Ca sĩ Thanh Thúy
CA SĨ THANH THÚY
Hình
ảnh của những buổi chiều cuối cùng tháng tư có lẽ không bao giờ phai mờ
trong tâm khảm Thúy. Chiều 29 tháng 4, Thúy và gia đình đã có mặt trong
Dao. Tại đây, lúc bấy giờ Dao bị pháo kích nặng nề. Trên tay Thúy là
đứa cháu gái lên 2, mọi người vội vàng bỏ hết đồ đạc trên xe để tìm chỗ
trú ẩn tránh pháo kích. (Lời Tòa Soạn: Có lẽ vì lý do trên mà một tờ báo
Mỹ sau đó cũng như có một số lời đồn cho rằng Thanh Thúy đã bị pháo
kích chết trong ngày 29 tháng 4 năm 1975).
Ngày 30
tháng 4, một máy bay trực thăng đưa gia đình Thúy ra Đệ Thất Hạm Đội.
Hình ảnh bi thảm đớn đau nhất là giây phút vào được máy bay, chung quanh
là tiếng người khóc la vang dội, trời Việt Nam, người Việt Nam có lẽ
chưa bao giờ sống trong cảnh thê lương tang tóc như tình hình bấy giờ.
Giây phút nghẹn ngào mà Thúy không thể nào quên được khi cánh cửa của
chiếc máy bay đóng xập lại một cách tàn nhẫn lạnh lung. Cánh cửa khép
kín để lại một màn đen u ám trong lòng người bỏ nước ra đi. Vĩnh biệt
Saigon và những ngày hoa mộng. Còn đâu những khuôn mặt và nụ cười xưa.
Đó là giây phút đớn đau nhất mà cho đến hôm nay trong cuộc đời Thúy sẽ
không bao giờ quên được.
Ca sĩ Julie Quang
CA SĨ JULIE QUANG
Bạn thương mến,
Ngày 30 tháng 4 mỗi năm với người Việt ở Hải ngoại có nhiều điều chúng
ta không thể quên,nhắc nhớ đến như cào vào vết thương đã liền sẹo. Đã
qua 40 năm quãng thời gian không phải là ngắn nó dài hơn tuổi đời mình
từ lúc sinh ra đến ngày rời quê hương kể ra đo thời gian đó dài gấp đôi
thanh xuân tôi.
Như Bạn muốn biết lúc đó mình làm
gì? và ở đâu? Xin trả lời ngắn gọn vài câu như tựa đề của một bài hát mà
mình hát lúc đó "Bên bờ sông Seine ta ngồi ta khóc". Thật ra lúc đó tôi
ở Nice miền nam nước Pháp bãi biển Côtes d'Azur tháng 4 thiếu nắng vắng
người trời biển một màu xám tê tái. Chiều chiều lang thang trên bãi
vắng nơi xa bờ chỉ có những mỏm đá chơ vơ ngoài xa, chọn một tảng tương
đối bằng phẳng khô ráo để ngồi đó phóng tầm mắt về cuối chân trời và
viễn tưởng đến những cảnh tượng hoảng loạn của đoàn người dân quân di
tản trên quốc lộ định mệnh nào? Trong đoàn mgười tan tác đó sẽ có bao
nhiêu sống còn? Giờ tin tức mỗi ngày trên TV cho thấy chiến tranh sắp
kết thúc. nhưng càng đến gần hồi cuổi càng khốc liệt thảm thương. Mỗi
ngày chúng tôi, những người không quen biết cũng làm quen với nhau để
hẹn hò tụ họp lại với nhau nơi nhà một người nào đó trong nhóm rồi cùng
châu đầu dán mắt vào màn hình, chuyền tay nhau hộp khăn giấy vơi nhanh,
chủng tôi lau cho nhau những dòng nước mắt chảy dài thinh thoảng có
tiếng gào xé tim rồi những tiếng than van rên rĩ như nhà có tang. Những
người không quen đã trở thành người thân trở nên người nhà một cách tự
nhiên khi có chung một niềm đau tang tóc.
Tôi ngồi
đó như hóa thạch cho đến khi hoàng hôn xuống, trời nhá nhem anh cảnh sát
tuần tra tiến đến bên tôi và nhả nhặn mời tôi ra về. Trưởc đó nhiều lần
anh nhắc khéo nhưng tôi mặc , rốt cuộc anh cảnh sát thú nhận đã tan ca
anh không thể ở đấy canh chừng tôi được! Có lẽ nỗi chết hiện trên gương
mặt thất thần của tôi nên anh ái ngại hay anh có sự đồng cảm với tôi
người con gái bơ vơ không cả đường trở về quê hương xứ sở, dù là thế nào
tôi vẫn nhớ đến vẻ bâng khuâng của người cảnh sát viên tử tế ngày nọ và
những người bạn trước lạ sau quen đã chia nhau nỗi u uất nghẹn ngào của
tháng tư bốn mươi năm trước.
Ca sĩ Thái Xuân (TT Diễm Xưa)
CA SĨ THÁI XUÂN (TRUNG TÂM DIỄM XƯA)
TQB mến, em gửi thư nhờ chị viết đôi giòng ký ức về những ngày cuối ở
SG bốn mươi năm trước. Thời gian đã qua tròn 4 thập niên nhưng chị vẫn
còn nhớ những ngày đầu tháng 4/75, chị đang sống tại Nhật nên theo dõi
tin tức rất nhanh.
Ngày 15 tháng 4, từ Nhật chị về
lại Sàigòn có được dịp may đưa rất nhiều bạn thân và gia đình của họ
lên phi trường để được tỵ nạn qua các đảo ở Mỹ. Đến sáng 29 tháng 4, chị
vẫn còn ở phi trường và Tân Sơn Nhất lúc đó đã bị pháo kích quá nguy
hiểm khiến chị bắt buộc phải rời Saigon bay qua Bangkok. Chưa đầy 24
tiếng sau, ngày 30 tháng 4, chị nhận được tin Saigon thất thủ, lòng nghe
ngâm ngùi cho một Saigon yêu dấu không còn nữa và từ nay đành cúi đầu
thương tiếc cho một VN yêu thương, hòn ngọc Viễn Đông đã không còn nhưng
sẽ luôn luôn ở mãi trong lòng chúng ta.
Ký ức 15 ngày chót của tháng 4/1975 sẽ mãi trong ký ức của Thái Xuân.
Ca sĩ Bạch Yến
CA SĨ BẠCH YẾN
Cuối tháng 11 năm 1974 tôi về thăm Sài Gòn sau một tháng tôi trở lại Mỹ
tiếp tục lưu diễn. Từ tháng Giêng 75 tôi giục Mẹ mau trở lại Mỹ vào
tháng Hai như chương trình về thăm nhà đã ấn định vì tình hình Việt Nam
đã bắt đầu gây go không ổn nhưng Mẹ không tin tôi cứ chần chừ mà lại còn
xin gia hạn thêm ba tháng thời gian lưu lại VN tới tháng 05 thay vì rời
VN tháng 02, 1975.
Đầu tháng tư 1975 tôi có xin
cho Mẹ tôi trở lại Mỹ bằng hàng không hay bằng đường thuỷ nhưng cả miền
Nam đang hỗn loạn đua nhau chạy. Bên Mỹ sở Ngoại kiều đang bận vì nhận
được quá nhiều hồ sơ, đơn xin gia nhập Mỹ quốc...
Khi ai nấy hớt hải chạy đi, Mẹ tỉnh bơ biểu mọi người đừng đi vì Mẹ tưởng đây chỉ là đảo chánh!
Tôi tình nguyện vô trại tỵ nạn Camp Pendleton hát và đi Singapore,
Kuala Lumpur (Mã Lai,) Hong Kong, Đài Loan... để tìm Mẹ hoặc người quen
vì không biết Mẹ ở đâu. Tôi chán nản buồn bã mất tinh thần tới tám năm
sau nhờ đứa con nuôi Pháp lai của Mẹ "bị" hồi hương qua Pháp cho biết Mẹ
vẫn còn ở VN bình an và cho chúng tôi địa chỉ chính xác của Mẹ. Từ đó
chúng tôi bắt đầu xúc tiến lo giấy tờ xin cho Mẹ đoàn tụ gia đình. Ba
năm sau Mẹ được rời VN qua Pháp.
Mẹ kẹt lại VN không tin tức đúng 10 năm với sự lo lắng không ngừng trong tim tôi và các chị em tôi.
Mẹ sống gần chúng tôi được mười năm rồi qua đời vì trợt chưn té đập đầu trên sàn gạch mà trong người không có chút bịnh.
Nhạc sĩ Trần Quang Hải
GIÁO SƯ, NHẠC SĨ TRẦN QUANG HẢI
Em Trần Quốc Bảo thân mến,
Nhớ tới ngày 30 tháng 4, 1975, tính ra cũng 40 năm rồi . Thời gian trôi
qua quá mau. Ngày hôm đó, anh đang trình diễn tại Thụy Sĩ chung với một
số nhạc sĩ Tây phương. Tin miền Nam bị chiếm, cả trăm ngàn phải rời xứ
ra đi. Hình ảnh trên đài truyền hình Thụy Sĩ cho thấy cảnh hỗn loạn của
một cuộc chạy loạn, làm anh đau thắt trong lòng, nước mắt chảy dài trên
má, miệng bị cứng không nói một lời nào hết. Các bạn nghệ sĩ đến an ủi
anh và khuyên anh không nên để tinh thần suy yếu vì còn phải trình diễn
mấy xuất trong những ngày sắp tới.
Anh liên lạc
liền sau đó để biết tin tức gia đình ở Saigon có mệnh hệ gì không? Gia
đình anh vẫn còn ở Saigon, không thấy ai ra đi hết. Hình ảnh đau buồn đó
luôn ám ảnh anh trong nhiều ngày qua . Giờ đây, 40 năm đã qua, người
còn người mất , ngồi nghĩ lại thảm trạng của đất nước mà không biết làm
cách nào để mang lại tự do, dân chủ, và no ấm cho dân Việt Nam. Đó là
tâm trạng của anh.
Vài hàng gởi em . Chúc em có một bài viết quy tụ nhiều nghệ sĩ viết về đề tài này.
Ca nhạc sĩ Cao Giảng (Mây Trắng)
NHẠC SĨ CAO GIẢNG (MÂY TRẮNG)
Trưa ngày khắc nghiệt đó tôi đi bộ lang thang như người mất trí qua
những địa điểm quen thuộc như Dinh Độc Lập, Nhà thờ Đức Bà, Phòng trà Tự
Do, Đêm Màu Hồng...mà không biết tại sao và với mục đích gì!!! Tiếng
súng nghe không lớn bằng, mà hình như không đáng sợ bằng tiếng xích của
xe tăng đay nghiến những quãng đường quen thuộc! Hàng trăm người cũng
tha thẩn như mình nhưng có lẽ mọi người đang ngủ say trong giấc mộng du
kỳ quái, không ai nói với ai!
Bây giờ ngồi nhìn lại thì cái khoảnh khắc ấy không còn màu sắc, âm thanh thì chỉ còn là tiếng vọng xa vời!
Ca sĩ Kiều Loan
CA SĨ KIỀU LOAN (KHÁNH BĂNG – PHÙNG TRỌNG)
TQB
thương! Đêm 29 tháng 4/75, chị theo tầu chở gạo tại kho 18 Sàigòn (đơn
vị Anh Triều) và trong đêm này kho đạn Cát Lái bị pháo kích nên nổ tung
và bốc cháy. Lúc đó chị và 3 cháu đang lánh nạn tại kho 18 Khánh Hội SG
(đơn vị cuối cùng của anh Triều từ Đà Nẵng di tản về SG).
Trong đêm đó may mắn có 4, 5 tầu LCM cho đồ tiếp tế của P4/BTTM đậu tại
nơi đó, chị theo đoàn người tìm đường thoát thân, chen lấn tràn ngập
trên tàu, may mắn có những người lính trong đơn vị của Anh Triều giúp đỡ
nên lên tầu không bị khó khăn. Tầu rời cảng vào khoảng 8g tối cho đến
11 giờ sáng hôm sau nghe DVM tuyên bố đầu hàng, sau đó được chuyển lên
xà lan chở đạn của Mỹ, rồi trực chỉ ra hải phận quốc tế được tầu chở gạo
của Mỹ tại đây đón đưa về vịnh Subic Bay sau 4, 5 ngày lênh đênh trên
biển.
Từ Subic bay đến trại tỵ nạn O' Rote Point
Guam, sau 5 ngày được vận chuyển về trại tỵ nạn Fort Smith (Arkansas).
Hai tháng sau gia đình được bảo trợ về Des Moines IA, sau 2 năm thì di
chuyển về Kansas. Trên đường tỵ nạn, có biết bao là khổ nạn, giờ đây 40
năm trôi qua, nhìn lại như một cơn ác mộng hãi hùng.
Ca nhạc sĩ Duy Quang
CA SĨ DUY QUANG
Chiều 30 tháng 4, tôi vẫn nằm trong nhà trên gác vắng của cư xá Chi
Lăng. Ngôi nhà trống vắng buồn thảm nặng nề vì đã vắng xa khuôn mặt của
cha, tiếng cười của mẹ và em (LTS: Bố già Phạm Duy, cô Thái Hằng, Thái
Hiền đã ra đi ngày 28 tháng 4 còn Duy Quang và gia đình kẹt lại vì lý do
lúc đó còn nằm trong quân đội). Hình ảnh yêu thương của cha mẹ và em
trong mái nhà quen thuộc giờ đây không còn nữa. Đó là nỗi buồn lớn nhất
trong tâm hồn tôi nói riêng và của những anh em trong nhà còn kẹt lại
nói chung.
Ca sĩ Phương Hồng Quế
CA SĨ PHƯƠNG HỒNG QUẾ
Mỗi năm khi tháng Tư về, cảm giác đau buồn lại nhói lên trong tim tôi.
30 /4 một ngày thật u ám thê lương. Cả bầu trời dường như sụp đổ. Khi
nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.Tôi bước ra ban công nhìn
xuống đường mà nước mắt bỗng tuôn trào. Hình ảnh những người lính Cộng
Hòa cởi bỏ quân phục, súng ống vất la liệt trên đường. Những gương mặt
thật ngơ ngác lo sợ như họ đang thầm hỏi
rồi tương lai sẽ ra sao? Tôi đau lòng lắm, nỗi đau mất nước, đau cho
chính tôi và cho cả toàn dân quân miền Nam. Trong phút chốc đã hoàn toàn
sụp đổ. Tôi tự hỏi vì sao? Một quân đội hùng mạnh, chiến đấu kiên
cường. Những chiến tích lẫy lừng của mùa hè đỏ lửa 72. Bình Long Anh
Dũng. Kontum Kiêu Hùng. Những chiến công vang dội ấy mà hôm nay lại ra
thế này hay sao? Thật không ngờ.
Kìa một người bạn
của tôi, người đã từng cất tiếng hát những bài nhạc lính, cũng đã từng
ra các tiến đồn với tôi. Giờ đang ngồi trên xe Jeep bên lá cờ máu tay
đeo vòng băng màu đỏ, tươi cười vẫy chào mọi người để mừng chiến thắng.
Tôi quá thất vọng và buồn cho sự trở tráo của người ấy quá. Sau đó, tôi
ra thẳng bến Bạch Đằng rồi nhìn thấy những chiếc tàu chật ních chen
chúc, mà hình như tất cả mọi người đang cố gắng bám víu lấy nó,để chạy
thoát chế độ Cộng Sản đang sửa soạn trùm lên đầu toàn dân miền Nam, Ôi
cảnh tượng thật là hổn loạn. Tôi cũng nhìn thấy chiếc xe hơi Austin màu
cam của Elvis Phuơng và chiếc xe trắng của anh Lam Phuơng. Phân vân tôi
không biết quyết định thế nào. Vì còn cha còn mẹ còn gia đình ở nhà.
Nghĩ thế nên tôi quay về.
Những tháng ngày sống
với Cộng Sản thật là thê lương. Ở tuổi 20 nếu không có nghề nghiệp thì
phải bị đi đào kênh, thủy lợi, đi kinh tế mới.Riêng tôi, những ngày đầu
tiên tôi đi hát lại ở sân khấu rạp Quốc Thanh. Gần đến giờ ra sân khấu
thì có lệnh của Cán Bộ CS không cho tôi hát nếu vẫn giữ tên cũ (P.H.Q).
Lý do tôi hay hát cho lính. Bối rối quá nên anh Duy Ngoc (người tổ chức)
đã chọn cho tôi cái tên Hồng Yến. Khi tôi vừa bước ra, tất cả khán giả
phía dưới cùng ồ lên.. “P.H.Q đây mà”... Nước mắt tôi cứ thế tuôn dòng.
Khán giả thân yêu của tôi đây và sân khấu tôi thường diễn vẫn còn đấy,
nhưng nước tôi nay đã mất rồi. Tôi thấy thương cho nghệ sĩ chúng tôi
quá! Vẫn phải sống và phải hát những bài hát đầy sắc màu mà mình không
thích. Tranh đấu lắm nên tôi mới giữ được tên Hồng Quế cho đến ngày rời
Việt Nam. Đầy kỷ niệm, không làm sao quên những hình ảnh của chúng tôi
với chị Lệ Thu, Hồng Vân, Thanh Tuyền, Thanh Phong...v.v. vãn hát ra mọi
người trên xe đạp lung lẳng những gói như yếu phẩm như đường, bột ngọt,
gạo,rau muống. Lâu lâu dịp lễ mới có được thêm 100 gram thịt ba chỉ. Ca
sĩ tiêu chuẩn cao mới có được những thứ này, còn dân thường thì bo bo,
mì mốc dài dài. Đấy, ơn Bác và Đảng đấy.
Chúng ta
thật may mắn được sống trên xứ sở tự do. Có cuộc sống tương đối ổn định.
Chúng ta phải cảm ơn nước Mỹ đã cưu mang chúng ta, và cũng xin đừng
quên đồng bào ta đang sống trong sự bất công , áp bức, tù tội dưới chế
độ Cộng Sản. Hãy cùng nhau đoàn kết, cùng nhau nắm tay nói lên tiếng nói
để tranh đấu cho dân tộc V.N sớm có tự do, dân chủ, nhân quyền. Sớm có
một tương lai sáng sủa an bình hơn. Hy vọng ngày trở về quê hương trong
khúc hoan ca sẽ không còn xa nữa.
Một ngày buồn tháng Tư đen.
Tài tử Trần Quang
TÀI TỬ TRẦN QUANG
Hầu hết anh em chúng tôi trong Biệt đoàn Văn nghệ đều ở lại ứng trực từ
ngày 15 tháng 4 cho tới cận những ngày 27, 28, 29.. một số mới bỏ ra về
để tìm đường ra đi (trong đó đi được có Elvis Phương). Tôi và một số
anh em như Khả Năng, Thanh Việt, Vân Sơn, Diệp Lang và nhiều người nữa
đã ở lại cho tới sáng ngày 30 tháng 4.
Thiếu tá
Lân, Biệt đoàn trưởng đến họp, anh em lại tuyên bố giải tán, ai về nhà
nấy mà lo liệu. Ông thật buồn đến bắt tay từng người “giã biệt”. Chúng
tôi lặng lẽ nắm tay nhau mà không ai nói được lời gì. Diệp Lang đã chở
tôi về nhà (cám ơn Diệp Lang) ở đường Tự Do.
Ca sĩ Thu Hương
CA SĨ THU HƯƠNG (PARIS)
TQB mến! Ngày 30 tháng 4 là ngày hãi hùng làm sao chị có thể quên. Lúc
đó chị ở gần Tân Sơn Nhất, nghe tiếng pháo kích liên hồi, chị run và sợ
quá, 4 mẹ con bèn xuống lầu và ôm nhau núp dưới gầm bàn. Lúc đó thằng út
mới 7 tuổi, nó sợ nên cứ khóc, còn chị thì run bần bật khi nhớ đến
người ta loan tin họ vào sẽ rút móng tay nếu ai sơn đỏ.. Lúc đó, Khánh
Ly rủ một số nghệ sĩ ra bến tàu Bạch Đằng vượt biên, chị làm sao đi được
khi cha mẹ chị em còn ở lại đầy đủ, phần đứa con gái bị hen suyển nặng,
còn chị thì hay bị say sóng, nếu đi tầu thì hai mẹ con sẽ chết.. Hôm
sau, chị lái xe chở 4 mẹ con đến nhà anh chị bên Gia Định, anh đang làm
việc bên Tòa Đại sứ Pháp, sau một tuần thì nghe được tin Thanh Thúy chết
ở Tân Sơn Nhất, chị buồn và khóc cho ban mình sau đó còn rủ một số bạn
nghệ sĩ lại nhà làm đám giỗ cho Thanh Thúy, mãi đến sau này mới biết
Thanh Thúy đang sống ở Mỹ.
Cho đến năm 1982, vì có 2
bà chị dân Tây nên chị và các cháu xin đi đoàn tụ gia đình bên Pháp do
Tòa Đại sứ Pháp can thiệp. Đến năm 1983, Thanh Thúy sang Paris, mới có
dịp kể Thúy nghe vụ chị và bạn bè làm đám giỗ, Thúy cảm động lắm.
Ca sĩ Ngọc Hiếu
CA SĨ NGỌC HIẾU
Ngọc Hiếu rời Sàigòn ngày 29 tháng 4 năm 1975 trên chiếc thuyền đánh
tôm của một người bạn, tổng cộng trên chiếc thuyền nhỏ đó gồm có 12 gia
đình. Ngày 30 tháng 4, những người trên thuyền được một tàu Hạm Đội Mỹ
vớt, và trên tàu đó, Ngọc Hiếu gặp lại rất nhiều nghệ sĩ như Sĩ Phú,
Minh Phúc, Minh Xuân, Kim Xuân.. Sau khi đến Subic Bay ở Phi Luật Tân
làm thủ tục giấy tờ, chỉ một ngày sau, Ngọc Hiếu đi thẳng đến Mỹ và tạm
trú ở Camp Eglin Air Force Base ở Florida.
Sống ở
đây được 3 tháng, Ngọc Hiếu nhờ Minh Phúc giúp tìm sponsor, nhờ vậy, sau
đó được định cư ở New York up state trên Elmira. Ở đó 9 tháng, Ngọc
Hiếu dọn về New York City đi làm. Trung tuần tháng 8 năm 1977, Ngọc Hiếu
dọn về Cali đúng ngày 16 tháng 8, cũng là ngày nghe trên radio, TV
thông báo Elvis Presley từ trần, quả là một ngày rất buồn với Ngọc Hiếu.
Ca sĩ Phương Hồng Ngọc
CA SĨ PHƯƠNG HỒNG NGỌC (TEXAS)
Hình ảnh chiếc trực thăng lao xuống bản Dinh Độc Lập không bao giờ xóa
nhòa trong ký ức của Ngọc. Lúc đó gia đình mình đang ở trên lầu 4 chung
cư Kỳ Đồng, từ lan can nhìn xuống mình thấy rất rõ những hình ảnh đau
thương này. Có mấy người bạn rủ vợ chồng mình chạy ra Bến Vân Đồn để
xuống tầu nhưng vì con mình còn quá nhỏ (cháu mới có 2 tuổi) và không nỡ
bỏ lại bố mẹ cùng đàn em nheo nhóc nên Ngọc đã quyết định ở lại trong
tâm trạng hoang mang lo sợ không biết tương lai sẽ ra sau? Và sau khi
nghe tổng thống Trần Văn Hương tuyên bố đầu hàng mình đã khóc thật nhiều
và cho đến bây giờ, cứ mỗi năm đến ngày 30/4, những hình ảnh và cảm
giác đó lại trở về như mới ngày hôm qua..
Ca sĩ Phượng Linh
CA SĨ PHƯỢNG LINH
Gần cuối năm 1972, sau khi chính thức nghỉ hát để an phận làm vợ và
chuẩn bị ngày sanh cháu đầu lòng, Phượng Linh theo chồng đóng đô ở căn
cứ Không Quân trong phi trường Cần Thơ. Ở đây, Phượng Linh ngày ngày
nghe quen thuộc những tiếng máy bay lên xuống gầm thét như muốn xé không
gian, xé cả bầu trời, còn đêm đêm, lại nghe những tiếng rít nghiệt ngã
của những trái pháo tưởng như sắp rơi trên đầu.. Mỗi lần như thế chỉ
biết nhắm mắt và cầu nguyện cho đến khi tiếng pháo khuất dần vào không
gian.
Tưởng đâu, những hiểm họa chỉ là thế, có ngờ
đâu, tin tức những ngày tháng 3, tháng 4 năm 1975, mỗi lúc càng náo
động xôn xao, bán tín bán nghi, cho đến chiều 26 tháng 4 năm 1975, sau
khi Anh Thu, chồng Phượng Linh đi hành quân về với nét mặt buồn buồn,
chưa kịp ăn cơm chiều thì anh cho biết: “Đã được lệnh sáng mai 27 tháng 4
năm 1975, ba mẹ con phải đi trước với một số vợ con lính khác, rồi mình
sẽ gặp lại nhau trong vòng hai tuần..”. Như sét đánh ngang tai, chưa
kịp hỏi gì thì anh lại hối thúc: “Ăn cơm xong, em lo sắp quần áo và
những thứ cần thiết cho hai con, nhưng chỉ đem ít thôi, vì không còn
chỗ.. À! Nhớ đem cái hình của anh theo, nhở lạc nhau thì còn đi tìm
được..”. Nghe tới đó, thì tai chợt lùng bùng, nước mắt rơi lã chã, đầu
óc rối loạn không còn biết phải làm gì nữa, còn tâm trạng thì hoang mang
sợ hãi.. Anh nói chuẩn bị đi, mà đi đâu? Không có câu trả lời.. Chợt
nhớ lại câu chuyện di cư 1954 của Mẹ ngày xưa, khi theo đoàn người lên
tàu há mồm di cư vào miền Nam, Mẹ đã vĩnh viễn mất chồng và các con đã
mất bố cũng vì một lần phải đi trước. Oan nghiệt thay, Mẹ chẳng bao giờ
nhận được xác chồng! Mẹ buôn tảo bán tần nuôi các con khôn lớn. Nghĩ đến
phận mình giờ này phải đương đầu với hoàn cảnh éo le thêm một lần nữa
1975, Phượng Linh quyết định không đi! Ở lại sống thì cùng sống, chết
thì cùng chết.
Sáng 30/4/1975 sau khi nghe tuyên
bố đầu hàng, cùng lúc chiếc trực thăng đáp xuống chỗ hẹn Phượng Linh
bồng ẵm các con ra tầu cùng với nhiều gia đình khác. Chiếc trực thăng
sau đó đã đầy mà vẫn còn có người cố leo lên. Khi máy bay cất cánh, vừa
qua khỏi ngọn cây thì bị bắn nhưng may sao thoát được. Cả một cuộc hành
trình trong chuyến phi vụ cuối cùng, những cánh chim trời Trực Thăng tìm
về với nhau trong khoảnh khắc. Trong giờ phút cực kỳ nguy hiểm một mất
một còn của cơn bão biển, trời lại đen như mực tại đảo Côn-Sơn, được
biết đến 6 giờ chiều nếu không rời đảo thì mọi sự an toàn cho mọi người
sẽ không bảo đảm. Sau khi các anh họp xong, chồng Phượng Linh trở lại
tầu cúi hôn các con rồi lẳng lặng bỏ đi. Một ngày dài trong lo âu sợ
hãi, nhìn đâu cũng chỉ thấy bầu trời đen, sóng gầm vì bão biển lớn
"Ocean Stom" mênh mông biển cả, đầu đội Trời , chân đạp đất, đường phi
đạo trên đảo chỗ các anh đáp mưa ướt, những vết dầu loang còn sót lại,
với cái lạnh cắt da của bão biển, được biết một cánh bằng có đủ bản lãnh
và cùng một cánh bằng kỹ thuật bay phi cụ đã can đảm hy sinh cất cánh
trong cơn bão biển để đi tìm chiến hạm bạn, chính là anh. Ôi thôi nỗi lo
sợ lại về trong tiềm thức, có thể là những cái hôn cuối cùng mà anh đã
dành cho các con.. "Chúa, Mẹ ơi con xin phó thác"!
Khoảng một tiếng sau , tiếng cười mừng tủi lẫn lộn khi có người loan
tin đã tìm được chiến hạm và anh đã bay trở lại đảo. Chị cúi đầu khấn tạ
Ơn Trên và một lần nữa các anh đã họp lại. Sau đó tổng cộng 42 trực
thăng phản lực UH1, 2 trực thăng Chinook, loại này để tải đồ nặng như
Pháo Binh hay Thiết Giáp và đồ tiếp tế cồng kềnh. Những con chim thuộc
miền cuối Việt theo nhau đáp trên chiến hạm MidWay bạn an toàn, lúc đó
đậu ở địa phận Thái Bình Dương.
Một nguồn tin cho
biết, chiếc máy bay C 130 chở các vợ con lính đi trước ngày 26/4/1975 đã
bị trúng đạn nổ không còn một ai sống sót. Thương thay cho những linh
hồn vô tội được an nghỉ vĩnh cửu! Tạ ơn Trời, đã cho tìm được đến bờ tự
do cuối ngày 30 tháng 4 năm 1975 lúc 9g tối. Ôi Sàigòn, ôi Cần Thơ.. Xin
vĩnh biệt, biết bao giờ còn trở lại. Ngậm ngùi thương nhớ!
Ca sĩ Ngọc Minh
CA SĨ NGỌC MINH
30/4/1975 - 30/4-2015
40 năm chẵn – ngày đau thương nhất của quê hương Việt Nam. Những ngày
tháng cuối cùng của miền Nam thân yêu dù đã 40 mươi năm trôi qua nhưng
trong ký ức của tôi, một người con của lính, vợ của lính và chị của lính
(trong gia đình tôi) vẫn đậm nét những bi hùng đau thương giờ phút tắt
thở của miền Nam tự do, mảnh đất mà biết bao những người chiến sĩ VNCH
đã hy sinh xương máu và cả tuổi thanh xuân của họ để chiến đấu bảo vệ
cho Tổ Quốc.
Những ngày cuối tháng tư, mẹ tôi di
tản từ Đà Lạt về Sàigòn với tôi vì miền cao nguyên đã mất. Chồng tôi vẫn
còn ở đơn vị ứng chiến và hai người em trai kế tôi đang học năm cuối
của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tầu cũng chưa có tin tức gì. Mẹ tôi đứng
ngồi không yên, bà cầu nguyện rồi lại khóc âm thầm vì sợ tôi biết. Lúc
đó tâm trạng tôi cũng rối bời nhưng hai mẹ con cứ an ủi lẫn nhau vì nhà
tôi ở gần phi trường Tân Sơn Nhất nên ngày đêm nghe đạn pháo dữ dội của
Việt Cộng, cả nhà phải nằm dưới sàn vì sợ trúng đạn. Những căn cao ốc
chung quanh khu tôi ở cho Mỹ thuê trực thăng quần suốt ngày để đưa những
người Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Rồi 10g00 sáng 30 tháng
4/75, tiếng kêu gọi binh lính buông sung đầu hàng của tổng thống Dương
Văn Minh vang lên trên làn sóng của đài phát thanh đã làm rụng rời bao
trái tim của những người dân và là một viên đạn xuyên thẳng vào trái tim
của những người lính chiến đang cầm sung cố chiến đấu đến viên đạn cuối
cùng để ngăn giặc tràn vào thủ đô. Biết bao những người lính đã quay
sung bắn vào đầu tự sát. Biết bao những đơn vị vẫn giao tranh với Việt
Cộng cho tới viên đạn cuối cùng – mặc dù cấp chỉ huy đã bỏ chạy rồi – họ
cũng chết tập thể với đồng đội của họ. Thật bi hùng, thật đau thương..
Hôm nay xin tưởng niệm đến những anh hùng vô danh của dân tộc đã hy sinh
trong giờ phút 25 của cuộc chiến cho lý tưởng Tự Do.
Những giọt nước mắt của tôi khi ghi lại những kỷ niệm này xin như một
nén hương lòng ghi ơn những người chiến sĩ kiêu hùng của quân lực VNC,
anh linh của các anh hãy bình an và từ hào vì hy sinh của các anh nên
tất cả chúng tôi và thế hệ sau này mới có được ngày hôm nay. Cali 30
tháng 4/2015 Ngọc Minh
Ca sĩ Linh Phương
CA SĨ LINH PHƯƠNG (TAM CA MÂY HỒNG)
Ngày 30 tháng tư Linh Phương đã ở California rồi nhưng lòng rồi bời vì
những biến chuyển thời sự đang xẩy ra tại Sàigòn! Tuy không có những kỷ
niệm đau buồn như các bạn khác nhưng Linh Phương cũng rất buồn. Khi nghe
tin gia đình qua sau, Linh Phương có ghé qua Camp Pendleton để tìm
kiếm.
Ca sĩ Tâm Đan
CA SĨ TÂM ĐAN
Trưa ngày 30 tháng 4/75, hình ảnh mà Tâm Đan còn nhớ mãi, khoảng 11 giờ
hơn, nhà Tâm Đan trên lầu cư xá Thanh Đa (nhìn ra cầu Bình Triệu), vang
lên nhiều tiếng súng nổ rền...
Tâm Đan nhìn thấy
nhiều xe VC đi trên cầu Bình Triệu tiến vào Saigon, cùng lúc đó nhìn
thấy phía dưới cầu có giang thuyền treo áo trắng. Cùng giờ phút đó,
radio đài Phát Thanh Saigon đang phát một bản nhạc do chị Thái Thanh hát
"biết đâu bờ bến, thuyền ơi thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu”... thì ra
bài Con Thuyền Không Bến .. Tâm Đan và cả nhà đã ôm nhau khóc. Tâm trạng
buồn chung cũng như của tất cả mọi người..
Nghệ sĩ Kim Tuyến
NGHỆ SĨ KIM TUYẾN
Ngày
30/4 sau khi tôi quyết định ở lại vì không đành lòng ra đi chỉ với con
mình và cơ hội thứ hai được xuống tàu cùng 4 em gái, bỏ lại 3 em trai
trong tuổi động viên và mẹ tôi muốn ở lại với 3 con trai. Hoàng (tên của
trung úy làm việc trên chiến hạm 504 hay 505 mà lâu quá KT đã quên) đã
lập danh sách và hẹn đúng ngày đến đón. Mẹ cậu ấy là bạn với mẹ tôi, bảo
H. đến lo cho gia đình mẹ tôi,vì bác ấy sẽ đi với con rể là pilot, cuối
cùng bác và con rể bị kẹt lại toàn bộ gia đình. Cả nhà sống trong sự
hoang mang lo lắng vì tiếng súng nổ và bom đạn vẫn còn vang rền từ xa và
từ từ nghe rất gần vì nhà KT ở giữa ngã Tư và ngã Năm Bình Hòa (sát
cạnh có nhà bác ký giả Trần Tấn Quốc chủ báo Đuốc Nhà Nam ).
Đứng trước cổng rào nhà quan sát thấy một số người chạy hối hả ngang
qua nhà từ hướng ngã 5 chạy vào, tôi lo lắng vì biết rằng tình hình
không bao lâu nữa. Cuối cùng khi nghe radio, ông DVM kêu gọi buông sung,
một anh lính, có lẽ là lính địa phương quân đi hối hả ngang qua nhà
trong lúc tôi và đứa em trai kế đang đứng trước nhà, tiếng súng nổ vẫn
chưa dứt. Em tôi lo sợ VC hay du kích bắn chết anh lính nầy, vội chạy ra
kéo anh vào trong rào nhà. Nó vừa tuột vội áo quần đang mặc trên người
đưa cho anh lính ấy và bảo anh lính cởi bộ bô đồ lính ra, mặc bộ đồ xê
vin của nó vào cho an toàn. Mặc vội vào, anh cảm ơn vội vã chạy đi. Sau
đó lác đác vài anh lính nữa, có anh chỉ mặc áo thung lót trắng nhưng
quần và giầy bốt đờ sô vẫn còn nguyên. Thằng em trai nầy, Quyến là tên
nó lại tặng vội cái quần và đôi dép cho anh nầy.
Tôi và đứa em trai lớn đã khóc. Chiều hôm đó nhìn thấy 4, 5 anh thương
bệnh binh ốm yếu xanh xao tay còn những vết thương băng. Có anh tay cầm
lon gigo, các anh vẫn còn trên người bộ áo xanh của bệnh viện đi thất
thiểu ngang qua nhà KT. Hai mẹ con tôi vội mời các anh vào nhà và dọn
cơm mời các anh ăn. Các anh cho biết họ thuộc binh chủng Thủy Quân Lục
Chiến tham chiến từ Quảng Trị bị thương và được chuyển về điều trị tại
Quân Y Viện Lê Hữu Sanh. CS tràn vào đuổi các anh ra khỏi bệnh viện.
Giọng Huế và Quảng Trị mà tôi nhận ra. KT hỏi: “Các anh có thân nhân ở
SG không?”. Có anh nghẹn ngào trả lời: “Vợ con tôi đã di tản vào Nam
nhưng giờ tôi chưa có tin tức gì cả”. Tôi cố gắng cắn chặt đôi môi để
nuốt nước mắt cho khỏi tuôn trào trước mặt các anh.
Sau khi ăn xong, các anh từ giã ra đi, tôi nhét vội vào tay mỗi anh một
ít tiền, dặn dò các anh đón xích lô hay taxi về nhà thân nhân. Nhìn
theo bóng dáng các anh dần khuất sau khỏi rặng tre xanh khi hoàng hôn đã
buông xuống, lòng bùi ngùi thương cảm nước mắt tôi chực tuôn trào. Tôi
khóc cho số phận các anh và gia đình vợ con các anh. Bên tai KT vẫn còn
những lời như nghèn nghẹn u buồn của anh thương bệnh binh “Vợ con tôi di
tản vào Nam đến bây chừ vẫn chưa có tin tức gì cả!”. Tôi đã bật khóc.
Khóc cho cả chính mình và tôi đã cảm nhận rằng - một tương lai tối đen
đang chuẩn bị bắt đầu.
Sáng hôm sau tôi chạy xe
một vòng ra Saigon quan sát. Đường xá như những đống rác khổng lồ với áo
quần giấy tờ giày dép vứt bừa đầy đường. Tôi lặng người, buồn bã quay
về nhà. Tôi hụt hẫng chới với như từ trên cao rơi xuống vực sâu và như
người vừa trải qua cơn ác mộng! Tôi đã không tài nào chợp mắt. Cả gia
đình tôi, nhất là đứa em trai kế tôi lo lắng cằn nhằn tôi: “Em đã nói
chị đi đi mà không nghe”, tôi trả lời: “Chị làm sao bỏ má và như em biết
là má làm sao bỏ mấy con trai!”. Thế là cả nhà ngã bệnh nằm vùi cả hai
tuần!
Khi qua đến Mỹ , trong một buổi hát cho Lính
tại San Jose , tôi đã nhắc lại kỷ niệm ngày 30/4 các anh Thương Bệnh
Binh bị đuổi ra, trên tay vẫn còn.... Hình ảnh đau thương nầy vẫn theo
tôi mãi cho đến ngày hôm.nay, 40 năm Quốc Hận. Tôi tự hỏi :" Không biết
các anh ấy giờ ra sao ? Có gặp lại được vợ con bình yên " ? Chỉ còn biết
cầu nguyện cho tất cả các anh và những người dân VN yêu chuộng Tự Do
được hạnh phúc bình an.
Ca sĩ Sơn Ca
CA SĨ SƠN CA (ÚC CHÂU)
Ngày 30 tháng 4/75 Sơn Ca còn kẹt lại ở VN vì cha mẹ không nỡ rời bỏ
quê hương xứ sở thân yêu. Với người nghệ sĩ có nhiều cảm xúc thì đây là
một nỗi niềm đau đớn khó nói lên bằng lời, thật oan khiên đau khổ cho
một VN bị mất vào tay CS.
Rồi sau 4 năm kẹt ở lại,
Sơn Ca vượt biển đi thoát được trong một chuyến đi đầy nguy hiểm gian
nan, tưởng đâu đã bỏ mình ngoài đại dương, nhưng thật may mắn, Sơn Ca đã
đến được trại Tỵ nạn Songkhla tháng 8/1979, và trong đêm đó, một đêm kỷ
niệm và tuyệt vời nhất của đời nghệ sĩ, Sơn Ca đã được cất cao tiếng
hát tự do của mình trước gần 10 ngàn khan giả tỵ nạn với ca khúc Rước
Tình Về Với Quê Hương, bài hát mà Sơn Ca đã được khán giả thương yêu cho
đến tận ngày hôm nay.
Ca sĩ Thanh Mai
CA SĨ THANH MAI
Ngày 30 tháng 4/75 là ngày ngỡ ngàng, buồn tủi nhất trong cuộc đời
Thanh Mai khi nghe tin Tổng Thống Dương Văn Minh kêu gọi buông súng đầu
hàng. Lúc đó, thân phụ Thanh Mai đóng quân ở Cần Thơ còn gia đình nàng
sống trong khu gia binh đường Tô Hiến Thành. Tin đầu hàng như sét đánh
ngang tai, vì từ đây, nàng biết Saigon sẽ chẳng bao giờ còn là một thành
phố của tình yêu và tình người.
Bác sĩ Nguyễn Đăng Dũng và Michelle Mỹ Thanh
BÁC SĨ NGUYỄN ĐĂNG DŨNG (NEW JERSEY)
Tôi không quên buổi sáng ngày 30 tháng 4 năm 75 khi thức dậy đứng sau
cửa sắt nhìn ra đường, góc ₫ường Hiền Vương và Hai Bà Trưng, tôi thấy lố
nhố bọn lính chính quy Bắc Việt với các cái nón cối và các khẩu AK 47.
Chúng đứng tại nơi mà sáng hôm trước tôi thấy các anh chiến sĩ Hải quân
VNCH trong bộ áo trận và các chiếc nón sắt cầm các khẩu súng quen thuộc M
16 đứng gác kiểm soát trật tự. Ôi một cuộc đổi đời bi thảm xảy ra chỉ
trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Một lúc sau tôi nhìn qua cửa sắt thì thấy
ngoài đường hỗn loạn bọn lính nón cối đã đi mất thay vào đó là các anh
chiến si VNCH ₫ang mỏi mệt qua lại trên đường.
Lúc
đó có một xe cứu thương nhà binh đậu trước cửa các anh quân y nhảy
xuống cởi bỏ áo trận thay bằng quần áo thường phục rồi bỏ xe đi mất. Đầu
óc tôi lúc đó hỗn lọan. Vặn radio thì chỉ thấy giọng VC. Nghe đài BBC
thì còn nản hơn cái đài phát thanh mà tôi đã không bao giờ nghe lại từ
hôm đó.
BS Nguyễn Đăng Dũng
(cựu Nội trú BV Nguyễn Văn Học 1975)
MICHELLE MỸ THANH
Những ngày cuối cùng của tháng 4 năm nay tại thành phố New York bầu
trời thật âm u. Nhớ lại ngày này lúc 40 năm về trước, mình chợt nhủ
thầm: “Hình như hôm nay ông trời buồn bã vì ổng đang sắp chuyển mưa khóc
cho một ngày thảm thương nhất trong lịch sử đất nước Việt Nam”. Khoảng
thời gian đó MT đang đi học thì bỗng “bị” nghỉ hè thật sớm, cảm giác bạn
bè sắp sẽ xa thầy xa bạn rời bỏ mái trường thân yêu vĩnh viễn nơi có
biết bao kỷ niệm êm đẹp. MT và mấy nhỏ bạn vội vã viết cho nhau lưu bút
mà lòng có một cảm giác buồn rười rượi. Đang ôn lại những gì của ngày
xưa cuối tháng Tư năm đó lúc còn là một nữ sinh trung học còn mặc áo dài
trắng mộng mơ cắp sách đến trường, bất chợt nhận được email của anh
Trần Quốc Bảo: “Xin anh chị Dũng và Michelle Mỹ Thanh cho Trần Quốc Bảo
vài giòng về ngày 30 tháng 4 năm 1975, lúc ấy anh và Michelle đang ở đâu
và làm gì?”.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đó MT đang ở
tại căn cứ Hải Quân Clark ở Philippines. Hôm đó mọi người trong nhóm
gia đình Chase tinh thần vẫn còn hỗn loạn vì đã bất đắc dĩ ra đi vội vã
giã từ Sài Gòn yêu dấu 8 ngày trước đó. Từ khi chiếc cửa máy bay đóng
sầm lại Ba của Mỹ Thanh thật buồn vì không biết tương lai sẽ ra sao, vì
ông không muốn ra đi để bỏ lại sau lưng tất cả những gì đẹp nhất của Đại
Học Sư Phạm Sài Gòn và những thân thương của thời nhà giáo ở Võ Trường
Toản, Tây Ninh, Hòa Hảo. Còn đâu Lê Thanh Hoàng Dân của đài truyền hình
Việt Nam Quê Hương Mến Yêu? Xa rồi nhà xuất bản “Trẻ” với biết bao kỷ
niệm xuất bản cả trăm tựa đề của nhiều tủ sách giáo dục, còn đâu?
Hôm đó, mọi người nghe BBC từng giờ từng phút theo dõi tin tức Việt Nam
trông mong tin lành cho quê hương Việt Nam đang giờ hấp hối. Khi xướng
ngôn viên của đài BBC loan tin: “Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh đầu
hàng…”, tất cả mọi người chết lịm rơi nước mắt khóc cho Sài Gòn yêu dấu
nơi chôn dấu những kỷ niệm đẹp mà không biết bao giờ trở lại thành phố
thân yêu.
Ca sĩ Diễm Chi
CA SĨ DIỄM CHI
Buổi sáng ngày 30/4/75, gia đình tôi tỉnh dậy trên hòn đảo mang tên Phú
Quốc, nơi mà hàng trăm nhân viên Đài Mẹ Việt Nam được di chuyển bằng
máy bay từ hơn tháng qua để chờ di tản sang Hoa Kỳ! Tôi không nhớ là
mình đã ngủ như thế nào tại hòn đảo này. Hình như trên một cái chiếu chỉ
có cảm giác người đau như dần. Cậu em tôi ẵm đứa con gái gần 8 tháng
tuổi của tôi lay lay vai tôi và nói: “Chị dậy ra chợ ăn sáng với các bạn
chị đi. Em cho bé Trúc bú sữa rồi. Chị tỉnh chưa?”. Tôi bảo cậu em 17
tuổi của tôi: “Vậy à? Em ẵm nó đi theo đi. Nhớ mua thức ăn mang về cho
chị”. Hiến là em trai ba má tôi quyết định cho nó đi theo vào phút chót
để đỡ đần cho tôi trong lúc tôi đang bệnh phải uống thuốc mỗi ngày.
Tôi làm vệ sinh cá nhân xong, dọn dẹp valy và uống thuốc xong thơ thẩn
theo các bạn ra bờ suối nhìn nước chảy mà suy nghĩ đến tương lai không
biết sẽ ra sao. Tôi đi xuống suối tắm chung với các bà, vừa tắm vừa nghe
họ nói chuyện rôm rả mà đầu óc tôi không để ý cho lắm. Một hồi lâu lắm
Hiến ra gọi tôi vào lại dãy nhà mà chúng tôi tá túc cùng với nhân viên
của Đài, nó nói nhỏ: “Chị ơi, ngoài chợ họ thi nhau đổi tiền ra đô la,
họ đồn Việt Cộng đánh vô tới Sài Gòn nhiều người chết, bị thương, không
biết cậu mợ và gia đình mình có sao không? Có chạy đi được không chị”.
Tôi lắc đầu, lo lắng nhưng không nói gì. Hai chị em nhìn nhau nước mắt
ròng ròng. Nó đưa cho tôi một lô gồm các món ăn sáng và chiều rồi nói
tiếp: “Chị làm em lo sợ quá. Chị phải ăn đi, để còn lo cho Trúc và Em.
Chị uống thuốc mà không ăn gì thì làm sao khoẻ để tiếp tục đi Mỹ. Em
nghe các bạn chị nóí tàu Mỹ đang chờ ngoài bãi có thể đêm nay sẽ ra tàu
mà họ không biết mình sẽ ra bằng cách nào? Đông người lắm. Không biết họ
có cho em lên tàu không?”. Tôi vội nói: “Có chị mà, người Mỹ đã cho
mình ra đây thì sẽ đưa mình đi, em không có gì phải suy nghĩ. Thôi mình
về trại, chị sẽ ăn rồi tính sau”. Tôi ẵm con gái độc nhất của mình cảm
thấy nó nhẹ bỗng. Có lẽ nó cũng uống sữa và ăn rất ít. Tôi soạn tiền ra
để đổi đô la. Giá nào cũng đổi, xong hai chị em lếch thếch về trại. Hiến
hỏi nhỏ: “Chị! em để phần ăn cho anh Nhàn hồi tối tới giờ không thấy
anh ấy ăn, tối qua cũng không ăn nên sáng nay em ăn hết còn no lắm. Chả
lụa và ruốc, bánh mình ăn được vài hôm nhưng nếu chưa đi thì mình không
có tiền Việt để đi chợ chị à”. “Không lo! Lúc ấy mình đổi tiền lại”.
Linh tính cho mọi người biết giờ G sắp tới. Buổi tối đến thật chậm
trong cái nóng bức của tháng tư hải đảo. Tôi không nuốt được thức ăn,
chỉ khát nước. Mọi người chung quanh xì xào nho nhỏ. Tôi lấy vội viên
thuốc nuốt xuống cổ hôn lên mái tóc loe hoe của con gái rồi nằm xuống dỗ
giấc ngủ. Đột nhiên nhiều đèn pin rội vào chỗ nằm. Tiếng nói đủ cho mọi
người nghe: “Xin mọi người giữ trật tự. Đến giờ đi tản ra khỏi nước.
Mọi người phải để lại tất cả hành lý chỉ mang theo một túi nhỏ đồ dùng
cần thiết. Ai mang theo valy cồng kềnh sẽ bị MP giữ lại. Tất cả mọi
người đi ra bờ biển xếp hàng một và im lặng tuyệt đối. Xin đi theo chúng
tôi và giữ cho các em bé im lặng không làm náo động dân chúng trên
đảo”.
Tôi đã thu xếp đồ đạc cần thiết nhưng vì tôi
uống thuốc đi không vững nên anh Nhàn bế bé Trúc ngủ trên tay còn Hiến
một tay nắm vai một tay kéo tôi đi theo. Tôi bảo nó bỏ lại valy của mọi
người lại và chỉ đem theo sữa gigo và thức ăn. Khi lên chiếc thuyền,
chúng tôi được nhóm quân đội canh giữ hai bên và giúp chèo lại gần chiếc
tàu buôn rất lớn do Đài sắp xếp. Tôi và bé Trúc cũng như các bà được
lính Mỹ ưu tiên lên tàu bằng thang dây. Các em bé được họ chuyển tay ắm
lên rồi giao cho bà mẹ. Một anh lính Mỹ nói lớn: “Xin mọi người lên xe”.
Chúng tôi đang nước mắt ngắn dài vì vừa sợ, vừa tiếc của phải bỏ lại đồ
đạc bỗng cùng cười lên trong tiếng sóng của đại dương. Có tiếng ai đó
thì thầm như gió thoảng: “Vĩnh biệt quê hương Việt Nam”.
Ca sĩ Connie Kim
CA SĨ CONNIE KIM
Sau khi nghe tin ông Dương Văn Mình đã đầu hàng Cộng sản, ngồi trên
bong tầu của chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ, Connie Kim hướng mắt về phía
chân trời, nơi quê hương yêu dấu đang chìm đắm trong những giây phút đầu
tiên đổi đời. Kim nghe lòng mình quặn đau, thất vọng vì thật sự Sàigòn
yêu dấu đã không còn là của toàn dân miền Nam nữa. Còn đâu những giây
phút lái xe đi đến thu hình cho đài truyền hình số 9, còn đâu nữa với
đài Phát thanh Quân Đội, đài phát thanh Sàigòn nơi đã từng phát lên
tiếng hát Connie Kim với những âm thanh của những ca khúc vui tươi, sống
động để làm ấm lòng các anh Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa nơi tiền đồn xa
xôi, hẻo lánh.
Sài Gòn thực sự đã mất! Vĩnh biệt Saigon yêu dấu!!!Vĩnh biệt miền Nam thân thương!
Connie Kim
April 27, 2015
Ca sĩ, kịch sĩ Trang Thanh Lan
CA SĨ TRANG THANH LAN
Ngày
30 tháng 4, Trang Thanh Lan lúc đó đang ở khu Xóm Gà Gò Vấp. Lúc đó còn
nhỏ, chỉ biết ngơ ngác khi nghe tin mất nước, đến khi về nhà, chợt khóc
thật nhiều khi thấy thương đất nước và các anh chiến sĩ VNCH. Đau lòng
nhất là nhìn thấy cảnh những sách vở, những tài liệu liên quan đến quân
đội VNCH bị đốt sách, trong đó có những bức thư tình đẹp nhất thời con
gái của TTL.
Ký giả Trọng Minh, tài tử Kim Vui
CA SĨ, TÀI TỬ KIM VUI
KÝ GIẢ TRỌNG MINH
Sau
những lần tìm kiếm đường đi thất bại, chiều ngày 29 tháng 4-75 tôi từ
nhà ở đường Lê văn Linh quận Tư (bên hông chợ Xóm Chiếu) lang thang ra
đường Trịnh Minh Thế trước cửa Khoa Năm tức Nhà Rồng để dò la xem có
chiếc ghe thuyền hay tàu biển nào ra khơi thì xin đi ké, không ngờ trong
lúc tôi đang mò mẫm đường vào Kho Năm thì gặp được một toán, gồm khoảng
một Đại Đội quân nhân Nhảy Dù đang tiến vào Kho Năm để lên tàu, thế là
tôi tháp tùng theo nhưng không bị cản trở như một số người khác, nhờ
trước đó tôi hành nghề “phóng viên chiến trường” nên quen biết khá nhiều
cấp chỉ huy, nhất là các đơn vị tác chiến như: nhảy dù, thuỷ quân lục
chiến, biệt động quân, biệt kích. v.v…Anh em nhảy dù khi vào Kho Năm,
lúc đầu chiếm giữ chiếc tàu biển Tân Nam Việt, nhưng chờ tới khuya cũng
không có ”tài công”, trong lúc mọi người đang lúng túng chưa biết phải
giải quyết bằng cách nào thì may mắn một con tàu nhỏ, tàu Tiền Phong đi
ngang qua, thế là anh em Nhảy Dù áp lực buộc tàu Tiền Phong phải ”cập
vào” để Anh Em chuyển qua tàu Tiền Phong ra khơi, lúc đó trên tàu có rất
nhiều người mang theo radio để theo dõi tình hình thời cuộc diễn biến
qua đài phát thanh nên tôi được biết là khoảng 11 giờ 30 khuya 29 tháng
4-75, đây cũng là lần đầu tiên tôi được nghe bài ca Nối Vòng Tay Lớn của
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Sau khi an toàn thì tôi
được biết Tiền Phong là con tàu đã được ông bà Việt Định Phương chủ nhật
báo Trắng Đen mua và chuẩn bị sẵn mọi thứ trong đó có thực phẩm như:
gạo, đồ ăn gồm lạp xưởng, còn về phía ban biên tập Trắng Đen trên tàu
ngoài toàn bộ gia đình ông Việt Định Phương và một số thân nhân còn có
một vài biên tập viên trẻ, trong đó có Du Miên và một người nữa (tôi
không còn nhớ tên) sau này qua sinh sống ở Canada va từ đó không còn
thấy Anh ta xuất hiện ở bất cứ lãnh vực nào. Có một điều tôi cần nói
ngay ở đây là nhờ quen biết thân tình với gia đình ông Việt Định Phương
từ thuở ông bà còn hàn vi, còn ở trong con hẻm đường Nancy, Sàigòn, lúc
bắt tay vào việc thực hiện tờ tuần báoMàn Ảnh Sân Khấu do Nghệ sĩ Trần
văn Trạch làm chủ nhiệm do đó lúc nào ông bà cũng tỏ ra thương yêu tôi,
kể cả khi ở Hoa Kỳ, đúng là ông bà đã nhường cơm xẻ áo cho tôi, khi ngồi
trên tàu Tiền Phong trực chỉ tới vịnh Subic Bay ở Phi Luật Tân cứ mỗi
bữa cơm ông bà lại cho người mang sang cho tôi một chén cơm và một cái
lạp xưởng, nhờ vậy mà tôi không bị đói trong suốt cuộc hành trình trên
biển cả.
Sau những ngày lênh đênh trên biển, con
tàu Tiền Phong tới bến Subic Bay, tôi theo đoàn người tỵ nạn lên bờ, còn
gia đình ông bà Việt Định Phương chuyển sang tàu lớn đi thẳng đến đảo
Guam. Đến đảo Guam, ông bà Việt Định Phương và một số đồng bào tỵ nạn đã
gặp nữ minh tinh Kim Vui, lúc đó cô đang có một cơ sở thương mại ở đảo
Guam, và phụ trách một chương trình Việt ngữ trên đài phát thanh Guam,
nhằm mục đích hướng dẫn về đời sống ở Mỹ và tìm kiếm thân nhân cho những
người bị thất lạc, điều đáng nói thêm ở đây là khi Kim Vui ở Guam thì
ngoài gia đình nhỏ của mình, vợ chồng con cái đề huề, còn có cả song
thân của cô và đặc biệt hơn nữa là trưởng nữ của cô, cháu Thu đã đoạt
chức Hoa Hậu của đảo Guam. Vì là chỗ thân tình trước khi đi Mỹ, nên khi
xẩy ra biến cố tháng 4/75, chiếu theo luật của Mỹ, người có thân nhân ở
Mỹ được ưu tiên di tản khỏi Việt Nam, do đó Kim Vui đã làm thủ tục bảo
lãnh cho tôi đến Mỹ, cô tin rằng tôi sẽ đến được Mỹ dưới dạng bảo lãnh,
nhưng cô đâu có ngờ khi thủ tục giấy tờ bảo lãnh tôi của cô về đến Việt
Nam thì cũng là lúc toà đại sứ Mỹ bị tràn ngập, đóng cửa nên mọi thủ tục
trở thành vô ích.
Gặp gia đình ông bà Việt Định
Phương ở Guam, Kim Vui đã sốt sắng hỏi thăm tin tức về tôi, nhưng ông
Việt Định Phương chỉ biết là tôi có đi trên tàu Tiền Phong, nhưng từ khi
đến vịnh Subic Bay thì ông hoàn toàn không biết tin tức gì về tôi. Tuy
ông Việt Định Phương đã xác định la tôi có mặt trên tàu Tiền Phong nhưng
không có tin tức của tôi, không biết sống chết ra sao nên Kim Vui đã
liên tục nhắn tin tìm tôi trên đài phát thanh Guam, đến độ mà một tháng
sau, khi tôi chuyển đến đảo Guam để vào My, khi vừa tới trại tỵ nạn ở
Guam, tôi hỏi xin ban điều trại cho tôi mượn điện thoại để liên lạc với
người nhà bên ngoài trại là nhân viên của trại đã đoán biết tôi là ai và
hỏi tên tôi mật cach trúng phóc.
Ngay khi nhận
được tin tôi đã đến Guam, Kim Vui đã lập tức vào trại, mang theo những
món ăn Việt Nam do song thân nấu sẵn mang vào đồng thời trao cho tôi 200
đô và hỏi tôi cần gì sẽ mang vào sau. Có lẽ cuộc đời ở trại Guam là lúc
tôi thảnh thơi, khoẻ khoắn nhất, sáng xách ô xuống bãi biển nằm nghỉ,
trưa về đã có cơm Kim Vui mang vào và cha con Ký giả Ngọc Hoài Phương đã
hâm nóng sẵn chỉ việc ngồi ăn cùng cha con Ngọc Hoài Phương. Ở Guam tôi
đã được ăn rau muống do Kim Vui mang từ ngoài vào, không chỉ thế mà còn
có cá khô, đem nướng cá khô những người Đại Hàn, cũng đi tỵ nạn từ Việt
Nam thấy thèm nhờ mua giúp, ký giả Đạm Phong và một số đồng bào biết
tôi có rau muống ăn cũng nhờ mua giúp, nhưng Kim Vui đã mang vào trại cả
cốp xe chỉ để biếu không đồng bào.
Tới trại Guam
khoảng gần một tuần, tiêu hết hai 200 đô, vì sáng nào cũng mời bạn bè đi
cà phê, bánh ngọt sáng, rồi còn chơi bài lắt nhắt ở bờ biển nên khi
chuyển sang trại Adeson để bay vào Camp Penleton, California ... gặp tôi
Kim Vui hỏi tôi còn tiền không? khi tôi bảo hết, Kim Vui kêu lên Anh
tiêu gì dữ vậy? Lúc đó tôi chưa biết giá trị đồng đô-la, quen tiêu như
tiêu tiền VN nên còn ngỏ trách Kim Vui, thế là Kim Vui lại dúi thêm cho
tói mấy chục đô để dằn túi khi đến Mỹ.
Rời Camp
Pendleton ra làm việc ở Mission Viejo thấy giá xăng lúc đó chỉ hơn 40
cents một gallon tôi mới thấy 200 đô la Kim Vui đưa cho tôi ở Guam là
qua lớn. Điều tôi thấy nên ghi nhận thêm ở đây là khi đi tỵ nạn tôi có
mang theo một chiếc cập trong đó chứa 4 triệu tiền Việt Nam còn mới
tinh, khi đến Guam tôi nhờ Ký giả Ngọc Hoài Phương giữ giúp nên cứ mỗi
lần cầm đến chiếc cập là Ngoài Phương là nói Biến thành Đô La đi ...
Biến thành Đô La đi ... Khi rời đảo Guam đi Mỹ tôi trao chiếc cập lại
Kim Vui thì Kim Vui bảo: Sao ở Việt Nam Anh không cho Em ... Tôi được
biết sau này Kim Vui đã dùng số tiền này để dán nhà.
Đúng, đời là vô nghĩa, sắc sắc ... không không là thế.
Ca sĩ Mai Lệ Huyền
CA SĨ MAI LỆ HUYỀN
Ngày
27/04/75, Mai Lệ Huyền và một số nghệ sĩ khác vào Đài Truyền Hình để
quay một số bài hát cho Đài, nhưng CS lúc bấy giờ đã đến gần sát thủ đô
SG. Trong giai đoạn khẩn trương khói lửa mù trời, Mai Lệ Huyền chỉ còn
kịp về nhà cùng với người em ruột chạy tới Toà Đại Sứ Mỹ để tìm đường ra
đi với bộ quần áo duy nhất trên người. Nhờ quen biết thân tình, Mai Lệ
Huyền đã lên được chuyến tàu bỏ nước trong 1 đêm mưa 29/4/75, một cơn
mưa tầm tã nhất chưa từng có ở Sài gòn.
Chuyến tàu
bỏ nước lênh đênh trên biển trong bão lệ sụt sùi của gần mấy ngàn trái
tim tan vỡ tha hương. Chưa bao giờ bài ca Exodus ý nghĩa và cay đắng như
bây giờ. Hàng ngàn người úp mặt vào lòng bàn tay để không muốn nhìn
thấy những thảm cảnh trước mắt là hiện thực. Xa xa, chiếc máy cassette
nhỏ của ai còn vang những lời nhạc buồn của người nhạc sĩ họ Trịnh:
"Chợt một chiều tóc trắng như vôi, lá úa trên con rụng đầy, cho trăm năm
vào chết một ngày... ". Con tàu lạnh lùng trôi đi giữa màn đêm tăm tối.
Mưa lạnh ngoài trời. Lệ buốt trong lòng. Ôi những con thuyền, ôi những
tâm hồn không bến, sẽ trôi về đâu ngày mai. Nhiều nhân chứng trong
chuyến tàu này kể lại về những thảm cảnh giành giật nhau từng chỗ đứng,
chỗ ngồi đến nỗi có nhiều người phải rớt xuống lòng biển cả mà không thể
nào quay lại vớt. Tàu đầy ngập người đến nỗi không ai dám rời một bước
vì sợ mất đi chỗ ngồi của mình. MLH kể rằng, cô nghe người ta nói có
Khánh Ly ở đầu tàu, nhưng cô lại ở phía sau, không có cách nào lên đó để
gặp bạn được. Chuyến tàu đông nghẹt người đến nỗi, là chính cô cũng
không đếm được con tàu này chứa được 5 ngàn hay 10 ngàn người. MLH còn
cho biết rằng, người phát lương thực và nước uống đi từ đầu tàu phía kia
muốn đi phát hết cuối tàu bên này, thì phải đi từ sáng đến chiều mới
tương đối gọi là phát đầy đủ.
Rồi tàu đến được
Wake, rồi Guam... bắt đầu một cuộc đời mới đầy xa lạ bỡ ngỡ cho những kẻ
rời quê bỏ nước. Từ những cứ điểm này, hàng ngàn người lưu vong bị chia
tứ tán làm nhiều hướng như những nhánh sông phiêu bạt. Kẻ về Cali,
người đến Houston... còn Mai Lệ Huyền cùng một số khác tới 1 khu trại
dành cho người ti nạn ở Arkansas. Ở đây, cô tìm ra được một số bạn nghệ
sĩ cũ như Kim Xuân, Kim Thu (vũ công đoàn Maxim HTT), Sơn Ca... Ở trong
trại khoảng 10 ngày, cô em ký giấy tờ bảo lãnh hai chị em Mai Lệ Huyền
về định cư ở Washington DC. Lúc này, tương đối tâm hồn cô đã lắng đọng
phần nào sau những cơn giông tố của cuộc đổi đời.
Sau đó, Mai Lệ Huyền tìm lại được những mối liên lạc với các bạn bè,
đồng nghiệp cũ như Hoàng Thi Thơ, Kiều Chinh, Ng. Năng Tế, Huỳnh Anh...
và từ đó tất cả tìm cách kéo về Cali, mảnh đất hứa cho những con chim
Việt xa tổ xa bầy tụ lại.
Ca sĩ Pauline Ngọc
CA SĨ PAULINE NGỌC (ĐỨC)
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, một ngày súng đạn vẫn còn nổ lẻ tẻ như tiếng
pháo của những người nằm vùng đang chờ đón những Người giải phóng Thành
Phố Saigon mà không biết là đã làm cho họ 40 năm sau “phỏng g..”
Làm sao quên được Bảo ơi! Ngày em của Chị, chuẩn uý non nớt Nguyễn Anh
Dũng đã hy sinh nơi An Lộc đúng ngày 30 tháng Tư. Ngày Chị vẫn còn bàng
hoàng sửng sốt khi nghe, thấy Saigon đã mất tên. Nhà Chị ở đường Trần
Quang Khải số 54 là quán Cà phê Uyên Ương cạnh rạp Văn Hoa, nhìn lên
cầu thấy những chiếc xe tăng kéo vào Thành phố mà nước mắt tuôn tràn em
ơi...
Ca sĩ Ngọc Mỹ
CA SĨ NGỌC MỸ
Ngày 30/4/1975, tôi thật may mắn được biết gia đình tôi gồm mẹ, chị,
hai con gái của chị và anh Trọng, anh của người bạn ca sĩ thân nhất của
tôi Kim Bang cùng vợ và gia đình 3 người đã tới đảo Guam. Họ đi ra trên
chuyến bay cuối cùng rời Tân Sơn Nhứt. Chồng cũ của tôi George Dunham,
ngay cả khi chúng tôi đã ly dị, nhưng vì tình thân với gia đình tôi và
anh Trọng, đã không quản nguy hiểm quay lại Saigon đem họ đi. Chúng tôi
luôn luôn biết ơn.
Nhưng trong suốt tuần đó, tôi
hát tại phòng trà La Mancha từ 10 giờ tối đến 4 giờ sáng, tôi dành thì
giờ ban ngày theo dõi tin tức và tìm cơ hội đưa gia đình đi Mỹ. Tôi bơ
phờ, mệt mỏi vì thiếu ngủ do làm việc ban đêm, và lo lắng khi thấy tin
tức trên truyền hình cho thấy VC đang chiếm dần các tỉnh từ Bắc vào Nam.
Cảnh ghê rợn nhất tôi còn nhớ là người ta đang chờ được tàu Mỹ rước ở
Vịnh Cam Ranh, chết vì đói khát, nhiều xác người nằm la liệt trên bến
tàu. Mỗi lần nghe nhạc Việt Nam là nước mắt tôi tuôn rơi, nên một thời
gian dài tôi không nghe nhạc Việt nữa. Đến ngày hôm nay, tôi vẫn không
thể quên. Nhưng ít ra tôi đã có thể nghe lại các bài hát Việt Nam.
Cám ơn Thượng Đế, Trời Phật, chúng ta đến được Hoa Kỳ để sống ước mơ của mình.
Ca sĩ Diễm Hương
CA SĨ DIỄM HƯƠNG
Lúc xẩy ra biến cố 30 tháng 4 đau thương thì chị đang ở ngoại quốc, có
theo dõi tình hình trong nước và có cảm nhận là miền Nam đang bị bỏ rơi,
nhưng lòng thì mong có phép lạ để tránh cảnh di tản xa quê hương mà một
số người đã ra đi từ giữa tháng tư.
Ngày 26 tháng
4 nghe tin radio Mỹ nói Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Việt Nam đã thiêu hủy những
tài liệu quan trọng là chị đã tan nát cõi lòng. Sau đó chị thường nhận
những cuộc gọi collect calls từ những bạn bè ở đảo nhờ bảo lãnh sang
Mỹ.
Giờ đã 40 năm trôi qua.. đã biết bao nhiêu chuyện bi thảm vẫn chưa xóa mờ trong tâm khảm.
Ca sĩ Uyên Phương
CA SĨ UYÊN PHƯƠNG
Ngày 30 tháng Tư, Uyên Phương mới sanh con gái được một tháng nên phải ở
lại nhà, nhưng vì nhà có người đi Mỹ nên bị niêm phong, thế là phải đi
lang thang ở nhờ nhà bà con. Tới tháng Sáu, Uyên Phương mới tìm được
người đưa đi xuống Rạch Gía. Ở đây có người vượt biên bị bắt lại, nên
phải bồng con dời đi thành phố khác ở. Sau cùng đi xuống Hà Tiên, ngày
20 tháng Sáu vượt biên bằng ghe đi sang Thái Lan ở đảo “Klong Dai" cho
tới 4 tháng sau mới sang Mỹ!
Thời gian đó, Uyên
Phương khóc quá nên bị mất sữa phải về kiếm bác sĩ chữa cho khỏi. Đi đâu
ra ngoài, Uyên Phương cũng phải đội nón lá che mặt vì lúc nào con mắt
cũng sưng húp, bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu yêu dấu ngày xưa không bao
giờ có thể tìm lại được. Vì thế, sau này khi làm CD, Uyên Phương đã chọn
chủ đề “Yêu Dấu Tan Theo” như đánh dấu một giai đoạn thật buồn.
Chị Hoàng Lan (New York)
HOÀNG LAN (NEW YORK)
Chiều 28 bạn của Hoàng Lan là VP nói có đi thì đưa Hoàng Lan và các
cháu vào TSN đi chung với gia đình PPT, trong khi đó thì chồng Hoàng Lan
đang thất lạc trên đường bộ chưa biết ra sao . Lòng ngổn ngang không
định hướng bỗng nghe tiếng gầm thét trên không trung, mọi người hốt
hoảng la hét nằm xuống pháo kích , pháo kích vài giây sau vài người lòm
còm bò dậy run rẩy nói phi trường TSN trúng bom rồi lửa khói ngất trời ,
tin tức loan đi trung uý phản loạn Nguyễn thành Trung bỏ bom Dinh Độc
Lập. Ngày 29 tháng 4 giới nghiêm.
Sáng 30/4, khi
Hoàng Lan đến cổng Phi Long Tân Sơn Nhất, thì Quân Cảnh cho hay máy bay
cuối cùng đã rời phi đạo lúc 4 giờ sáng. Nghe tin, tôi như muốn chết lả
trong tay cô cháu, thế đành vất vả ngật ngưỡng về nhà gần phở gà Hiền
Vương, thấy tiệm bán giò chả ở đường Hiền Vương đã treo cờ to đùng. Một
số người lớn bé đang khiêng vác nào là TV, tủ lạnh, bàn ghế, quạt máy và
tất cả những gì họ chiếm được. Sau quang cảnh bấn loạn đó, Hoàng Lan
không tin được vào hai con mắt mình và chết sững khi chứng kiến những
anh chiến sĩ VNCH áo lót màu ô liu, quần xà lỏn, chân đất họ đang tìm
thân nhân với những nét xót xa, cay đắng, uất hận hiện trên những khuôn
mặt đầy khí phách oai hùng.
Ca sĩ Khánh Ly
CA SĨ KHÁNH LY
Ngày 5 tháng 5/1975, chiếc tàu Miller thả chúng tôi xuống căn cứ Subic
Bay. Ngay tại bến, dàn chào 8 ngàn người chúng tôi là những dẫy bàn cũng
la liệt đồ ăn, thức uống. Tôi tìm ra gà, nhưng là một cái trứng gà. Chỉ
ăn một quả trứng sau 4 ngày đói khát trên tàu. 4 ngày ở đó. Một tháng ở
Wake Island. Một tháng ở Fort Chaffe. Tôi chứng kiến nhiều chuyện cười
ra nước mắt. Nhiều chuyện mà tôi bảo đảm là những ai đã từng cùng ở
trại, chờ sponsor thuở đó đều phải nhớ. Những nhà ăn, được dựng lên tiếp
đón dân tỵ nạn, được đặt cho những tên rất vui tai. Nhà ăn Trắng (Bạch
Ốc chăng?). Nhà ăn Đỏ. Nhà ăn Xanh. Ba nhà ăn, tôi ghép lại kêu chung là
nhà ăn Tây, theo màu cờ của Pháp. Ăn có giờ và phải sắp hàng, lấy khay
rồi muốn ăn bao nhiêu thì ăn, nhưng không được mang về lều.
Việt Nam ta rất là phong lưu ngay cả trong lúc gian nan nhất. Ngồi chờ
tin đưa về, xem hôm nay Mỹ dọn thức ăn gì... “Gà bà con ơi”. Gà. Thế là
mọi người ùn ùn kéo nhau đi sắp hàng ăn... “Cá bà con ơi, hôm nay ‘tụi
nó cho ăn cá’”. Mọi người nhìn nhau ra cái điều khinh bỉ... Mẹ, sao nó
dám cho mình ăn cá. Sao nó không làm gà. Cái hàng người sắp hàng hôm đó
cũng bình thường, nhưng mọi người vào lấy cơm không phải để ăn mà chỉ để
lấy phần tráng miệng là một trái cam, còn bao nhiêu cơm, cá mang đổ vào
thùng rác hết. Họ có tiền, mua mì gói ăn.
Có một
hôm, chuyện không đáng xảy ra, đã xay ra, làm tôi nhớ mãi và cứ thấy
lòng mình sao sao ấy. Số là hôm đó nhà ăn dọn cá lên, bỗng có một ông
cầm khay thức ăn la lối om sòm, kết tội Mỹ cho ăn uống không đầy đủ.
Người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ gác cửa thấy vậy tới hỏi thăm, rồi
không biết sao, ông Việt Nam nọ hất nguyên khay cơm vào mặt người lính
Mỹ. Cơ quan nhà nước Mỹ tới ngay tại chỗ để giải quyết. Người thông dịch
viên nói lại rằng người tỵ nạn này than phiền là không đủ ăn và người
lính kia đã vô lễ với họ.
Người sĩ quan Mỹ chỉ
nghe, không nói gì, sau cùng ông ta nhờ thông dịch viên mời ông Việt Nam
nọ và số người có mặt trong nhà ăn hôm đó đi theo ông. Đến bên mấy
thùng rác, ông ta mở nắp thùng thì trong thùng đầy ngập cơm lẫn cá. Ông
ta vẫn không nói gì, chỉ mở nắp thùng rác cho mọi người nhìn thấy rồi
lặng lẽ đậy lại. Sau đó ông ta... xin lỗi ông Việt Nam kia. Chưa hết,
ông ta còn yêu cầu mọi người đi theo đến một chỗ ở của ta, tôi thấy
chung quanh tường toàn là... cam với cam. Người sĩ quan Mỹ cũng vẫn
không nói gì. Cũng lại xin lỗi ông kia và lập tức đổi người lính gác với
lý do... không lễ độ với người tỵ nạn.
Mỗi bữa
ăn, mọi người tráng miệng bằng một trái cam hay táo. Dù không thích cá
nhưng vẫn sắp hàng để lấy trái cam, còn cơm thì mang đổ đi. Lúc đó có cả
cái vụ biểu tình chống Mỹ ngay trong trại và kêu gọi mọi người trở về
lại Việt Nam. Sau đó mới có chuyện con tàu Việt Nam Thương Tín chở một
số người về lại Nha Trang. Đến khi rời trại, theo sponsor, mọi người mới
biết gà ở đây rất rẻ. Cá lại rất đắt. Tuy vậy, không ai có thể trở lại
những trại tạm cư đó để được sống một lần nữa chuỗi ngày... ăn rồi nói
dóc, nhẩy đầm hoặc đi tìm thân nhân. Ấy vậy, có làm mới có ăn, có làm
mới thấy chẳng phải dễ gì mà có kẻ hầu người hạ.
Năm 79, tôi đón bạn vượt biên từ đảo qua. Lúc đó, rau muống mới được bầy
bán ở chợ Tầu và rất đắt. 2 đồng 99 chỉ có một pound. Đối với tụi tôi,
rau muống luộc chấm nước mắm ớt, vắt tí chanh là nhất vì đã mấy năm rồi
chưa được thưởng thức cái món đặc biệt Bắc kỳ nghèo này. Rau ăn, nước
làm canh, dặm thêm một món mặn nữa là cha thiên hạ rồi. Đón bạn, dù là
Tổng Thống, cũng chỉ đến thế thôi. Ai có ngờ bạn ghép ngay cho cái tội
bần tiện. Sao không đãi thịt gà mà lại cho người mới tới ăn rau muống.
May mà bạn không hất nguyên đĩa rau muống vào mặt. Tởn tới già. Những
lần mời cơm sau đó – cho dù mời bất cứ ai – tôi cứ nhồi thịt gà cho
chắc. Vừa rẻ, vừa được tiếng sang. Để bạn ngồi ăn thịt, còn tôi cứ chút
bắp cải luộc chấm nước mắm trứng, rau muống luộc, tương Cự Đà hoặc xào
với mắm tôm, tỏi. Đậm đà hơn tí thì đập hai trái trứng, làm trứng bác
kiểu Bắc kỳ. Ấy thế mà khối anh bỏ thịt ăn rau với tôi đó.
Phải công nhận một điều là gà, vịt heo của mình ngon thật. Con gà luộc
vừa chín tới, kiểu lòng đào, vàng ươm, thơm phức nằm ngửa trên dĩa. Chút
lá chanh sắc mỏng rắc lên trên. Phải ăn bằng tay xé gà ra, chấm nước
mắm chanh ớt hay muối tiêu. Bộ lòng gà làm sạch sẽ, luộc theo gà, ăn như
vậy cũng được, nhưng nếu xào với dứa (trái thơm) thì ngon hơn. Nước súp
gà bỏ vào ít miến, thế là có ngay một tô miến gà. Chỉ có lông là không
ăn được nhưng cũng không bỏ phí nào, bán ngay cho mấy ông các chú, chúng
ta có cái chổi lông gà vừa để quét bụi, vừa để... đánh con. Gà Mỹ ăn
vào như ăn giấy. Chán bỏ mẹ.
Vậy là trong 12 con
giáp, gà cũng được việc, cũng có giá lắm chứ phải chơi sao. Dù gà Mỹ dở
thật, chỉ có thể kho gừng là có lý nhất. Nhưng mấy năm gần đây, An Nam
ta mở trại nuôi gà theo kiểu Việt Nam. Cứ bới là có ăn. Phải bới mới có
ăn. Song trại gà bắt buộc phải ở xa thành phố, xa chỗ đông người, cho
nên chúng ta từ 26 năm nay chỉ nghe tiếng gà gáy trên tivi.
Có nhiều lúc bỗng thèm nghe tiếng gà gáy... “Về trong phố xưa tôi nằm.
Tiếng gà gáy trưa gáy khan bên đồi.
Chợt như xác thân không còn.
Và cạnh tôi là đồng vắng” (TCS).
26 năm, quả thực quanh chúng ta hay ít nhất với riêng tôi, chỉ là đồng
vắng. Hình như tôi luôn luôn mong chờ một điều gì đó. Lòng lúc nào cũng
mang mang một nỗi niềm. Nhớ nhớ. Thương thương. Ngay cả đến tiếng gà
gáy, dù trong phim ảnh, cũng đủ làm tôi xót xa. Trong khối óc bé nhỏ của
tôi, thật ra nào có chứa đựng những gì gọi là vĩ đại đâu. Chỉ có những
điều nhỏ nhặt, tầm thường. Những kỷ niệm đã nát ra muôn ngàn mảnh. Nhưng
không hề mất một mảnh nào dù là nhỏ nhất. Và trong những giờ phút năm
cùng, tháng tận này, lòng tôi còn đau hơn dù quanh tôi “đồng vắng” vẫn
tràn ngập tiếng cười. Những tiếng cười có thể không đúng lúc nhưng cũng
vẫn cần thiết cho đời sống. (trích báo Thế Giới Nghệ Sĩ bộ cũ phát hành
năm 2001)
Ca sĩ Lệ Thu
CA SĨ LỆ THU
Mười giờ sáng 30 tháng 4, trên một góc lần nhìn xuống, thành phố đã tan
hoang đổ nát. Những cụm khói cao. Những bóng người hối hả xuôi ngược.
Những tràng đạn nổ. Những tiếng bom vang. Những thây người nằm chơ vơ
trên mặt lộ. Ôi Saigon đã xa thật rồi những nụ cười tuổi mộng và bây giờ
chỉ còn lại trên đầu thành phố một trời sầu giông bão. Năm nay kẹt lại ở
quê nhà. Năm năm cất cao tiếng hát giữa lòng đất quê hương mà tưởng
chừng như đó là tiếng thở dài áo não của hàng triệu người ở lại.
(trích báo Nghệ Sĩ số 56 phát hành ngày 7 tháng 5 năm 1985 do TQB phỏng vấn)
Nhiếp ảnh gia Thái Đắc Nhã
NHIẾP ẢNH GIA THÁI ĐẮC NHÃ
Thái Đắc Nhã, người nhiếp ảnh gia sinh ngày 19 tháng 12 năm Kỷ Sửu có
trên 49 năm chụp ảnh nghệ thuật, khởi đầu từ những ngày đi học lớp nhiếp
ảnh, điện ảnh ở Hội Việt Mỹ năm 1964-1965, sau đó cầm máy đi chụp được
rất nhiều tấm ảnh nghệ thuật giá trị. Năm 1966, anh đoạt nhiều giải
thưởng nhiếp ảnh, từ đó tên tuổi Thái Đắc Nhã đã được nhiều người trong
nghề biết tới.
Năm 1969, khoác áo chinh y, đi lính ở
Sư đoàn 9 hậu cứ ở Vĩnh Long và cuộc hành quân cuối cùng của Anh là ở
mặt trận Mỹ Tho tháng 4 năm 1975. Sau 1975, vì hoàn cảnh, phải cầm máy
chụp dạo qua ngày tại Sở Thú, tao Đàn, bùng binh Saigon.. chờ ngày ra
đi, và mộng ước đã thành, khi năm 1977, anh vượt biển đến được Hoa Kỳ.
Năm 1985, anh khai trương studio Reflection ở Quận Cam và tiếp tục giữ
vũng bảng hiệu này cho đến ngày hôm nay là đã tròn 30 năm dài.
Đầu năm tới đây, tuần báo Thế Giới Nghệ Sĩ sẽ thực hiện một số báo chủ
đề về Nhiếp Ảnh Gia Thái Đắc Nhã, 50 Năm Rong Duỗi Dường Dài Với Ống
Kính, mời bạn đọc đón xem.
Nhạc sĩ Trung Nghĩa
NHẠC SĨ TRUNG NGHĨA
Ngày 24 Trung Nghĩa còn kẹt cứng ở trong phi trường Tân Sơn Nhất. Đạn
pháo thì bay đầy trời và trong cái không khí hỗn loạn đó, một phép lạ đã
đến khi Trung Nghĩa không có tên trong danh sách để ra đi, tuy nhiên
một viên chức Hoa Kỳ kiểm soát những người lên máy bay lúc bấy giờ đã
nhờ Trung Nghĩa dịch một số câu ra tiếng Việt như: “Tất cả mọi người lên
máy bay không được mang vũ khí, đạn dược và một số thức ăn đặc biệt”.
Sự nhờ vả chỉ có thế nhưng lại chiếm cảm tình của một vài viên chức Hoa
Kỳ, vì vậy khi đọc hết danh sách này, mọi người đều đã đi lên máy bay
hết, chỉ còn trơ trọi Trung Nghĩa với một trời bơ vơ.. Viên kiểm soát
bèn hỏi còn tên Trung Nghĩa đâu, anh chỉ lắc đầu cười buồn, thế là anh
chàng phụ trách kiểm soát mời Trung Nghĩa lên máy bay luôn.
Ca sĩ Mỹ Hòa
THƠ HUYỀN MI
(tức nữ ca sĩ Mỹ Hòa, linh hồn của ban nhạc The Cat’s Trio trước 75)
Một Nơi....?
Một nơi tên gọi quê hương
Một nơi chép mãi những trương sử buồn
Một nơi tên gọi cội nguồn
Một nơi tất bật tìm xuồng ra khơi !*
Chừng Nào… ? ? ?
Khuya trở giấc gọi trăng thủ thỉ
Giấc mơ nầy thế kỷ nào xong?
Việt Nam thôi hết long đong
Vang rền dưới ruộng trên sông giọng hò
Hết giặc đỏ quanh co trong xóm
Hết công an hù tóm dân lành
Nụ mơ hé nhụy xuân xanh
Tuổi hồng tươi rói trên cành yêu thương*
Mất Hút
Bão đổ bên đời nắng nghiêng mây
Chắt chiu nét bút áng thơ bay
Gót son lả mộng vàng nỗi nhớ
Héo hắt cung trầm nụ tuyết say
Luân lưu đỉnh nguyệt sầu tôi dậy
Vây cụm sương nhòa quanh mắt nai
Thuở thủy tinh xưa lung linh hiện
Lặng lờ mất hút dấu thiên thai
Bao tháng tư đen đã trãi mềm
Khung trời quê cũ lạnh hồn đêm
Vật vờ sâu thẳm từ tâm thức
Cuối vực phong trần u uất thêm
Thủ môn Lâm Hồng Châu
THỦ MÔN LÂM HỒNG CHÂU
Em Bảo mến!
Nhắc đến 30/4/75, ngày này đã gợi lại anh những kỷ niệm đau buồn không
chỉ riêng anh mà còn cho biết bao gia đình cùng tâm trạng mà suốt cuộc
đời này không thể nào quên. Chiều ngày 28 tháng 4, đội cầu Cảnh Sát Quốc
Gia và đội Tổng Tham Mưu còn có trận cầu làm nghĩa lấy tiền cứu trợ
những gia đình di tản từ miền Trung vào Saigon lánh nạn.
Sau khi trận đấu chấm dứt, anh lái xe về lại nhà ở Thủ Đức, trên xa lộ
từ Sàigòn về nhà, hai bên đường anh nhìn thấy cảnh đồng bào mình hoang
mang lo sợ. Họ hai tay bồng bế con cái trên xe gắn máy tuôn ra xa lộ
trực chỉ chạy về Sàigòn lánh nạn vì họ đã biết tin Cộng Sản đã vào đến
Biên Hòa và Long Khánh đã thất thủ.
Khi về nhà anh
chị chuẩn bị đưa 3 cháu lên Sàigòn tạm trú nhà người dì để tìm đường ra
đi, nhưng không biết mình sẽ đi đâu? Cho đến sáng 29/4, vào lúc 8g
sáng, anh lái xe rời nhà ra xa lộ thì cảnh đồng bào ngơ ngác sợ hãi
không biết đi đâu vì cầu xa lộ lúc đó đã bị Cộng Sản nằm vùng chiếm nên
không sao qua được, cho nên anh quay xe lại qua ngã cầu Bình Lợi, đó là
con đường duy nhất thoát được để về Saigon giây phút hãi hùng khi nhìn
đoàn người chen lấn nhau để tìm đường về thành phố Saigon lánh nạn..
Nhưng mọi người đâu biết rằng, Sàigòn đang là tâm điểm của quân Cộng sản
trên đường muốn đến hầu tiến chiếm miền Nam thân yêu của chúng ta.
Sàigòn giờ đây đã bắt đầu thoi thóp để rồi chuyện gì sẽ đến?
Gia đình bên vợ anh nhờ có người quen bên Hải Quân nên may mắn đã vào
được Bộ Tư Lệnh Hải Quân tối 29/4 lúc 8 giờ đêm và được lên tầu HQ1..
Chiếc tầu này rời bến Bạch Đằng không có Hạm Trưởng vì thuyền trưởng này
về rước gia dình nên bị kẹt lại, rồi việc gì đã xẩy ra khi con tầu rời
bến không người chỉ huy. Tầu rời bến trên sông Lòng Tảo đã đâm vào cồn
cát trên đường chạy ra biển Vũng Tầu. Người điều khiển con tầu là một vị
sĩ quan văn phòng không kinh nghiệm về lái tầu. Nhưng may mắn sao, có
chiếc tàu khác trên đường nhận được đèn cấp cứu nên cập vào kéo ra khỏi
vùng mắc cạn và con tàu tiếp tục hải hành ra vùng biển Vũng Tầu.
Trên chiếc tầu HQ1, được biết có một cố vấn người Mỹ làm việc ở Bộ Tư
Lệnh Hải Quân VN nên vị này liên lạc với Đệ Thất Hạm Đội Mỹ ở ngoài vùng
biển Quốc Tế và được lệnh là tất cả tầu Hải Quân VN phải tập trung ở
gần đảo Côn Sơn chờ lệnh. Đến sáng 30 tháng 4 thì được lệnh trực chỉ hải
hành về Subic Bay (Phi) là căn cứ của Mỹ. Tại đây gần hơn 6000 người VN
được Mỹ mướn một chiếc tầu hàng đưa về đảo Guam là căn cứ của Mỹ trên
Pacific Ocean và ở đây gần một tuần trong căn cứ Anderson Air Force Bay.
Sau đó gia đình Anh về trại tỵ nạn tại Eglin Air Force Bay ở Talahase
Florida (tại trại này có khoảng 4000 người VN tập trung ở đây) và lần
lượt chờ chánh phủ Mỹ tìm người bảo lãnh để ra đi định cư khắp các tiểu
bang.
Gia đình Anh may mắn được một Giáo Hội
United Methodist Church bảo trợ về vùng tiểu bang Maryland gần thủ đô
Washington DC và ở đây suốt 40 năm không đi đâu cả. Anh trở về trường
College đi học lại và sau đó làm việc cho ngân hàng Suntrust Bank khoảng
20 năm, sau đó ra làm business mở tiệm Beauty và bây giờ thì đã retire.
Các con anh nay đã có gia đình và được 4 cháu nội ngoại.
Mỗi năm, cứ đến ngày 30 tháng 4 lại có dịp nhắc đến bao kỷ niệm của tất cả người tỵ nạn chúng ta..
Trung phong Quang Đức Vĩnh
TRUNG PHONG QUANG ĐỨC VĨNH
Cuối tháng 3 năm 1975, tôi trở về Việt Nam sau khi tham dự vòng
loại giải túc cầu Á Châu tại Bangkok. Richard A. Kubiak, người
bạn Mỹ của chúng tôi tại Thailand có đưa cho tôi một bao thư nhờ
trao lại cho Minh Phúc - Minh Xuân và một bao thư bảo lãnh gia
đình tôi, Anh căn dặn đến giờ thứ 25 cầm giấy tờ nầy đến tòa đại
sứ Mỹ ỏ Sài gòn.
Chiều tối ngày 29-4 bạn
bè tôi trong căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất cho biết Việt Cộng đã
tràn ngập, tôi vội vã cùng gia đình chạy đến Tòa Đại Sứ Mỹ
nhưng hỡi ơi chung quanh tòa Đại Sứ Mỹ một rừng người trên bờ tường
Thủy Quân Lục chiến Mỹ canh gác nghiêm nhặt. Tôi đứng đó mãi cho
đến sáng ngày 30-4 khi chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi nóc
Tòa Đại Sứ.
Buồn bã trở về nhà ở Dakao, chờ
đến trưa thì Ba vợ tôi gọi chúng tôi đi về nhà ỏ Trương Minh Ký,
Trên đuòng về tôi nhìn thấy vô số xe chở bộ đội Cộng Sản Bắc
Việt từ hướng ngã tư Bảy Hiền tiến vào thành phố. Tôi cúi gầm
đầu xuống không muốn nhìn thấy lũ "chiến thắng" và giọt nước
mắt đầu tiên ngày 30 tháng 4 của tôi bắt đầu.
Hậu vệ Nguyễn Văn Cư
HẬU VỆ NGUYỄN VĂN CƯ
Bảo thân! Cuộc đổi đời trận cuối cùng dự giải King’s Cup tại Thái Lan
tháng 4 năm 75 sau đó trở về nước. Ngày 26, 27 tháng 4 năm 75, anh là
người đưa thủ môn Quốc Bảo sang Cầu Hàn (Khánh Hội) để đi. Đưa xong là
anh trở về còn đá 1 trận cuối ngày 28 tháng 4 ở sân Le Văn Duyệt.
Ngày 30 tháng 4 tính vô trình diện trong Biệt Đòan Thể Thao Quân Đội
Tổng Tham Mưu trong Tân Sơn Nhất, nhưng khi vào đó, thấy cửa đóng không
cho ai vào nên anh phải trở về nhà.. Nghe đâu, lúc đó phía trong còn kẹt
lại Tiết Anh, Dương Sắc Thái..
Theo lịnh các sĩ
quan phải đi học tập cải tạo, tối đến lên xe bít bùng.. không biết đi về
đâu, về sau mới biết Trảng Lớn (Tây Ninh). Trong thời gian này, nhờ tổ
chức bóng chuyền đi đây đi đó .. mới gặp được anh Duy Trác, Trung Chỉnh,
đại úy Philip Ngọc (giữ gôn cho Quan Thuế) và anh Trần Cảnh Được (Bóng
Bàn), Đặng Tấn Phong (thầy Aikido)..
Gần một năm
bàng hoàng với cuộc sống thiếu thốn cực khổ lao động chỉ còn biết gạch
những nét vạch trên cây để biết ngày, cho đến 1 hôm được Ông Quận Trưởng
Quận 10 can thiệp cho về đá trong đội Quận 10. Sau 1 năm trở lại sân
Cộng Hòa, anh rất sung sướng và cảm động khi khán giả vẫn dành cho mình
những cảm tình quý mến, lúc đó Đỗ Cẩu giao chức thủ quân lai cho mình,
từ đó cùng anh Lư Tiểu Đệ liên lạc với các cầu thủ như Dư Tân, Hậu,
Hoàng Má, Tám, Đức 1, Thu, Anh Đực 2, Đào Việt Cường, Lý Chí Vân.. cùng 1
số lấy tên Lương Thực Thực Phẩm (sau này mới đổi là Công Nghiệp Thực
Phẩm) do ông Huong va anh Triết chủ dao. Đặc biệt nhất chỉ trong vài
tuần sau, đội banh khi đi đá ở Tây Ninh, những người quản giáo trại tù
đã cho phép 1 số anh em trong tù ra coi. Sự mừng rỡ của mọi người lúc ấy
không biết lấy gì tả xiết.
HỒI ỨC TRẦN QUỐC BẢO Nhánh Cỏ Phiêu Linh
Ảnh
chụp Trần Quốc Bảo trong khuôn viên trường Lasan Mossard tháng 11 năm
1993, lần đầu tiên về lại VN sau 16 năm biệt xứ. Cảnh trường hoang tàn,
hàng cây vú sữa ngày xưa đã không còn.
Tôi viết những trang hồi ức này để tưởng nhớ lại một thời đã qua. Một
thời tuổi thơ đầy dấu yêu giờ đã chìm trong những dâu bể ngậm ngùi.
Viết, như để gói ghém một tấm lòng không bao giờ quên được những nhân
vật, những địa danh được bồi hồi nhắc đến trong đây. Cũng trong nỗi niềm
đó, xin những phút tưởng nhớ đến trăm người đồng hành, đã xấu số chìm
theo chiếc ghe định mệnh giữa lòng biển khơi lúc 8g sáng ngày 12 tháng
12 năm 1979. Viết, cũng là một cách để nhớ về những tình thân đã từng
học, từng sống chung tại trường tiểu học Chí Hòa (Hòa Hưng), Thánh Mẫu
(Sàigòn), Trường Công Giáo Lái Thiêu, Phan Sào Nam, Lasan Mossard, Lasan
Đức Minh, Lasan Taberd, trại tỵ nạn Leamsing (Thái Lan), trại tỵ nạn
BăngKhen, trường Estancia (Costa Mesa), đại học OCC.. Mong rằng, những
nhân vật được đề cập trong đây, sẽ không trách người viết, nếu có điều
gì sơ sót.
Có nhiều lúc tôi mơ ước được ngồi kể
lại thật nhiều về khung trời cũ của mình. Khung trời của bướm hoa, chim
chóc. Của mây hiền hòa. Của tiếng suối róc rách dịu dàng quanh lâu đài
tuổi nhỏ. Ở đó, có bóng thơ tôi lầm lũi cô đơn đi nhặt từng chiếc lá dầu
mỗi khi chiều xuống ngang lưng đồi Thủ Đức. Giờ đây, những ngày thơ
mộng đó đã xa, khung trời dấu yêu xưa đã mất nhưng hình như vẫn là một
đeo đuổi của định mạng, tôi vẫn yêu, vẫn nhớ, ngay trong giấc ngủ, ngay
trong chiêm bao về khung trời cũ đó như những gì quý giá nhất còn lại
của đời sống. Khung trời yêu thương đó của tôi, của Lasan Mossard, của 8
năm nội trú chắt chiu nhiều kỷ niệm. Kỷ niệm của những tháng ngày buồn
thiếu vòng tay ấm áp của cha, xa môi hôn của mẹ không như những đứa bạn
khác quanh mình đang thừa thãi.
Tuổi thơ của tôi,
với lứa tuổi lên 9, lên 10 lúc đó lại không bao giờ có được những gì đã
nghe thấy trong các bài nhạc Tuổi Ngọc, Tuổi Hồng, Tuổi Mộng Mơ, Tuổi
Thần Tiên.. của Phạm Duy đầy hoa mộng. Tuổi thơ và khung trời dấu yêu
nơi này chỉ có niềm cô đơn là người bạn thân duy nhất, giữa bốn bức
tường vàng cao ngất trong chập chùng những cao ốc nguy nga. Làm sao tuổi
thơ đó có thể tìm được “một chiếc áo như mây hồng”, hay “những chuyến
xe êm đềm” trôi qua trong cuộc sống. Ở đó, chỉ có những buổi chiều vàng,
tôi lang thang dọc theo con đường mòn đất đỏ. Từ đó lặng lẽ thả dần
xuống khu hồ tắm piscine im lìm với những tàng cây dầu to lớn rợp bóng
mát. Phía trước khuôn viên của những dẫy lớp Ba là những hàng cây thông
sapin xanh mướt chạy dài thẳng tắp thật đẹp. Ở đó, vào những chiều mưa
thật buồn, tôi thường trốn bạn bè và các frères ngồi thu mình lặng lẽ
nhìn hàng mưa phủ lấp trên các ngọn sapin cô độc. Mưa đẹp và dễ thương
như những cảnh huyền ảo trong chuyện cổ tích xa xưa. Với lứa tuổi lên
10, tôi đã biết đau với mưa, đã biết khổ với nhạc, đã thấy tâm hồn ngây
thơ của mình vật vã tả tơi quyện cùng nhạc Trịnh:
Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao
Còn gì nữa đâu sương mù đã lâu
Em đi về cầu mưa ướt áo
đường phượng bay mù không lối vào
hàng cây đã xanh gần với nhau..
(Mưa Hồng – TCS)
Trong màn tơ trời dày đặc của mưa, tôi vẫn thấy rõ xa xa con đường dốc
nhỏ Hoàng Diệu chạy dài xuống ngôi chợ Thủ Đức. Đối diện với bên đây,
Lasan Mossard số 43 đường Hoàng Diệu, là bên kia viện mồ côi Thủ Đức
khép kín lạnh lùng. Hai thế giới hoàn toàn xa lạ và khác biệt. Hai thế
giới tuổi thơ chỉ cách nhau vài mươi bước chân mà đã cách biệt ngàn
trùng. Tuổi thơ bên đây Mossard với những “cậu ấm” có gia đình giàu sang
quý tộc, ngược lại tuổi thơ bên kia Viện Mồ Côi là những song sắt khóa
kín những khát khao. Ai đã từng lớn tiếng hô hào yêu thương xã hội, yêu
thương trẻ thơ có bao giờ ghé nơi chốn đó, hay những hình ảnh vuốt ve
trìu mến chỉ có thể được xem vài phút trên các đài truyền hình, hoặc
trên một vài tờ báo. Tội nghiệp quá, cho những niềm tin xanh mướt đã vội
chết non trên sa mạc cuộc đời. Tội nghiệp quá, cho những đôi mắt ngây
thơ nhìn đời qua những song sắt chắn! Tất cả hình như chỉ là những dối
gian, lừa lọc chữ nghĩa và môi miệng bạc hãnh của thế gian.
Tôi đã yêu tuổi thơ từ đó. Từ những lẻ loi bất hạnh của chính mình. Từ
những cảm thông sâu sa về những trái tim cùng đau cho một vết nhói. Từ
những cặp mắt hững hờ. Từ những tâm hồn nguội lạnh. Từ những tim khô
trống vắng. Từ những bước chân hoang lạc lõng lối đi về. Gần 8 năm sống ở
Mossard, với tuổi đời lên 9, lên 10 thật đẹp, tôi chưa bao giờ có một
lần nhìn thấy được hạnh phúc của chính mình hiện diện. 8 năm ở đó, tôi
chỉ vui sống bằng những hạnh phúc sẻ chia từ những bạn bè đồng cảnh ngộ.
Ngay cả trong những nỗi khổ đau của chúng, tôi đã thấy trên mắt mình
long lanh giòng lệ trào tuôn.
Nếu được ví sánh,
tôi sẽ vẽ cuộc đời mình bằng một giòng suối. Có thể là suối nước mắt. Có
thể là suối kỷ niệm, mà đã gọi là kỷ niệm, thì có gì đẹp bằng kỷ niệm
thuở học trò. Làm sao tôi quên được những dẫy lớp chạy dài xa tít. Mùi
phấn trắng bảng đen như còn đó thoang thoảng một mùi hương. Của Mossard,
của Taberd, của Đức Minh rộn ràng chất ngất. Của những mặt bàn học lặng
im nhưng đầy nhịp đập. Của những khuôn mặt thân quen bè bạn. Nghịch
ngợm. Hiền lành. Siêng năng. Quỷ quái.. Có hình ảnh đâu đây người bạn Đỗ
Nguyên đạo mạo kính trắng năm nào. Có trưởng lớp Hoàng Tuyên, Đào Quốc
Việt siêng năng chăm chỉ. Có Đỗ Anh Tuấn và những đêm xưa thường chắp
tay sau lưng đi tới đi lui nghiền ngẫm đọc sách sau giờ cơm tối. Có Trần
Quân một thuở vô địch bóng bàn. Có Trần Quốc Tú, Trần Thanh Xán liếng
thoắng đùa nghịch như mèo. Có Trịnh Quan Trung, Trần Quốc Bình, Châu Bắc
Kỳ quen thuộc. Có Du Minh, Hà Minh Thiện.. học giỏi nhưng giỡn phá
chẳng thua ai. Có Nguyễn Sơn Hùng, Nguyễn Hùng Cường, Phạm Danh Nhân
hiền lành hay đùa nghịch chẳng biết giận ai.. Có đâu đó tiếng khóc bạn
hiền Thanh “lai” làng S.O.S hay sụt sùi nhỏ lệ. Có Hùng sùi, Tám lạng,
Khôi chùa, Tâm bụi, Tài Ba xu, Hiếu Sáu lết.. đang đánh nhau chí chóe
một góc trường. Có Pierre Bouquet, Nguyễn Thanh Hải, Phan Huê Đạt một
thời luôn thân như hình với bóng.
Trong trí nhớ
tôi, còn có thầy Thành cao cao dậy Việt văn hay nổi cơn nóng bất tử là
phạng học trò liên hồi bất tận. Có Frere Ngân trẻ mà tài kéo accordion
làm mê mẩn học trò. Có frère Phó Hiệu Trưởng Maurice Triều lúc nào cũng
đeo tòng teng trên cổ chiếc máy ảnh. Có frère Hiệu trưởng Fidele Linh
nghiêm khắc ít nói, ít cười. Còn ông frère Bắc giảng bài lúc nào cũng
chớp chớp đôi mắt mộng mơ. Ôi, còn bao nhiêu khuôn mặt, còn bao nhiêu
đời sống hôm qua vẫn cất giữ cho nhau ngày tháng cũ. Ai ra đi rời
Mossard mà quên được hàng quán BaTít Xệ với bà Lú, bà Ý đầy vui tính hay
cho học trò ghi sổ mua thiếu! Và những con đường dốc của kỷ niệm. Những
con đường trơn trượt trong mưa. Những con đường bụi mờ khi nắng đổ..
giờ có còn nằm đó đón đợi những người học trò xưa sẽ có ngày trở lại..
Ảnh
chụp năm 1972 cảnh thủ môn Lâm Hồng Châu đang dậy cho một số học trò
của mình tại sân banh Lasan Mossard. Bức hình này thầy Lâm Hồng Châu
tặng lại cho người học trò cũ của mình là Trần Quốc Bảo (cậu bé có dấu
X). Ngày đó đến giờ đã tròn 41 năm dài.
No comments:
Post a Comment