng nhiều càng tốt. Nhưng trước ngày đi, trong khi tướng
lãnh và sĩ quan cao cấp biết trước để chuẩn bị, tổ chức cho thân nhân và bạn
hữu ra đi, tất cả thuỷ thủ bị cấm trại trăm phần trăm. Trước khi ra đi, họ chỉ
được vài giờ về đón gia đình. Sợ không sửa soạn kịp, hoặc không kịp trở lại sẽ
mang tội đảo ngũ, nhất là chưa biết sẽ đi đâu, đa số quyết định đi luôn. Hôm
sau tại Côn Sơn, sau khi biết lệnh đầu hàng, một số đã xuống tầu nhỏ trở
về.
Những thuỷ
thủ còn gắn bó với tầu, trên nguyên tắc, vì quân ngũ không còn tồn tại, họ
không còn bổn phận phục vụ và tuân lệnh cấp trên. Không ai còn quyền ra lệnh,
sai bảo họ nữa. Họ, đương nhiên biến thành người tị nạn, như bất cứ ai khác,
muốn làm thì làm, không muốn thì thôi. Cũng chẳng còn chính quyền để trả lương
cho họ. Tập thể thuỷ thủ này đã làm việc trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, cả
về tinh thần, và vật chất. Về tinh thần, trong khi cấp trên của họ, và cả
những người ngoài không quen biết mà họ đang phục vụ, đem được gia đình, bạn
hữu đi theo, riêng họ, nặng trĩu lo âu, không biết gia đình ra sao. Điều kiện
làm việc của họ khó khăn hơn, chật chội hơn, thiếu thốn hơn, vất vả hơn, vì
phải làm thay cho những người vắng mặt, và giúp đỡ hàng ngàn người tị nạn. Từ
người lái tầu tới thợ máy, vẫn phải giữ cho mọi việc hoạt động đều đặn. Riêng
phần việc nhà bếp gia tăng gấp bội, vừa phải phục vụ các thượng khách và gia
đình, vừa phải cung cấp cơm cháo cho đồng bào tị nạn. Trong tình trạng như
vậy, các thuỷ thủ vẫn cố gắng chịu đựng, làm việc trong kỷ luật, trật tự, và
tinh thần trách nhiệm, đưa đoàn tầu và người tị nạn tới bến.
Thật ra,
chẳng có phép lạ nào hết. Đó chỉ là thành tích đáng kính phục của các thuỷ thủ
Hải Quân VNCH, những đơn vị cuối cùng trong quân lực vẫn còn hoạt động theo
đội ngũ, một tuần sau lệnh đầu hàng, để phục vụ đồng bào. Trong gần 40 năm
qua, đã có những cuộc gặp gỡ của đông đảo người tị nạn, để cảm ơn Hạm Đội 7,
cảm ơn USS Kirk, nhưng chẳng thấy ai nhắc đến, ghi ơn, hay vinh danh những
người lính Hải Quân VN đã tạo thành tích được coi như “phép lạ”.
***
Trong một bài
đăng trên New York Times ngày 04 tháng 09,
2014, nhà điểm phim A. O. Scott viết rằng “Bây giờ, thời gian đã qua lâu, liên
lạc Mỹ Việt đã bình thường, sẽ là điều tốt nếu được nghe tiếng nói của một vài
người từ phía bên kia, để được biết những người lính đã suy nghĩ như thế nào
khi họ vào Sài Gòn lúc người Mỹ ra đi”. Nhà điểm phim này chắc chưa có cơ hội
xem The Fall of Saigon ra đời cách đây 20
năm. Lúc ấy, Mỹ Việt vừa tái lập bang giao, và hai người phía bên kia đã có cơ
hội lên tiếng trong phim, là Trần Văn Trà, và viên sĩ quan cấp tá chỉ huy đoàn
quân tiến vào Sài Gòn. Không cần nhớ rằng chỉ hai năm trước 1975, phía bên kia
đã ký vào Hiệp Định Hoà Bình Paris, quy định nhân dân miền Nam sẽ định đoạt
tương lai của mình, Tướng Trà nói rằng: Mong đợi thương thuyết vào phút chót
chỉ là ước mơ tuyệt vọng của những kẻ biết mình thua cuộc, chúng tôi đã dứt
khoát đạt chiến thắng bằng quân sự. Còn viên sĩ quan cấp tá, đề cập việc binh
sĩ VNCH cởi bỏ quân phục sau lệnh đầu hàng, nói: “Họ phải làm như vậy, vì biết
rằng, đối với những người đã cầm súng bắn vào Quân Đội Nhân Dân, thế nào chúng
tôi cũng phải tiêu diệt.” Cho nên, trong Last
Days in Vietnam, không có tiếng nói của phía bên kia, là điều hay. Nếu
không, nó sẽ làm hư cả cuốn phim, như để một vài con ruồi đáp vào tô phở
ngon.
Trong khi tòa Đại sứ Hoa
Kỳ di tản thì cuộc chiến vẫn tiếp diễn từ nhiều ngả vào thành phố Sài
Gòn.
Last Days in Vietnam, như đã trình bầy, tuy
khá hơn hai bộ phim tài liệu trước có cùng nội dung, nhưng cũng chỉ mới trình
bầy được một phần, chừng ba chục phần trăm, về toàn cảnh những gì xẩy ra trong
mấy ngày cuối tháng Tư cách đây 40 năm. Tuy vậy, đối với nhiều người gốc Việt,
bộ phim này cũng đáng giữ làm kỷ niệm, và cho con cháu coi, để chúng biết được
một phần, ông bà cha mẹ chúng đã ra đi trong hoàn cảnh như thế nào. Chẳng biết
mười năm sau, trong dịp kỷ niệm 50 năm, có còn phim nào, với thêm hình ảnh mới
nữa không?
Có một cảnh
vào ngày cuối ở Sài Gòn, chưa ai có được, và có lẽ chẳng ai có, đã đươc Larry
Berman kể trong Perfect Spy. Đó là cảnh
diễn ra chiều 29 tháng Tư: Sau hai lần đến trước Toà Đại Sứ Mỹ mà không vào
được, theo chỉ dẫn của Dan Southerland, ký giả của báo Christian Science Monitor, “Điệp Viên Hoàn
Hảo” của Hà Nội là Phạm Xuân Ẩn chở Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, vốn được coi là
“Trùm mật vụ” của Đệ Nhất VNCH, tới trụ sở CIA ở 22 Gia Long. Ông Tuyến đến
đúng lúc cánh cổng đang hạ xuống, và chuyến trực thăng chót đang sửa soạn cất
cánh. Được Ẩn đẩy vào, ông Tuyến chạy vội lên nóc nhà. Một cánh tay từ trực
thăng đưa ra kéo bổng ông lên. Đó là tay Tướng Trần Văn Đôn, thành viên nhóm
đảo chánh, đã từng hạ lệnh bắt và đầy ông Tuyến ra Côn Đảo.
No comments:
Post a Comment