Khi Chiến tranh thế giới thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc, theo các tài liệu lưu trữ của Không quân Nhật Bản lẫn của Không quân Mỹ, đã có gần 6.000 phi công tự nguyện biến mình thành những quả bom sống, lái máy bay lao thẳng vào tàu chiến Mỹ và đồng minh.
Họ được gọi là "Kamikaze" - tiếng Nhật có nghĩa là "Trận gió thần" (Thần phong). Hầu hết trong số này đều đã chết.
Bài 1: Học bay để chết
70
năm sau - năm 2015, một số rất ít những phi công Kamikaze còn sống đã
kể lại câu chuyện về góc khuất đời mình khi bước lên chiếc máy bay Zero
để một đi không trở lại. Họ là những phi công cảm tử của phát xít Nhật.
Giấc mơ bay bổng
Tháng
12-1943, Nagumo, 18 tuổi, sinh viên năm thứ nhất Khoa Cơ khí Trường Cao
đẳng Công nghệ Kyodo nhận được lệnh gọi nhập ngũ. Ông kể: "Tôi xem đó
như một sự tất nhiên vì rất nhiều bạn bè tôi đã lên đường từ cả năm
trước. Họ đang trực tiếp chiến đấu ở Trung Quốc, Miến Điện (nay là
Myanmar), Philippines, Singapore hoặc ở những hòn đảo nằm đâu đó trong
Thái Bình Dương. Chỉ mất một ngày, tôi đã thu xếp xong hành lý, tạm biệt
cha mẹ và cô bạn gái Michiko. Ai nấy đều cố làm ra vẻ cứng rắn, nhưng
khi tôi quay lưng bước đi, họ khóc".
Nagumo trên chiếc Nakajima Ki-44.
10
tuần huấn luyện trôi qua trong gian khổ với những bài tập hành quân dã
ngoại, chạy vượt chướng ngại vật cả trên bộ lẫn dưới nước, bắn súng, đâm
lê, ném lựu đạn. Nagumo kể tiếp: "Sau lễ mãn khóa, một sĩ quan không
quân đến gặp tôi, hỏi tôi có muốn trở thành phi công không?". Sung sướng
đến nghẹn lời, Nagumo chỉ biết gật đầu vì ngay từ lúc còn bé, ông luôn
dõi mắt nhìn lên bầu trời mỗi khi có một chiếc máy bay bay qua: "Hồi ấy,
tôi luôn tự hỏi rằng tại sao nó lại có thể bay được, và lái một chiếc
máy bay có quá khó như khi bạn mới bắt đầu tập đi xe đạp hay không?".
Được
chuyển đến căn cứ không quân Kanto, Nagumo cùng hơn 100 tân binh bắt
đầu học về thời tiết, áp suất không khí, tốc độ gió, học cách phân biệt
những loại mây. Tiếp theo, ông được học cách cấu tạo và nguyên tắc hoạt
động của loại máy bay tiêm kích Nakajima Ki-44, định danh là Shoki. Đây
là loại chiến đấu cơ 2 chỗ ngồi, sản xuất năm 1940 và đưa vào hoạt động
năm 1942.
Nagumo
kể: "Shoki được trang bị 2 súng máy 12,7mm và 2 khẩu pháo 20mm. Với
động cơ công suất 1.260 mã lực, tốc độ bay tối đa 600km/giờ. Nó quả là
một cỗ máy tuyệt vời nên khi ngồi vào buồng lái, tôi có cảm tưởng nó là
một phần của thân thể tôi". Trong suốt cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ
2, đã có 1.223 chiếc Shoki tham gia chiến đấu, và nó được coi là một
trong những mẫu máy bay tiêm kích mạnh nhất của Không quân
Nhật.
Trận không chiến đầu tiên
Tháng
9-1944, Nagumo ra trường với cấp bậc thiếu úy - phi công thuộc Hải quân Nhật. Thời điểm này, quân Mỹ và đồng minh ngày càng tiến gần
đến nước Nhật. Được trang bị nhiều loại máy bay mạnh hơn về vũ khí,
nhanh hơn về tốc độ, những chiếc F6F Hellcat, P51 Mustang, P47
Thunderbolt và F4U Corsair của Không quân Mỹ làm mưa làm gió trên bầu
trời trước những chiếc Ki-43, Nakajima Ki-84 hoặc Kawanishi N1K.
Tiễn các phi công lên đường làm nhiệm vụ.
Thời
gian này, trong các trận không chiến ở quần đảo Solomon và New Guinea,
Nhật mất gần 250 máy bay. Ở vùng biển Philippines, lại có thêm 400 máy
bay bị bắn hạ. Số phi công giàu kinh nghiệm ngày càng hiếm, chưa kể việc
thiếu thốn linh kiện, phụ tùng và xăng dầu đã khiến nhiều máy bay của Nhật phải nằm ụ.
Sáng
12-4-1944, còi báo động ở sân bay Nagato hú vang. Nagumo khi ấy mới chỉ
là một phi công với kinh nghiệm… 19 giờ bay, vội vã đeo dù lưng, dù
bụng, áo phao, tay cầm chiếc mũ bay, lao về phía phòng họp.
Ông
kể: "Giây lát, 160 phi công thuộc Phi đoàn tiêm kích số 3 và Phi đoàn
ném bom số 27 đã có mặt. Thiếu tá Fushida, chỉ huy trưởng sân bay cho
biết, một máy bay trinh sát Kawanishi H8K trong khi làm nhiệm vụ, đã
phát hiện một đội tàu Mỹ gồm hàng không mẫu hạm, tàu hộ vệ và tàu chiến đang
tiến về đảo Saipan. Nhiệm vụ của chúng tôi là phải đánh chìm những chiếc
tàu ấy vì nếu người Mỹ chiếm được Saipan, các pháo đài bay B29 của họ
xuất phát từ sân bay trên đảo này, hoàn toàn có thể thực hiện các cuộc
oanh tạc vào lãnh thổ Nhật Bản".
Với
sự giúp đỡ của một thợ máy, Nagumo leo vào khoang lái của chiếc tiêm
kích Nakajima Ki-44. Do thiếu phi công nên ông phải bay một mình. Giây
lát, không gian rung lên bởi tiếng gầm rú phát ra từ động cơ của những
chiếc máy bay ném bom Mitsubishi G3M, máy bay tiêm kích Nakajima Ki-44,
Ki-43, Ki-84 và Kawanishi N1K Nagumo kể tiếp: "Chúng tôi bay theo đội
hình "mũi tên nhỏ" - nghĩa là cứ một chiếc bay đầu thì có hai chiếc bay
kèm theo hai bên hông. Với cách bay ấy, cả ba chiếc đều có thể đồng loạt
tấn công hoặc bảo vệ cho nhau nếu bị máy bay địch tập kích".
Phi công Nhật hầu hết đều còn rất trẻ.
Khoảng
50 phút sau đó, Phi đoàn tiêm kích số 3 và Phi đoàn ném bom số 27 đã có
mặt trên vùng biển Saipan. Nhiệm vụ của Nagumo và của những phi công
tiêm kích khác là chặn đánh máy bay Mỹ, không cho chúng tấn công những
chiếc máy bay ném bom vốn nặng nề, cơ động kém, hỏa lực phòng thủ yếu
ớt. Bầu trời khá nhiều mây nên chưa ai nhìn thấy hạm đội Mỹ. Một vài
chiếc Nakajima Ki-84 chúi mũi xuống, xuyên qua những đám mây, tiến hành
tìm kiếm. Tai nghe trong mũ bay của Nagumo chỉ vang lên những tiếng lạo
xạo của sóng vô tuyến, tuyệt nhiên không hề có một mệnh lệnh nào.
Bỗng
dưng bất ngờ như có tia sét bủa xuống, một chiếc tiêm kích P51 Mustang
của Hải quân Mỹ không hiểu từ đâu lao đến, lướt ngang chiếc Nakajima
Ki-44 của Nagumo, hai khẩu súng máy ở hai bên cánh của nó khạc ra một
luồng lửa đỏ rực. Qua khung cửa kính trong suốt, Nagumo còn kịp nhìn
thấy mái tóc vàng hoe và chiếc kính bảo hộ trên mặt viên phi công Mỹ.
Ông
kể: "Loạt đạn bắn ra từ chiếc P51 đã tiện đứt phần đầu cánh của chiếc
Kawanishi N1K bay trước tôi khiến nó rơi xuống biển trong tư thế xoáy
trôn ốc. Tôi biết đó là máy bay của Hiroda, người dẫn đầu "mũi tên nhỏ"
trong đội hình tôi. Theo phản xạ, tôi vừa kéo cần lái, vừa đạp mạnh vào
"pêđan" cho máy bay nghiêng hẳn sang bên trái, tay bấm cò súng bắn đuổi
theo chiếc P51 nhưng nó đã biến mất vào một đám mây".
Lúc
này, không phải chỉ có một chiếc P51 mà xung quanh Nagumo, chỗ nào cũng
thấy máy bay Mỹ. Đã có hai oanh tạc cơ Mitsubishi G3M bị trúng đạn, cắm
đầu lao xuống biển với những cuộn khói đen kịt bốc ra từ động cơ. Nhìn
thấy một chiếc P51 đang bám theo một chiếc Kawasaki Ki-61 mà theo số
hiệu sơn trên cánh đuôi, Nagumo biết đó là máy bay của trung úy
Ryokichi, phi đội trưởng. Lập tức, Nagumo cho máy bay của mình chúi
xuống rồi quặt ngược lên, ngón tay trỏ đặt sẵn vào cò súng. Tuy nhiên,
vận tốc của chiếc Nakajima Ki-44 không thể nào sánh kịp với chiếc P51
Mustang nên dù đã ở vào vị trí bắn tốt nhất, Nagumo đành ngậm ngùi nhìn
chiếc Mustang vượt qua mặt mình một khoảng cách khá xa, nã đạn liên hồi
vào máy bay của trung úy Ryokichi.
Trận
không chiến chỉ kéo dài trong khoảng 20 phút. Phía Nhật mất 17 máy bay
tiêm kích và 32 máy bay ném bom. Không quân Mỹ chỉ có 1 chiếc P47
Thunderbolt trúng đạn nhưng vẫn còn bay được. Riêng hạm đội tàu Mỹ thì
chẳng hề hấn gì. Nagumo nói: "Đến lúc ấy, tôi nhận ra rằng về mặt kỹ
thuật, chúng tôi thua hẳn người Mỹ. Chưa kể phi công của họ được đào tạo
bài bản hơn, và kinh nghiệm không chiến cũng nhiều hơn".
Nước cờ tàn
Ngày
15-4-1944, lính thủy quân lục chiến Mỹ chiếm đảo Saipan sau những cuộc giao
tranh đẫm máu. Thời điểm này, Không quân Nhật có khoảng 33.000 người,
trong đó gần 11.000 là phi công, phần lớn mới qua giai đoạn huấn luyện.
Về
máy bay, Nhật có tổng cộng 1.600 chiếc (1.375 chiếc là máy bay chiến
đấu), số còn lại là máy bay ném bom hạng nhẹ và máy bay ném bom tầm
trung cùng một ít thủy phi cơ, máy bay trinh sát, chia thành 6 sư đoàn
mà trong đó, Sư đoàn 1 đặt bộ chỉ huy ở Tokyo, căn cứ ở Kanto, có trách
nhiệm bảo vệ không phận nước Nhật cùng Đài Loan, Hàn Quốc. Sư đoàn 2, bộ
chỉ huy ở Hsinking, chịu trách nhiệm khu vực Mãn Châu. Sư đoàn 3, bộ
chỉ huy ở Singapore, chịu trách nhiệm phòng thủ khu vực Đông Nam Á.
Sư
đoàn 4, chỉ huy sở đóng tại Rabaul, có nhiệm vụ bảo vệ không phận quần
đảo Solomon và New Guinea. Sư đoàn 5 đóng ở Nanking, bảo vệ miền nam và
miền đông Trung Quốc còn Sư đoàn 6 đặt trên đảo Kyushu, phòng thủ
Okinawa. Thế nhưng, những cuộc săn lùng của máy bay Mỹ trên Thái Bình
Dương đã khiến những tàu chở nguyên liệu như sắt, thép, đồng, cao su và
nhất là dầu mỏ không thể nào về đến nước Nhật. Nền công nghiệp chiến
tranh của Nhật rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Nửa
cuối năm 1944, chỉ có khoảng 100 máy bay các loại được đóng mới thay vì
500 đến 600 chiếc vào thời điểm Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng. Đã
vậy, do thiếu nguyên liệu, cấu trúc máy bay cũng được đơn giản hóa đến
mức tối đa, dẫn đến việc phi công điều khiển thiếu chính xác trong những
trận không chiến. Chưa kể sau khi chiếm được đảo Saipan, những pháo đài
bay B29 của Mỹ liên tục thực hiện những trận ném bom vào các cơ xưởng
sản xuất máy bay, tàu chiến, các kho xăng dầu và các trục đường giao
thông đặt trên đất Nhật khiến nhiều kỹ sư, thợ máy giỏi bị thương hoặc
bị chết.
Phi
công cũng vậy, con số rơi rụng ngày càng nhiều trong lúc việc đào tạo
cần phải có thời gian. Nagumo kể: "Cứ mỗi đợt xuất kích, nếu không phải
bay, tôi thường ngồi ở đầu đường băng đếm từng chiếc máy bay trở về và
hầu như chẳng bao giờ đồng đội của tôi quay lại đầy đủ. Có những đợt cất
cánh 40 chiếc thì chỉ còn 12 chiếc hạ cánh. Danh sách người chết mỗi
ngày mỗi dài thêm, có người chết vì bị máy bay Mỹ hoặc súng phòng không
từ tàu chiến bắn trúng, có người chết vì động cơ máy bay hư hỏng và cũng
có người chết vì nửa đường hết dầu, máy bay rơi xuống biển".
Đến
tháng 10-1944, nhận thấy không còn chiếm được ưu thế trên bầu trời
trong lúc máy bay Mỹ xuất phát từ các hàng không mẫu hạm liên tục tung ra những
cuộc tấn công vào các vị trí phòng thủ của Nhật ở Thái Bình Dương mà
không phải lo ngại đến vấn đề thiếu nhiên liệu, Bộ Tổng tham mưu quân
đội Nhật quyết định tung ra một đòn chí mạng, gọi là chiến dịch
"Thần phong".
Tên
gọi "Thần phong" bắt nguồn từ một cơn bão đánh tan đội tàu thuyền của
đế quốc Mông Cổ vào năm 1281, khi việc thôn tính Nhật Bản đã nằm trong
tầm tay. Nhờ cơn bão này, Nhật Bản thoát khỏi ách cai trị của Mông Cổ.
Vì thế, người Nhật gọi cơn bão cứu mạng ấy là "Kamikaze - nghĩa là Thần
phong".
Để
triệt hạ những tàu sân bay Mỹ, đánh tan uy thế cả về không quân lẫn hải
quân, Bộ Tổng tham mưu quân đội Nhật sử dụng loại máy bay
Mitsubishi Zero, mang theo một quả bom 250kg. Phi công lái những chiếc
máy bay này chỉ có một việc duy nhất là lao đầu xuống hàng không mẫu hạm cũng
như tàu chiến Mỹ. Các đơn vị Kamikaze được gọi chung là "Tokubetsu
Kogeki Tai - Đội công kích đặc biệt" …
Các
đợt tấn công tự sát của phi đội Thần phong ngày càng dồn dập. Chỉ trong
2 tháng đầu năm 1945, đã có hơn 2.000 chiếc máy bay Zero xuất kích, và
gần một nửa trong số này vĩnh viễn không bao giờ trở về.
>> Phi công Thần phong – Họ là ai?
Sự ra đời của Thần phong
Giữa
tháng 12-1944, Nagumo được gọi vào phòng chỉ huy cùng với hơn 300 phi
công thuộc Sư đoàn không quân số 1. Sau khi được nghe phổ biến về tình
hình chiến sự, sư đoàn trưởng thông báo cho họ biết, rằng trong những
giờ phút lịch sử này, Nhật hoàng Hirohito đang cần đến sự hy sinh của
tất cả các thần dân, đặc biệt là các phi công.
Tiếp
theo, dùng cả hai bàn tay, sư đoàn trưởng mô tả một chiếc máy bay từ
trên cao đâm bổ xuống một chiếc tàu. Nagumo kể: "Cuối cùng, mỗi người
chúng tôi đều nhận được một lá đơn, trong đó có sẵn một câu hỏi rằng
chúng tôi có tình nguyện trở thành phi công "Thần phong" không?"
Trong
lá đơn có 3 câu trả lời, một là "Tôi tha thiết mong muốn được trở thành
Kamikaze", hai là "Tôi muốn là Kamikaze" và ba là "Tôi không muốn".
Nagumo kể tiếp: "Rất nhiều bạn bè tôi nhanh chóng đánh dấu vào dòng chữ
"Tôi tha thiết" rồi hùng dũng bước lên, nộp cho chỉ huy. Riêng tôi và
một số người khác thì ngần ngừ. Không phải là tôi sợ chết nhưng liệu có
nên chết bằng cách đó hay không khi mà về mặt vũ khí phòng không, rất
khó có thể vượt qua hàng rào lưới lửa của những hàng không mẫu hạm, những chiến
hạm Mỹ, chưa kể đến lực lượng không quân hùng hậu của họ, lúc nào cũng
chực chờ đánh chặn khi thấy chúng tôi xuất hiện trên trời".
Thiếu tá Ichikawa đang hướng dẫn phi công Thần phong cách lao máy bay vào tàu chiến Mỹ.
Nhưng
rồi Nagumo cũng ký vào đơn. Hai ngày sau, ông được cử đi học chuyển
loại máy bay Mitsubishi Zero. Khóa học lái loại máy bay mới chỉ kéo dài
đúng 7 ngày, gồm 2 ngày cho việc cất cánh với quả bom 250 kg; 2 ngày tập
bay theo đội hình và 3 ngày tập cách bay lên cao rồi cắm đầu thẳng
xuống tàu Mỹ.
Do
hãng Mitsubishi chế tạo, chữ "zero" là chữ số cuối cùng của năm
Imperial 2600 theo lịch của người Nhật khi nó đưa vào phục vụ trong Hải
quân Nhật năm 1940. Được bố trí một động cơ Nakajima Sakae công
suất 950 mã lực, tốc độ 660km/giờ, vũ trang 2 súng máy 7,7mm với 1.000
viên đạn cùng 2 đại bác 20mm với 120 viên đạn, tầm hoạt động 3.104km,
Mitsubishi Zero được coi là máy bay tiêm kích mạnh nhất của người Nhật
vào thời điểm ấy. Để giảm trọng lượng trong chiến thuật Kamikaze, giúp
máy bay bay được nhanh hơn và xa hơn, các kỹ sư của hãng Mitsubishi đã
tháo toàn bộ các khẩu súng rồi thay vào đó là một quả bom 250kg.
Ý
tưởng thành lập đội phi công Thần phong phát xuất từ Phó Đô đốc
Takijiro Onishi, chỉ huy Đệ nhất hạm đội không quân (thuộc hải quân) của
Nhật, căn cứ đặt tại Manila, Philippines. Ngày 17-10-1944, lực
lượng Đồng minh tấn công đảo Suluan, Đệ nhất hạm đội được giao nhiệm vụ
hộ tống các tàu Nhật để những tàu này tiêu diệt quân Đồng minh trong
vịnh Leyte.
Tuy
nhiên, hạm đội khi đó chỉ có 34 chiếc Mitsubishi Zero trên tàu sân bay,
3 máy bay phóng ngư lôi Nakajima B6N, 1 chiếc Mitsubishi G4M và 2 máy
bay ném bom Yokosuka P1Y cộng với 1 máy bay trinh sát nên nhiệm vụ được
giao xem như quá sức. Vì vậy, Phó Đô đốc Takijiro Onishi quyết định
thành lập một lực lượng gọi là "Tokubetsu Kogeki Tai - Đội công kích đặc
biệt".
Trong
cuộc họp tại sân bay Mabalacat (người Mỹ gọi là sân bay Clark) nằm gần
Manila ngày 19 -10, Onishi nói với các phi công thuộc Phi đoàn 201: "Tôi
thấy không có cách nào tiến hành chiến dịch bảo vệ Philippines ngoài
cách gắn một quả bom 250kg lên một chiếc máy bay Zero rồi đâm thẳng vào
một hàng không mẫu hạm Mỹ".
Phi
công Ashaki - Phi đoàn 201 kể lại: "Chiếc tàu Đồng minh đầu tiên bị
Kamikaze tấn công vào ngày 21-10-1944 là một tuần dương hạm hạng nặng
của Hải quân Hoàng gia Australia đang di chuyển gần đảo Leyte. Cuộc tấn
công ấy hình như tự phát vì các phi công không thuộc "Đội công kích đặc
biệt" của Onishi, mà của Lữ đoàn bay số 6, thuộc Không lực Hoàng gia
Nhật Bản".
Với
3 chiếc Mitsubishi Ki-51, các phi công nhắm vào chiếc tuần dương hạm,
lao đến. Bị súng phòng không trên tàu bắn trúng một chiếc, chiếc thứ hai
vòng đi rồi quay lại, đâm thẳng vào tháp chỉ huy khiến 30 sĩ quan, thủy
thủ tử trận, trong đó có thuyền trưởng Emile Dechaineux. Trong số những
người bị thương, có Phó Đề đốc John Collins, chỉ huy lực lượng Hải quân
Australia ở mặt trận Thái Bình Dương. May mắn cho chiếc tuần dương hạm
là quả bom nặng 250 kg mà chiếc Mitsubishi Ki-51 mang theo, không nổ.
Nagumo
kể: "Ngày 24-10, chiếc tàu kéo Sonoma tải trọng 1.120 tấn là chiếc tàu
đầu tiên bị một phi công Kamikaze đánh chìm bên ngoài đảo Dio, thuộc
vịnh Leyte. Trận đó chúng tôi chỉ mất 1 máy bay. Nhiều phi công lạc quan
tếu, cho rằng Hải quân Mỹ có tổng cộng 18 tàu sân bay. Và mỗi con tàu
này chỉ cần hy sinh 3 chiếc Mitsubishi Zero là đã có thể xóa sổ sức mạnh
trên biển của người Mỹ".
Đội ngũ phi công “ong đốt”
Cũng
trong ngày 24-10, Phó Đô đốc Takijiro Onishi ra lệnh cho 5 chiếc Zero,
dẫn đầu bởi trung úy Seki, được yểm trợ bởi thiếu tá Hiroyoshi
Nishizawa, phi công giỏi nhất Nhật Bản cùng với 30 chiếc tiêm kích
Kawasaki Ki-61 khác, tấn công hàng không mẫu hạm hộ tống Kitkun.
Nagumo
nhớ lại: "Trước lúc lên đường, đội hình phi công xếp hàng ngang, cổ đeo
một chiếc khăn quàng trắng, ngang trán thắt một dải băng trắng có in
hình mặt trời đỏ, biểu tượng của phi đội Thần Phong. Giây lát, chỉ huy
Onishi bước ra, giơ tay chào từng người rồi rót cho mỗi chúng tôi một
chén rượu sake. Khi máy bay lăn bánh, tôi thấy hàng trăm phi công, thợ
máy vẫy khăn reo hò như thể họ chỉ tiễn chúng tôi đi thực hiện một phi
vụ bình thường chứ không phải bay vào cõi chết".
Nagumo
bay ở vị trí thứ ba trong đội hình "mũi tên nhỏ". Lúc phát hiện ra tàu
Kitkun, chiếc Zero đi đầu lao vào tháp chỉ huy nhưng không hiểu sao lại
lệch ra ngoài. Do khoảng cách giữa máy bay và mặt biển quá gần, phi công
không thể ngóc đầu lên được nên chiếc Zero bổ nhào xuống biển, nổ tung,
tạo ra một cột sóng như hình chiếc phễu. Hai chiếc khác chúi xuống tàu
Fanshaw Bay đang di chuyển cạnh đó nhưng chưa kịp đến gần thì đã bị súng
phòng không bắn rụng.
Nagumo
kể: "Còn lại hai chiếc Zero, một của tôi và một do thiếu úy Narimasu
lái. Anh ấy xông vào tàu White Plains nhưng bị đạn phòng không bắn trúng
bình xăng, khói đen bốc ra mù mịt". Những giây cuối cùng, Narimasu bỏ
qua chiếc White Plains để đâm thẳng vào boong hàng không mẫu hạm St. Lo. Quả
bom 250kg trên chiếc Zero phát nổ khiến kho chứa bom nổ theo, chiếc St
Lo chìm vài giờ sau đó.
Biết
rằng không còn cơ hội, Hiroyoshi Nishizawa ra hiệu cho Nagumo và đội
tiêm kích Kawasaki Ki-61 quay về. Ông nói: "Từ đó cho đến hết ngày
26-10, 55 phi công Kamikaze đã đánh thiệt hại nặng các tàu sân bay hộ
tống loại lớn là Sangamon, Suwannee, Santee cùng 3 hàng không mẫu hạm hộ tống
nhỏ là White Plains, Kalinin và Kitkun. Tổng cộng có 7 hàng không mẫu hạm bị
đánh trúng cùng 40 tàu khác, trong đó 5 chiếc bị đánh chìm, 23 chiếc bị
hư hại nặng, 12 chiếc hư hại nhẹ". Đến ngày 5-1, hai hàng không mẫu hạm
Franklin thuộc lớp Essex, và tàu Intrepid cũng bị Kamikaze đánh hỏng
đường cất hạ cánh và tháp chỉ huy.
Các
đợt tấn công tự sát của phi đội Thần phong ngày càng dồn dập. Chỉ trong
2 tháng đầu năm 1945, đã có hơn 2.000 chiếc máy bay Zero xuất kích, và
gần một nửa trong số này vĩnh viễn không bao giờ trở về. Nagumo bùi
ngùi: "Nói đến thành công của chiến thuật Kamiakaze thì không thể không
kể đến sự hy sinh của những phi công Hải quân Nhật". Điều đáng ngạc
nhiên là số người tự nguyện chết nhiều gấp 10 lần con số máy bay mà quân
đội Nhật có lúc đó. Tuy nhiên cũng có những phi công tỏ ý nghi ngờ hiệu
quả của chiến thuật Kamikaze, trong đó có cả các phi công nổi tiếng.
Trung
úy Yukio Seki, phi công lái tiêm kích Kawasaki Ki-61 yểm trợ cho 5
chiếc Zero đánh chìm hàng không mẫu hạm St. Lo nói: "Tương lai nước Nhật sẽ rất
ảm đạm nếu chúng ta buộc phải hy sinh những phi công giỏi nhất của
mình. Tôi tham gia chiến dịch này không vì nước Nhật hay vì Hoàng đế.
Tôi tham gia vì tôi được lệnh phải tham gia".
Hàng không mẫu hạm Independence bị Kamikaze đánh trúng.
Tuy
nhiên, nhìn chung thì không mấy khó khăn trong việc tuyển mộ phi công
Kamikaze bởi lẽ tiêu chuẩn mà Hải quân Nhật đưa ra rất đơn giản: "Yêu
cầu là bạn còn trẻ, hăng hái và nhanh nhẹn". Việc đào tạo cũng đơn giản
không kém. Phi công chỉ cần học cách cất cánh trên hàng không mẫu hạm hoặc trên
những đường băng bằng đất nện, kỹ thuật bay ở mức tối thiểu vì đã có
những phi công kỳ cựu dẫn đường còn hạ cánh thì không cần thiết vì sau
khi lao máy bay xuống tàu Mỹ, có ai trở về được nữa đâu!
Đại
tá Motoharu Okamura, Phi đoàn trưởng Phi đoàn 201 nhận xét: "Người tình
nguyện đông như một đàn ong dù họ đều biết rằng ong đốt xong là chết.
Dù không có nhiều kinh nghiệm, nhưng những phi công "ong đốt" ấy cũng đã
gây thiệt hại nặng nề cho hàng không mẫu hạm Independence, Essex cùng một số
tàu chiến khác như chiếc thiết giáp hạm Colorado và 2 tuần dương hạm.
Đợt tấn công cảm tử cuối cùng
Tháng
4-1945, quân Mỹ và đồng minh lần lượt chiếm Hong Kong, Malaysia,
Singapore, Philippines, các đảo Midway, Guadalcanal, New Guinea và
Solomon, Gilbert và Marshall, Marianas và Palau… Trước tình thế đó, để
bảo vệ Okinawa, Đô đốc Matome Ugaki tổ chức những cuộc tấn công với gần
1.000 máy bay gồm những chiếc Zero và Nakajima Ki-115. Để tăng tính hiệu
quả, họ thay những quả bom 250kg bằng bom 500kg.
Một máy bay Zero đang lao vào thiết giáp hạm Colorado
Ngày
6-4-1945, 355 chiếc Zero tham gia một cuộc tấn công nhắm vào Hạm đội
Thái Bình Dương, Mỹ. Do đã có kinh nghiệm chống Kamikaze, lưới lửa phòng
không trên các tàu hộ vệ cùng với những chiếc tiêm kích P47, P51 đã bắn
hạ 250 chiếc trước khi chúng đến gần. Tuy nhiên, các phi công Kamikaze
cũng đã loại ra khỏi vòng chiến tàu sân bay Hancock, đánh đắm 2 tàu vận
tải, gây thiệt hại nặng cho thiết giáp hạm Maryland và nhiều tàu khu
trục.
Ngày
12-4-1945, 185 chiếc Zero có 135 máy bay tiêm kích đi theo yểm trợ đã
tung ra một cuộc tấn công mới. Thế nhưng, chẳng những đã không đánh
trúng một tàu Mỹ nào mà họ còn bị bắn rơi 176 chiếc. Đây được xem như
đợt tấn công tự sát tập thể cuối cùng của phi đội Thần phong.
Ngày
6-8-1945, Mỹ ném quả bom nguyên tử thứ nhất xuống Hiroshima. 3 ngày
sau, thành phố Nagasaki được chọn làm mục tiêu cho quả bom thứ hai.
Nagumo kể: "Ngày 15-8, tất cả chúng tôi đều sững sờ khi nghe lời tuyên
bố đầu hàng của Nhật hoàng Hirohito trên đài phát thanh. Nhiều phi công
tức tốc lên máy bay lao ra biển - nhưng không phải để đánh đắm tàu Mỹ -
mà là để tự sát theo tinh thần võ sĩ đạo. Tôi còn nhớ mãi hình ảnh Đô
đốc Ugaki, Tư lệnh Hạm đội 5 ở Kyushu cùng 10 phi công Kamikaze bay về
hướng Okinawa. Trước đó, ông đã gửi lại cho chúng tôi một thông điệp,
bày tỏ niềm tin về sự bất tử của đế chế và tinh thần Kamikaze"
Chiến
tranh kết thúc, Hải quân Nhật mất 2.525 phi công Kamikaze, Không quân
mất 1.387 phi công. Phía Mỹ và đồng minh có 57 tàu bị Kamikaze đánh đắm,
195 tàu khác hư hỏng - trong đó có 70 tàu hư hỏng không còn sửa chữa
được, 4.900 phi công và lính hải quân chết, gần 5.000 người bị thương…
Theo Cao Trí/ Suicide pilots in the Pacific war
No comments:
Post a Comment