Wednesday, June 18, 2025
Saturday, May 17, 2025
NICK ÚT KHÔNG ĐƯỢC XEM LÀ TÁC GIẢ CỦA BỨC ẢNH "EM BÉ NAPALM"
Khanh Nguyễn

(Hình: Instagram)
Tổ chức World Press Photo đã thông báo đình chỉ việc ghi nhận quyền tác giả của bức ảnh báo chí nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 từng được chụp, sau khi một bộ phim tài liệu được tung ra, thách thức và đòi lại sự thật cho 50 năm lịch sử báo chí bị coi là sai lầm.
Bức ảnh, có tựa đề chính thức là The Terror of War nhưng thường được gọi là Napalm Girl, vẫn là một trong những hình ảnh khó phai mờ nhất về cuộc chiến của người Mỹ ở Việt Nam. Kể từ khi được xuất bản vào tháng 6 năm 1972, nó đã chính thức được cho là của Nick Ut, một nhiếp ảnh gia Việt Nam làm việc với Associated Press ở Sài Gòn.
AP và Nick Út từ lâu đã khẳng định rằng Út, khi đó 21 tuổi, chụp bức ảnh, sau đó giành được giải thưởng Ảnh Báo Chí Thế Giới Của Năm vào năm 1973, và đưa Út trở thành một phóng viên ảnh đáng kính. Nick Út đã sống với ánh hào quang này hơn 50 năm.

Nhưng một bộ phim tài liệu gần đây đã thách thức lịch sử đó, thay vào đó đề xuất rằng bức ảnh, mô tả một bé gái chín tuổi trần truồng tên là Phan Thị Kim Phúc khi cô chạy trốn một cuộc tấn công bằng bom napalm ở làng Trảng Bàng ở miền Nam Việt Nam, được chụp bởi một người đàn ông tên là Nguyễn Thành Nghệ. The Stringer, bộ phim được công chiếu tại liên hoan phim Sundance vào Tháng Giêng, tuyên bố rằng ông Nghệ, một tài xế của NBC, người đã bán ảnh cho AP với tư cách là một người làm việc tự do, đã bị từ chối được điền tên tác giả, chỉ vì anh ta không phải là nhân viên của AP.
Bộ phim đã buộc những người có trách nhiệm của World Press Photo, nơi tiến hành cuộc điều tra của riêng mình, có một “suy ngẫm sâu sắc.” Kết quả là tổ chức này đã công bố vào Thứ Sáu ngày 16 Tháng Năm về quan điểm của mình. Một cuộc phân tích nội bộ, được thực hiện từ Tháng Một đến Tháng Năm 2025, và kết luận “dựa trên phân tích vị trí, khoảng cách và máy ảnh được sử dụng vào ngày hôm đó, và xác nhận về chuyện ‘các nhiếp ảnh gia Nguyễn Thành Nghệ hoặc Huỳnh Công Phúc có thể có vị trí chụp ảnh tốt hơn Nick Út.’”
Việc đình chỉ chỉ áp dụng cho quyền tác giả của bức ảnh và không hủy bỏ giải thưởng Ảnh của năm 1973. “Bản thân bức ảnh vẫn không thể tranh cãi,” nhóm cho biết, “và giải thưởng Ảnh Báo Chí Thế Giới Cho bức ảnh quan trọng này về một khoảnh khắc quan trọng trong lịch sử thế kỷ 20 vẫn là một sự thật.”
“Dựa trên những phát hiện này, và theo các giá trị của chúng tôi về độ chính xác, đáng tin cậy và đa dạng, chúng tôi rút ra kết luận liên quan đến việc tác giả thật là ai,” Joumana El Zein Khoury, giám đốc điều hành của nhóm, cho biết trong một thông cáo báo chí. “Điều quan trọng cần phải nói rằng bản thân bức ảnh là giá trị không thể tranh cãi và không nghi ngờ gì nữa, bức ảnh này đại diện cho một khoảnh khắc có thật trong lịch sử tiếp tục vang dội ở Việt Nam, Hoa Kỳ và trên toàn cầu.”
Bộ phim tài liệu The Stringer, do Bảo Nguyễn đạo diễn, đã tìm gặp một số nhân chứng để lập luận rằng ông Nghệ đã bán bức ảnh cho trưởng văn phòng Sài Gòn, Horst Faas, với giá $20 và một bản in, bao gồm cả anh trai của ông Nghệ, người tuyên bố rằng anh ta đã mang cuốn phim cho AP.

Con gái của ông Nghệ, Jannie, người đầu tiên liên lạc với các nhà làm phim, và một số đồng nghiệp phóng viên ảnh cũ để đặt vấn đề về quyền tác giả của bức ảnh này. Sau đó, các nhà điều tra cũng tham khảo ý kiến của các chuyên gia pháp y của Index, một tổ chức phi chính phủ Pháp, các chuyên gia này cũng nhận thấy “rất khó có khả năng” rằng Út đã chụp bức ảnh dựa trên loạt những hình ảnh khác, mà AP tiếp nhận của ông Út vào ngày hôm đó.
Ông Nghệ, người đã xuất hiện bất ngờ tại buổi ra mắt Sundance của Stringer, xác nhận lời kể của mình trong phim. Trong khi đó, ông Nick Út thì phản đối, và tiếp tục tuyên bố quyền tác giả của mình, và nói với AP rằng cuộc tranh chấp “rất khó khăn đối với tôi và đã gây ra đau đớn lớn.”
Nhưng đối với World Press Photo, tác giả của bức ảnh được chính thức khẳng định là không rõ của ai, nhưng dĩ nhiên không là của Nick Út. “Điều này vẫn còn là lịch sử gây tranh cãi, và có thể tác giả của bức ảnh sẽ không bao giờ được xác nhận đầy đủ,” nhóm nghiên cứu cho biết. “Việc đình chỉ xác nhận quyền tác giả hiện tại có hiệu lực, cho đến khi bức ảnh có được chứng minh khác.”
Monday, May 12, 2025
Wednesday, April 30, 2025
KHÔNG CÓ HÒA GIẢI KHI KHÔNG NHÌN THẤY NHAU
Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ
LTS: Hòa hợp và hòa giải dân tộc, dù đã 50 năm sau cuộc chiến, vẫn là một vấn đề nhạy cảm và chưa tìm ra lối thoát đối với người Việt Nam. Nhật báo Người Việt xin trân trọng giới thiệu bài viết đóng góp cho đề tài này của Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ, một sử gia người Mỹ gốc Việt, hiện là giáo sư nghiên cứu tại Trung Tâm Việt Nam và Lưu Trữ của đại học Texas Tech University, Lubbock, Texas. Bài viết không nhất thiết phản ảnh quan điểm của Người Việt.
![]() |
Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ. (Hình: VOA) |
Di chứng và sự cần thiết của hòa giải
Chiến tranh, cùng với những hệ lụy sâu xa và các chính sách hậu chiến, không chỉ để lại vết thương trên thân thể con người mà còn khắc sâu trong tâm khảm và ký ức của cả một dân tộc. Những di chứng ấy – đôi khi hiển hiện, đôi khi âm ỉ – đã trở thành căn nguyên của sự chia rẽ, nghi kỵ và hận thù kéo dài giữa con người với nhau, giữa người dân với chính thể, đặc biệt là giữa những bên từng ở hai chiến tuyến.
Năm mươi năm sau chiến tranh, những di chứng của thời chiến và hậu chiến vẫn còn hiện hữu – chưa được hóa giải một cách thấu đáo – tiếp tục góp phần duy trì sự chia rẽ, định kiến, nỗi sợ hãi và kỳ thị giữa người với người, giữa cộng đồng với cộng đồng. Bởi vậy, hòa giải và hòa hợp sau chiến tranh không thể chỉ là khẩu hiệu lặp lại trong các dịp kỷ niệm, mà cần là một quá trình kiên trì, đòi hỏi thời gian, sự mở lòng bao dung để cảm thông, và quan trọng hơn hết, là những hành động cụ thể và chân thành.
Phân biệt giữa hòa giải và hòa hợp
Hai khái niệm hòa giải và hòa hợp không nên bị đồng nhất hay giản lược thành một tiến trình duy nhất. Hòa giải là bước tiền đề – là hành trình can đảm để nhìn lại, nhận diện và hóa giải những khuất tất, đau thương trong lịch sử. Chỉ khi sự thật được công nhận, ký ức được lắng nghe, và con người được tôn trọng với tất cả chiều sâu của căn tính và trải nghiệm lịch sử – thì mới có thể đặt nền móng cho một sự hòa hợp thực sự.
Hòa hợp là kết quả của tiến trình ấy – khi sự khác biệt không còn là lý do để loại trừ, mà trở thành nền tảng cho một cộng đồng cùng chung sống trong tôn trọng, chấp nhận sự đa dạng đầy sắc thái cũng như phức tạp, và cùng nhau xây dựng một tương lai phong phú hơn. Hòa giải và hòa hợp chỉ có thể bắt rễ khi xuất phát từ sự tự nguyện, sự thấu hiểu, và nỗ lực chung của tất cả các bên liên quan.
Những trở ngại hiện tại
Cho đến nay, giữa người Việt với nhau, những bước tiến về kinh tế, văn hóa, thậm chí nghệ thuật đã tạo ra những cây cầu – nhưng những cây cầu ấy vẫn chưa thể bắc qua ý thức và vô thức lịch sử. Ở tầng vô thức, vẫn tồn tại sự e dè, mặc cảm, thậm chí sợ hãi – thể hiện qua cách xã hội né tránh những vấn đề “nhạy cảm” trong quá khứ: Từ miền Bắc với cải cách ruộng đất, phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đến miền Nam trước 1975 với thảm sát Huế, thảm sát Mỹ Lai, hậu quả của chất độc da cam, trại cải tạo, vấn đề lý lịch, các cuộc vượt biên, và cả sự hiện diện gây tranh cãi của những biểu tượng như lá cờ vàng – tất cả đều là những phần ký ức chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ và công bằng.
Hòa giải văn hóa – dù mang lại hy vọng – vẫn chưa chạm đến gốc rễ. Những buổi hòa nhạc Trịnh Công Sơn, các triển lãm mỹ thuật thời chiến, những bộ phim về hàn gắn… tuy đã bước đầu mở lối, nhưng nếu không được tiếp tục bằng chính sách, giáo dục, và đối thoại công khai, chúng chỉ dừng ở mức biểu tượng cảm xúc, chưa đủ để tạo ra sự hòa giải bền vững.
Tồn tại giữa con người và thể chế
Thực chất, dù không tuyệt đối, nhưng phải công tâm nhìn nhận rằng giữa con người với con người, phần lớn đã có sự hòa giải từ lâu. Ở tận cùng của ký ức và nỗi đau, ai cũng hiểu rằng cuộc chiến ấy là một cuộc tương tàn giữa huynh đệ – giữa những người không may sinh ra ở hai phía vĩ tuyến, giữa những cuộc ra đi và ở lại do hoàn cảnh đẩy đưa. Chính vì thế mới có những đối đầu đầy bi kịch giữa bạn bè, giữa người thân trên chiến trường; mới có cảnh người cha tập kết vào tù thăm đứa con ngụy sau ngày “giải phóng;” mới có những éo le như người vợ của một sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa buộc phải tái hôn với một bộ đội cộng sản để nuôi con khi chồng còn trong trại cải tạo.
Những oan nghiệt đó, theo thời gian, phần nào đã tự được hóa giải – như khi người anh từng tập kết trở về quê trông nom nhà cửa cho đứa em được đi Mỹ. Điều đó cho thấy, rốt cuộc, vấn đề không còn nằm giữa người với người, mà nằm giữa thể chế và con người – cụ thể là ở chỗ, cho đến nay, thể chế ấy vẫn chưa thực sự thể hiện một thiện chí hòa giải một cách chân thành, dù họ hoàn toàn có đủ điều kiện và khả năng để làm điều đó.
Cách tiếp cận ký ức và loại trừ chính trị
Không thể nói đến hòa giải nếu như một bên vẫn bị phủ định hoàn toàn danh tính, quá khứ và đóng góp lịch sử của mình. Việc vẫn gọi Việt Nam Cộng Hòa là “ngụy quyền,” vẫn tiếp tục tuyên truyền một lịch sử một chiều, vẫn loại trừ các biểu tượng đối lập khỏi không gian công cộng – không phải là điều vô tình, mà là một hệ thống tái sản xuất ký ức có chủ đích.
Tình trạng này không chỉ là sản phẩm của một ý thức hệ, mà còn ăn sâu vào văn hóa chính trị quyền lực – nơi mà sự chính danh được xây dựng trên sự loại trừ thay vì cộng hưởng. Việc chính quyền Việt Nam có thể dễ dàng hòa giải với các cường quốc như Mỹ hay Trung Quốc vì lý do kinh tế và địa chính trị, nhưng lại chưa thể mở lòng với chính những người anh em cùng một dân tộc, phản ánh một sự lựa chọn có tính toán trong cách tiếp cận ký ức – nơi lợi ích dường như vẫn được đặt lên trên sự thấu hiểu và phẩm giá con người, với giả định rằng đó mới là điều mang lại lợi ích lâu dài.
Khi phải sống và đối diện với thực tại của những toan tính như thế – cùng với ảnh hưởng kéo dài của chủ nghĩa thực dân và Chiến Tranh Lạnh lên các chia rẽ ý thức hệ và vùng miền – sự phân cực trong xã hội Việt Nam càng trở nên sâu sắc, không chỉ giữa người Việt với nhau, mà còn giữa con người và thể chế mà họ từng hoặc đang thuộc về. Người Việt, dù già hay trẻ, dù sống trong nước hay hải ngoại, nhiều khi bị buộc phải lựa chọn giữa hai cực đối lập, thay vì được quyền tồn tại trong sự dung hòa của đa dạng và phức tạp – vốn là bản chất thật sự của lịch sử và con người.
![]() |
Một thương phế binh VNCH tại Sài Gòn, người bị mất một phần thân thể trong Cuộc Chiến Việt Nam. (Hình minh họa: GXĐMHCG) |
Những bước nhỏ đến hòa giải
Con đường dẫn đến hòa giải không có lối tắt. Đó không thể là một cuộc “đại nhảy vọt,” bởi vì hòa giải và hòa hợp không thể đạt được bằng cách gạt bỏ quá khứ, phủ nhận nỗi đau hay những mất mát của người khác bằng những ngôn từ mang tính ngoại giao chính trị như “khép lại quá khứ, hướng đến tương lai.” Cũng không thể chỉ chờ cho thế hệ từng trực tiếp chịu tổn thương “ra đi” rồi mới bắt đầu tiến trình ấy – bởi vì không ai có thể hòa giải với một khoảng trống.
Vì vậy, dù hòa giải không thể vội vã, nhưng càng không thể trì hoãn. Điều kiện tiên quyết phải là thành ý và lòng bao dung – từ cả hai phía – để nhìn nhận sự tồn tại, nỗi đau, và giá trị lịch sử của nhau. Từ đó, các bước đi cụ thể có thể được thực hiện theo hai tầng nỗ lực: Vĩ mô và vi mô.
Ở cấp độ vĩ mô, tiến trình hòa giải cần bắt đầu từ việc nhìn lại cách chúng ta kể về lịch sử – tức là một sự nhìn nhận trung thực không chỉ về chính mình mà cả phía bên kia. Việc cải cách giáo dục lịch sử, chấm dứt mô hình kể chuyện một chiều, sẽ mở đường đưa những phần bị loại trừ trở lại như thành tố không thể thiếu của dòng chảy dân tộc.
Một quốc gia thực sự trưởng thành là quốc gia có dũng khí đối diện với ký ức – kể cả những phần tối tăm nhất. Làm được điều đó, quốc gia ấy không chỉ trưởng thành mà còn mạnh mẽ, vì đã biết mở lòng đón nhận những con người và ký ức từng bị gạt ra bên lề.
Trong tinh thần ấy, việc tổ chức các diễn đàn tự do đối thoại quốc gia, nơi những người từng ở hai bên chiến tuyến có thể lắng nghe và lên tiếng, sẽ góp phần chữa lành vết thương. Cùng với đó là các nỗ lực phục hồi danh dự cho những nhân vật từng bị loại trừ – thông qua bảo tàng, bia tưởng niệm, hay ấn phẩm mang tính giáo dục.
Một chính sách tiếp nhận và nâng đỡ công bằng, đầy nhân ái đối với những người – dù đã khuất hay vẫn sống lây lất vì di chứng chiến tranh – là bước đi ý nghĩa. Những nỗ lực tìm kiếm hài cốt, trùng tu mộ phần, hỗ trợ tài chính và y tế, nên được thực hiện với cùng một tấm lòng như dành cho tử sĩ và thương binh của chính thể hiện tại. Bởi vì họ – bất kể từng thuộc về bên nào – vẫn luôn là một phần không thể tách rời của cộng đồng dân tộc.
Ngoài việc hướng tới hòa giải với những yếu tố lịch sử giữa bên được gọi là thắng cuộc và bên thua cuộc, thì một yêu cầu cấp thiết và thực tế hơn hiện nay chính là tiến trình hòa giải giữa thể chế và người dân – không chỉ với đồng bào ở hải ngoại mà cả với đồng bào trong nước.
Một nền hòa giải thực sự đòi hỏi chính quyền cần chủ động nhìn nhận, tôn trọng, và từng bước thực hiện các giá trị về tự do và quyền công dân. Đặc biệt, cần tạo dựng môi trường công bằng, trong đó người dân có quyền tự do bày tỏ nguyện vọng, tham gia đóng góp ý kiến và xây dựng chính sách quốc gia.
Chỉ bằng cách đó, tinh thần đoàn kết dân tộc mới có thể thực sự được khơi dậy, và mọi người dân – bất kể quá khứ hay vị trí địa lý – mới có thể cùng chung tay vun đắp cho một tương lai chung, vững mạnh và bao dung hơn cho đất nước.
Ở cấp độ vĩ mô, những hành động nhỏ từ cộng đồng và cá nhân cũng vô cùng quan trọng. Các sáng kiến văn hóa xã hội từ trong và ngoài nước cần được khuyến khích như những nỗ lực phục hồi ký ức bị lãng quên. Việc tạo ra không gian kể chuyện và lắng nghe – từ bảo tàng, nghệ thuật, podcast, đến phỏng vấn – sẽ giúp người Việt các thế hệ chia sẻ trải nghiệm của mình. Đồng thời, đầu tư vào giáo dục và hỗ trợ tâm lý cho thế hệ trẻ là điều cấp thiết để các em hiểu rằng lịch sử không chỉ là thắng thua, mà là câu chuyện của con người – với đầy đủ tổn thương, giằng xé, và phẩm giá.
Kết luận
Năm mươi năm sau chiến tranh, hòa giải và hòa hợp không thể tiếp tục là những lời nói êm tai hay khẩu hiệu vang vọng trong lễ kỷ niệm. Đã đến lúc chúng phải trở thành hành động – cụ thể, chân thành và có ý nghĩa – để ký ức thôi là gánh nặng, mà trở thành nền tảng cho một tương lai chung.
Muốn hòa hợp, phải hòa giải. Muốn hòa giải, phải hóa giải. Muốn hóa giải, phải nhìn nhau như những con người mang ký ức, nỗi đau và ước mơ. Không có hòa giải nào diễn ra khi một bên tiếp tục phủ định sự hiện diện và giá trị của bên kia, dù trong quá khứ hay hiện tại. Nhưng nếu bắt đầu từ lòng trắc ẩn, từ những cuộc đối thoại chân thành và chính sách mang tính chữa lành – thì hòa hợp không phải là điều viển vông, mà là một tương lai khả dĩ. [đ.d.]
Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/little-saigon/khong-co-hoa-giai-khi-khong-nhin-thay-nhau/
Saturday, April 26, 2025
CHO NGƯỜI NẰM XUỐNG TRÊN QUÊ HƯƠNG
Phan Nhật Nam
Cảm giác Sự Chết vốn sẵn có
từ lâu qua thân phận Người Lính trên Quê Hương Miền Nam Việt Nam. Đấy là Năm
1965, với cơn mưa u uất mùa hạ Miền Nam, nơi Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp. Mưa
không đủ lớn, không dài lâu để cho ta có cảm giác được tẩy rửa, cuốn trôi. Mưa
âm âm, ngột ngạt làm bốc dầy thêm mùi xác chết của những đơn vị gồm Tiểu Đoàn
2, Trung đoàn 7 Sư đoàn 5 Bộ Binh; Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân; và Tiểu Đoàn 7
Nhẩy Dù với những người lính mà sức chịu đựng dường như vô hạn dưới khối nặng của
thùng đạn, ba-lô, nón sắc, vũ khí họ mang trên vai, vác lên lưng, để từng ngày
cúi gầm mặt bước xuống vùng sình lầy mênh mông, trèo lên dốc đá núi thăm thẳm,
lội xuyên rừng rậm ngút ngàn không tiếng nhỏ than van, ghìm lại hơi thở dài nặng
nhọc... Tất cả những người lính cao thượng khắc kỷ vừa kể ra vào những ngày của
tháng 6 năm 1965 ấy đã là những xác chết căng cứng, da tím sẫm bốc mùi xanh xao
tanh tưởi... Những khuôn mặt, dạng người tinh anh tươi trẻ của tuần, tháng trước
biến dạng thành những khối thịt ủng lầy máu sẫm, đất bùn đỏ, nhầy nhụa thêm bởi
thấm mưa của bao ngày nằm nơi đụng trận, một chốn gọi là xã Đồng Xoài, Quận Đôn
Luân, Tỉnh Bình Dương, nơi chỉ xa Sài Gòn khoảng năm-mươi cây số đường chim
bay.
Rồi từ Giao Thừa Mậu Thân, bắt đầu ở Huế, ngõ
Âm Hồn, lối đi ra đường Mai Thúc Loan, hướng Cửa Đông Ba. Khoảng đường u thẫm
chập dầy bóng đen đêm Xuân 1968... Với tình thế nguy biến qua cảnh tượng người
lính xao xác chạy dọc những khu nhà đổ nát, vừa chạy tránh đạn, vừa kéo xác đồng
đội... Người Lính kéo xác đồng đội ngang qua căn nhà có xác người đàn bà chết
trong vị thế quỳ trước chiếc bàn thờ xiêu đổ tung toé, hẳn đang khấn lạy, cầu
xin... Nhưng còn có những xác chết chỉ còn thân người, bởi chiếc đầu đã bị cắt
lìa, vất tung đâu đó. Bên cạnh, thây cô gái tóc dài lây lất, khuôn mặt chỉ còn
những tảng thịt rời rã. Nhận biết đấy là người thiếu nữ do chiếc áo dài trắng
và áo len màu tím than, màu riêng biệt đặc trưng của người thiếu nữ xứ Huế.
Nhưng, như một an ủi khốn cùng, dù ở Huế, hay quanh ngoại ô Sài Gòn, vùng Nhị
Bình, Thạch Lộc, Hóc Môn, Gia Định trong dịp chiến loạn Mậu Thân 1968, người sống
vẫn còn khả năng phân biệt đấy là xác chết của lính hay của dân; của dân chúng
Huế hay gã bộ đội Sinh Bắc-Tử Nam, hoặc cán binh Mặt trận giải phóng... qua áo
quần, dạng tướng, đôi dép Nhật làm ở Chợ Lớn, giày botte de saut của lính Cộng
hòa hay loại dép râu mang theo từ Miền Bắc của bộ đội cộng sản. Thây chết nằm
suốt dọc cù lao sông Sài Gòn chảy qua Bình Phước, Bình Triệu, Thạnh Lộc, Nhị
Bình, Gò Vấp... Cả một vùng hoa mai tàn tạ trong ánh nắng lung linh mùi tử khí.
Tiếp đến năm 1972, cảnh chết trên quê hương miền
Nam tăng vụt cường độ với bất hạnh, tang thương nhân lên gấp bội phần cho dù
trí tưởng tượng về tình huống khốn cùng từ lâu đã được người Việt hằng mang nặng,
chuẩn bị gánh chịu. Trên chín cây số từ La Vang, nam Quảng Trị đến Cầu Trường
Phước lớp nhựa đường đã hoàn toàn chảy nhão, đun nóng sôi bởi một thứ lửa nhân
tạo. Lửa được cháy lên do từ áo quần, tay nải, bao bị, gồng gánh, và tế bào thịt
da của người tẫm vào lưỡi lửa của xe cộ, xăng nhớt. Tất cả biến thái nên thành
ngọn lửa bền bỉ âm ỉ. Thế nên trên quãng đường chín cây số nam Thị Xã Quảng Trị
mà giới báo chí Miền Nam đặt nên tên đau thương Đại Lộ Kinh Hoàng hoàn toàn
không còn dạng thây ma để được gọi nên là xác chết, mà chỉ là những mảnh xương
cốt rời rã, lăn lóc, lẫn lộn đất, đá, cát vương vãi dưới gầm khung xe cháy nám,
nơi ổ súng cong queo, sau những bụi lùm trơ trọi, những gò, đụn oan khiên mà ổ
mối đùn lên gây tanh mùi máu.
Trong cùng lúc, vào thời điểm đầu mùa Hè, 1972 ở
An Lộc nơi Bệnh viện Tiểu Khu Bình Long cũng xẩy ra tình cảnh kinh hoàng đau
thương tương tự. Vì pháo binh yểm trợ cho các sư đoàn 5, 7 bộ binh cộng sản đã
học được một kinh nghiệm hữu dụng: “Ban ngày chỉ pháo xuống nhiều điểm bên trong thị xã để dân
chúng tin rằng” bộ đội
giải phóng “không pháo
kích vô chỗ bệnh viện!” Nhưng vào ban đêm, Trường Trung Học Cộng Đồng, Bệnh Viện Tiểu
Khu Bình Long... nơi lớp lớp người bị thương đang lê lết trong bãi máu, giữa những
người hấp hối để cầu sống sót, cầu được lúc bình yên. Cho dẫu bình yên được chết...
Những nơi nầy biến thành những điểm tập trung của pháo binh cộng sản. Điễn hình
chỉ trong một đêm 10 Tháng Tư, 1972 đã có hơn tám ngàn quả đạn 130 ly rơi xuống
xé toang đám xác người. Người sống lẫn kẻ chết, tất cả đồng tung lên ngật ngật
với thân thể con người chỉ còn là những mảnh vụn tơi tả lẫn với bụi, khói, mảnh
thép.
Chiều ngày 28 tháng 4, với tình cảnh sống-chết
đan kín, xen kẻ cùng nhau trong suốt chặng đường dài hơn một thập niên như trên
vừa kể ra... Tất Cả Hiện Đủ Trong Buổi Sáng Ngày 30 tháng Tư Năm 1975. Sự Chết
bắt đầu trùm chiếc cánh tối tăm hung hiểm lúc 6 giờ 15 chiều ngày 28 tháng 4,
khi chuỗi bom dưới cánh của những chiếc A37 do viên phi công phản trắc Nguyễn
Thành Trung hướng dẫn rơi xuống phi đạo Tân Sơn Nhất. Đạn phòng không bắn lên,
phi cơ F5 đuổi theo muộn màng, vô vọng. Cửa ngõ tháo chạy của Sài Gòn đóng sập
lại. Cuối cùng, Tân Sơn Nhất thật sự vùng vẫy, hấp hối, chìm dần trong lửa hoả
ngục khi dàn đại pháo, hỏa tiễn cộng sản từ Đồng Dù, Củ Chi, ranh giới Hậu
Nghĩa, Gia Định bắt đầu đổ xuống không ngắt nhịp. Từng trái đạn 130 ly, từng hỏa
tiễn 122 ly chính xác rơi xuống. Tân Sơn Nhất vật vã, co quắp, rã chết, sụp vỡ,
hấp hối trong khói đen, lửa ngọn. Cuộc hành hình kéo dài từ 1 giờ sáng ngày 29
tiếp tục đến rạng đông. Ở căn cứ DAO, Văn phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ, ba ngàn
người tỵ nạn chờ đợi di tản bằng C130, hoặc C141 qua Guam đưa mắt nhìn lên trời,
giữa vũng lửa, đếm rõ từng viên đạn pháo rơi xuống. Đống hành lý khổng lồ gồm
quý kim, vàng, kim cương, giấy bạc Năm Trăm Trần Hưng Đạo của Ngân Hàng Quốc
Gia Việt Nam; giấy bạc đô-la của ngân khố Mỹ. Tất cả cùng trộn lẫn với thịt da
thân thể người thành một thứ pháo bông tan tác bay tung toé, hiện thực nơi trần
thế cảnh địa ngục vô vàn mà nhà thơ Dante người Ý đã diễn tả qua thi ca.
Sáng 29 tháng 4, những tướng lãnh đã ra đi, những
sĩ quan cao cấp cũng rời bỏ nhiệm sở, đơn vị. Nhưng, Trung Úy Phi Công Trang
Văn Thành còn lại. Thành có danh hiệu “Thành mọi” bởi nước da ngâm đen quá độ ra chỗ đậu tàu.. Anh nổ máy chiếc
C119 Hỏa Long, đơn độc bay lên trời xanh bảo vệ, cứu viện Tân Sơn Nhất. Từ trên
cao, Trung Úy Thành thấy rõ những vị trí pháo của binh đội cộng sản.. Anh
nghiêng cánh, chúc mũi chiếc Hỏa Long căm phẫn trút xuống tràng đạn 7.62 ly, và
tất cả hỏa lực cơ hữu của hai khẩu đại bác 20 ly gắn dưới cánh. Lửa nháng lên
dưới thân tàu, toán phòng không cộng sản phản pháo, nhưng không kịp, Thành bình
tĩnh, tài giỏi lách ra khỏi vùng hỏa tập lưới đạn của giặc. Anh đáp xuống lại
phi đạo thân yêu quen thuộc đang bốc khói mù bởi cuộc dội bom chiều hôm trước,
và cuộc pháo kích cường tập từ sau nửa đêm về sáng của ngày đau thương tang tóc
nầy. Mặc, Thành một mình tự tay nạp đạn vào tàu, anh trở lại bầu trời trên phi
cảng Tân Sơn Nhất - Cửa ngõ của Miền Nam. Anh nhìn xuống những vị trí pháo cộng
sản mà giờ nầy tạm ngưng hoạt động vì vừa bị anh tấn công.. Hóa ra cả một quốc
gia chỉ còn được lần cứu viện bi hùng tuyệt vọng nầy. Thành chúc mũi tàu, bấm
chặt hệ thống kích hỏa bên cạnh chỗ ngồi, một mình anh lấy đường nhắm.. Một
mình anh.. Phải chỉ một mình anh - Trung úy
Trang Văn Thành, “Thành Thiếu
Sinh Quân”. Thành hạ
thấp hơn để đường đạn thêm phần chính xác. Thân tàu rung mạnh.. Lửa! Lửa! Lửa
cháy ngang cánh trái con tàu, ngay bình xăng, sát cạnh ghế ngồi.. Thành giật mạnh
chốt thoát hiểm để bung thân ra khỏi con tàu. Tất cả kẹt cứng. Anh dùng tay đẩy
cửa buồng lái phóng mình ra, chiếc dù bung mạnh.. Các múi, dây dù vướng vít rối
rắm. Thành bị giữ chặt bởi chiếc dù và khung cửa. Lửa bừng bừng! Lửa ào ạt...
Người phi công chìm trong lửa, gục chết giữa không gian trên quê hương.
Sáng 30 tháng 4, năm 1975. Sàigòn vắng lạnh. Trời
bỗng nhiên trở mưa. Cơn mưa ngắn, từng giọt khô nồng, u uất. Chiếc xe Zil Trung
Cộng từ hướng đường Trần Hưng Đạo, chạy chậm rãi qua bùng binh chợ Bến Thành.
Những người đi đường nhìn lên, ngó mông trống trải. Xe tới trước thềm Hạ Viện,
đám thiếu nữ dáng dấp nhà nông nhẩy xuống, một người đội mũ tai bèo, chắc là
người chỉ huy trung đội lính phụ nữ, từ ca-bin xe bước ra, chỉ chỏ, ban lệnh,
kéo từng người vào vị trí gọi là “chiến đấu”... Các đồng chí, các đồng chí... bố
trí đây nì, sẵn sàng tác chiến... Giọng người vùng miền Bắc Trung Việt cấm cẳng,
the thé. Những thiếu nữ thôn quê ngồi bất động nghiêm trọng. Tất cả đều mặc áo
quần mới, áo mầu xanh dương, quần đen, vải nội hoá còn nguyên dấu hồ, dây đạn
đeo chéo qua thân, miết xuống những thớ thịt ở ngực, phần bụng. Băng đạn trên
thân người mới tinh màu đồng đỏ au.
Từ Công Trường Lam Sơn, đầu đường Nguyễn Huệ,
đám đông dần tập trung để xem mặt “bộ đội Việt cộng”. Thêm hai xe đổ quân trước
rạp Rex. Lính cộng sản nhẩy xuống, chạy vội vào hàng hiên, nằm, trườn, bò, nháo
nhác. Tiếng đập đục rầm rập từ những cơ sở ngoại quốc, những khối cửa sắt lay động,
phá bung, những tấm kiếng tủ lớn bị đập vỡ, đồ đạc kéo lê hỗn độn, vội vàng
trên mặt đường. Người mỗi lúc mỗi đông. Người dồn dập ùn ùn, la ó, chưởi thề,
giành giựt. Đám đông chạy về phía Building Brink, khu Đồn Đất, nhà thương
Grall, những nơi có cơ sở của Mỹ kiều, những văn phòng mà chủ nhân đã bỏ đi. Bất
chợt, tất cả lắng lại để nghe rất rõ.. Có người tự tử. Có người mới bắn chết.
Ai? Lính hả? Không biết, chỉ thấy mặc đồ lính mình. Ở đâu? Ở ngoãi, chỗ tượng
Thủy Quân Lục Chiến.. Lời trao đổi đứt khúc, vội vã, mất hút giữa những tiếng
thở dồn dập, bước chân cuống cuồng nôn nóng của đám đông đang hăm hở tiến tới
những kho hàng, cơ sở đầy ắp vật dụng, thức ăn, rượu, bia. Tiếng súng nổ, đạn
bay lên trời... Và những gã thanh niên mang băng đỏ dẫn đám lính cộng sản chạy
lúp xúp vào cổng Tòa Đô Chính. Phía khối tượng đài Thủy Quân Lục Chiến thấy
hình hài một Người Lính vừa tự sát. Buổi Sáng 30 tháng Tư, 1975, chen giữa âm sắc
xích xe tăng đổ nhào cửa Dinh Độc Lập có tiếng nổ khô nhỏ của viên đạn ghim
vào, nằm sâu trong đầu Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long.
Trước cổng Trại Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu
Đoàn 1 Dù, Thiếu Tá Trần Công Hạnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 Dù tròng mắt
khô khan ráo hoảnh sau bao ngày đêm không ngủ sáng lên ánh mắt dứt khoát quyết
định ở lại với những lính của đơn vị khi lắng nghe báo cáo cuối cùng của đại đội
giữ Ngã Tư Bảy Hiền vừa bắn cháy thêm hai xe tăng của quân Miền Bắc... Có một
xác con trẻ trần truồng không biết ai ném ra từ bao giờ lên mặt đường. Một cô
gái mặc áo dài trắng nữ sinh đi đến, gác chiếc xe đạp mini cạnh lề đường, bình
thản, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy góc cạnh chụp thây đứa trẻ chết. Tay đứa
bé mà giờ nầy đã miết xuống mặt nhựa đường do đám người chạy loạn từ khu Ngã Tư
Bảy Hiền giẫm lên. Cô gái nhỏ giải thích: “Chụp để làm chứng tội
ác Mỹ-Ngụy trước khi bọn chúng rẫy chết! Hóa ra Sự Ác do cộng sản giáo dục có
thể chụp xuống lòng người mau chóng đến thế sao?” Bấy giờ chỉ
mấy mươi phút sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh.
Một trung đội lính Dù mà thật sự chỉ khoảng hơn
một Tiểu đội giữ nhiệm vụ an ninh cư xá Sĩ quan Bắc Hải đặt dưới quyền chỉ huy
của Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, trước 1972 là Tư lệnh phó Sư đoàn Dù. Chuẩn Tướng
Hậu đang trải chiếc bản đồ trên mui xe jeep, bàn tính với những viên sĩ quan.
Khi biết lệnh đầu hàng đã thi hành, ông vất tung chiếc bản đồ, gầm lên lời nguyền
rủa.. Dẫu vừa nhận lệnh.. “Anh em ai về nhà nấy” từ Tiểu Đoàn Trưởng Hạnh. Nhưng viên Thiếu úy trả lời quyết
liệt: “Tôi không đầu
hàng, tôi với trung đội sẽ ra bến tàu tiếp tục chiến đấu..”. Thiếu úy Huỳnh Văn
Thái tập họp trung đội, hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di chuyển. Trung đội lính
ra khỏi cư xá theo lối cổng Đường Tô Hiến Thành, rẽ vào Nguyễn Tri Phương, đi về
phía chợ Cá Trần Quốc Toản, hướng bến tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù của
Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái không ra đến bến Bạch Đằng, khi tới đến bùng binh Ngã
Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành vòng tròn, đưa súng lên trời đồng hô lớn... Việt Nam
Cộng Hoà Muôn Năm.. Con chết đây cha ơi! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực
nổ sau lời hô vĩnh quyết cùng đất nước Miền Nam.
Cùng lúc, trong ngõ nhỏ băng ra Chợ Ông Tạ, tại
một căn nhà đã diễn nên hoạt cảnh uy nghi bi tráng của cả một gia đình quyết tử
cùng vận nước. Thiếu Tá Đặng Sĩ Vĩnh thuộc Khoá 1 Nam Định, chuyên ngành tình
báo đặc biệt, biệt phái ngoại ngạch qua ngành viễn thông, phụ trách đường dây
quốc ngoại. Người con trai lớn của gia đình, Trung Úy Đặng Trần Vinh sĩ quan
Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu. Hai người cùng trao đổi lời đối thoại sau khi có lệnh
đầu hàng. Tùy con, riêng bố đã quyết như đã nói với con từ trước. Nếu bố đã quyết
như thế, con và các cháu cũng đồng lòng. Toàn gia đình uống chậm những liều thuốc
độc cực mạnh đã chuẩn bị từ trước. Cuối cùng Trung Úy Đặng Trần Vinh kết thúc
bi kịch với viên đạn bắn tung phần sọ não sau khi đứng chào tấm Đại Kỳ Cờ Vàng
Ba Sọc Đỏ với lời hô khiến sông núi cũng quặn thắt thương đau. Việt Nam Cộng
Hòa Muôn Năm!
Ở Vùng IV, đồng bằng châu thổ Sông Cửu Long, chị
Nguyễn Thị Thàng vợ một Nghĩa Quân Đồn Giồng Trôm, thay chồng giữ đồn đến trái
lựu đạn cuối cùng. Chị kết thúc đời mình bên cạnh thây của chồng, các con, với
những vũ khí, máy truyền tin đã bị phá hủy.. Không để cho Việt cộng một cái gì
cả! Người chồng đã dặn chị trước khi lâm tử. Cùng lần với những danh tướng vị
quốc vong thân Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Phạm
Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn... rất nhiều người không ai biết cấp Thiếu, Trung úy kể cả
binh sĩ, hạ sĩ quan,.. cũng không thiếu những người dân, những người dân thường
đã chết cùng lần vĩnh quyết Miền Nam. Phần những người còn sống nơi Miền Nam phần
lớn, nếu không nói là hầu hết sau khi đã đi qua biên giới tử sinh nầy đều có mặc
cảm phạm tội - Tội đã sống sót. Đấy là cảm ứng có thật kể từ ngày 15 tháng 3
khi nhìn đoàn người di tản dọc Tỉnh Lộ 7 từ Pleiku về Phú Bổn, xuống Tuy Hoà.
Khi đứng trên Đèo Hải Vân ngày 25 tháng 3, chứng kiến đoàn người chạy loạn từ
Quảng Trị, Huế vào Đà Nẵng. Khi nghe ra tiếng hờn đau ai oán của người đàn bà
chân trần, tóc rối, lật vạt áo dài ra để thấy đứa con nhỏ đã chết từ lâu trên
tay. Sáng 30 Tháng Tư, mỗi người Việt nơi Miền Nam từ hoàn cảnh riêng hiểu ra một
Mối Đau Chung - Mối đau lần chết thật với Miền Nam.
Người Nhật là một dân tộc vĩ đại qua nghi lễ hiến
tế, tức Sepuku (mổ bụng tự sát) khi danh dự cá nhân, tập thể, tổ quốc bị xúc phạm.
Dân tộc Việt Nam không có nghi thức uy hùng, dũng cảm ấy. Tuy nhiên, Người Việt
cũng có phương thức riêng để bày tỏ Lòng Yêu Nước, cách gìn giữ phẩm giá Con
Người. Người Việt xử dụng Cái Chết để chứng thực nguyện vọng kia qua cách thế
im lặng và đơn giản nhưng không kém phần cao thượng. Cuối cùng, bi kịch không
chỉ xẩy ra với thời điểm 30 tháng tư, 1975 mà sau đó, suốt hai thập niên 70,
80, hai triệu người Việt Nam, không phân biệt người Nam, hay người Bắc những
người đã sống lâu dài dưới chế độ cộng sản Hà Nội từ 1945, từ 1954... Tất cả đã
cùng phá thân băng qua biển lớn, xuyên rừng rậm vùng Đông-Nam Á, với giá máu
600.000 người chết trên đường di tản ra khỏi nước. Hóa ra Dân Tộc Việt, những
người Việt Nam bình thường đã đồng lần thực hiện một điều mà họ không hề diễn đạt
nên lời: Chết vì Tự Do để bảo vệ Phẩm Giá, Quyền Làm Người. Người Việt Nam đã
và đang hiện thực điều mầu nhiệm nầy qua từng ngày vượt sống trên quê hương khổ
nạn, với chính thân xác của mình. 41 năm sau Ngày 30 Tháng Tư ý nghĩa cao thượng
nầy vẫn luôn hiện thực với những thế hệ Việt thứ hai, thế hệ người Việt thứ
ba...
Phan Nhật Nam
Ngày 30-4-1975 của 41 năm sau
Friday, March 21, 2025
HÒA BÌNH DANH DỰ VÀ SỰ PHẢN BỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA
“Nếu Bắc Việt vi
phạm Hiệp định chúng tôi sẽ tái oanh tạc”
(Richard Nixon)
Trọng Đạt
April 26, 2017
Đa số nhà nghiên cứu và chính khách Mỹ khi nói về sự sụp đổ của miền nam Việt Nam năm 1975 họ thường lập luận như sau:
- Giới lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa bè phái tham nhũng, không tìm được một giải pháp hòa bình cho đất nước họ.
- Các Tướng lãnh VNCH ít có ai đủ khả năng chỉ huy những đại đơn vị, khi trực diện với quân địch họ rút chạy hỗn loạn đưa tới sụp đổ.
- Khi Mỹ rút đi, họ không đủ sức chống Cộng Sản và thua trận, chẳng lẽ thanh niên của chúng ta phải tiếp tục chiến đấu cho họ mãi mãi tại Đông Dương hay sao?
- Chúng ta viện trợ cho họ máy bay, xe tăng, tầu chiến… nhưng họ không biết xử dụng sao cho có hiệu quả nên đã thất bại khi quân địch tới.
- Quân đội miền Nam chiến đấu kém hiệu quả, phải dựa vào hỏa lực
Mỹ…
Thậm chí giữa thập niên 2000 cựu Tổng thống Bush con bênh vực cho cuộc chiến Iraq của ông đã tuyên bố: Iraq sẽ không như Việt Nam, miền nam VN mất vì quân đội của họ không chịu đánh mà chỉ chờ Mỹ đánh dùm!
Nhiều người dựa vào thảm bại của cuộc triệt thoái Cao nguyên tháng 3-1975 để kết án ông Thiệu làm sụp đổ miên Nam chỉ trong vài tháng.
Có nghĩa là VNCH sụp đổ vì chính họ và Mỹ không có trách nhiệm, tuy nhiên gần đây nhiều nhà học giả Mỹ viết về chiến tranh VN có công nhận Quốc hội đã cắt hết nguồn tiếp liệu khiến VNCH phải đầu hàng địch. Họ cũng chỉ nhắc sơ vài hàng chứ không khai thác tỉ mỉ, nhiều nhà sử gia khác lờ đi không nhắc tới sự thật phũ phàng này.
Hiệp định bất bình đẳng
Giáo sư Larry Berman, một tác giả viết nhiều sách về chiến tranh VN (Planning a Tragedy: The Americanization of the War in Vietnam; Lyndon Johnson’s War: The Road To Stalemate in Vietnam; No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam; Perfect Spy: The Incredible Double Life of Pham Xuan An, Time Magazine Reporter and Vietnamese Communist Agent.)
Có hai cuốn trong số các tác phẩm của ông được chú ý tới là Lyndon Johnson’s War: The Road To Stalemate in Vietnam – Cuộc Chiến Của Johnson, Con Đường Đi Tới Bế Tắc Tại Việt Nam, dầy 250 trang, in năm 1991 viết về chiến tranh thời TT Johnson những năm từ giữa tới cuối thập niên 60. Cuốn này nghiêng về quân sử, chỉ trích những sai lầm của Johnson trong chiến tranh hạn chế.
Sau đó là cuốn No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam- Không Hòa Bình, Không Danh Dự, Nixon, Kissinger Và Sự Phản Bội Việt Nam, dầy350 trang, in năm 2001. Đây là tác phẩm nổi tiếng của ông viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh VN. Cuốn này nghiêng về chính trị, chú trọng về Hiệp định Paris ký ngày 27-1-1973.
Nó cũng là một trong những cuốn sách hiếm hoi của Mỹ đề cập tới sự phản bội miền nam VN. Với cái tên “Không Hòa Bình, Không Danh Dự, Nixon, Kissinger Và Sự Phản Bội Việt Nam”, tác giả đặt trách nhiệm lên hai nhà lãnh đạo Nixon và Kissinger, những người đã phản bội VNCH. Larry Berman nói về chủ đề của tác phẩm trong một số chương và ở phần Lời mở đầu (Prologue). Tôi xin sơ lược vài hàng, ông trình bầy vấn đề làm hai phần:
Trước hết cái gọi là Hiệp định Paris, Hòa bình danh dự của hai nhà chính khách này chỉ là để Mỹ rút quân, lấy tù binh, lừa cho ông Thiệu ký Hiệp định vô nghĩa, bảo đảm miền nam sẽ sụp đổ. Phần sau Berman nói đã tham khảo nhiều tài liệu giải mật được biết sự thực Hiệp định chỉ là hòa bình giả. Nixon, Kissinger khi ký Hiệp định chỉ chờ cho CSBV vi phạm để oanh tạc, tiếp tục cuộc chiến bằng không lực để giúp miền nam VN tồn tại, đây là hòa bình giả, đánh lừa dân Mỹ. Hai phần này mâu thuẫn nhau.
Quan điểm của ông về sự phản bội của Nixon, Kissinger nằm ở chỗ Hiệp Định Paris tháng 1-1973 để cho 150 ngàn quân BV được ở lại khiến VNCH không thể tồn tại (1). Rất nhiều người chỉ trích Nixon, Kissinger về chuyện này. Trước hết tôi xin bàn về số quân BV ở lại miền Nam: TT Nixon (2) nói sau trận tổng tấn công 1972, Cộng quân thua chạy (tháng 10-1972) nhưng còn đóng tại một số vùng thưa dân thuộc QK I và QK II, quân đội VNCH không đủ lực lượng để đẩy lui địch.
Theo tài liệu phía CS (Chiến dịch xuân hè 1972 - Wikipedia tiếng Việt) thì lực lượng của họ trong trận tổng tấn công 1972 gồm 14 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập (3) khoảng 120,000 quân. Theo ước lượng phía Mỹ và VNCH có vào khoàng từ 70 cho tới 100 ngàn Cộng quân bị giết trong trận này (4) như thế số tàn quân không thể nào quá 100 ngàn được,
Xin nói về lý do tại sao không đòi được CSBV rút về Bắc
Larry Berman và nhiều người như Negroponte, Tướng Haig (hai phụ tá của Kissinger) (5), TNS Thurmond South Carolina (6)… chỉ trích Nixon, Kissinger ký hiệp định bất bình đẳng không đuổi được CS về Bắc, địch còn đóng quân kể như thua. Berman nói Hiệp định Paris vô nghĩa, nó bảo đảm miền nam VN sẽ mất về tay CS.
TT Nixon đã trả lời về vấn đề này, ông nói “Có một châm ngôn ngoại giao là cái gì ta không làm được ở chiến trường thì không thể đòi được ở bàn hội nghị”, Kissinger cũng nói y như thế (7). Sau trận đánh 1972, VNCH tuy thắng lớn nhưng không đủ lực lượng để đuổi địch ra khỏi những vùng chiếm đóng tại QK I và QK II nên không thể đòi chúng rút về Bắc được,
Nixon nói:
“Chúng tôi biết nếu đạt thỏa
hiệp đòi BV trả lại đất cho VNCH thì họ sẽ không ký Hiệp định. Nếu
ta đòi BV rút quân bằng được sẽ không có Hiệp định”
(No more Vietnams trang 152)
Đầu tháng 1-1973, Quốc hội đốc thúc Nixon ký Hiệp định, họ cho biết nếu không sớm ký kết sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ VNCH, buộc Hành pháp rút hết quân… (8). Ngoài ra Nixon nói (trang 155) sự tồn tại của VNCH không phụ thuộc việc Cộng quân còn đóng tại một số vùng dân cư thưa thớt mà phụ thuộc vào viện trợ của Quốc hội và sự cho phép cưỡng bách (CS) thi hành Hiệp định Paris (enforce the agreement). Nếu ta không sớm ký Hiệp định, Lập pháp sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh vào tháng 1-1973 cho rằng VNCH gây trở ngại hòa đàm.
Trên thực tế mọi người đều thấy sự sụp đổ miền nam VN không do Hiệp định mà vì cạn kiệt tiếp liệu đạn dược, không có sự kiện nào chứng tỏ Hiệp định đã trực tiếp gián tiếp gây ảnh hưởng. Sau Hiệp định Paris tháng 1-1973, hơn nửa triệu quân đồng minh gồm Mỹ, Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan… đã rút về nước, VNCH phải một mình gánh vác chiến trường với quân viện bị cắt giảm xương tủy. Đó là lý do chính khiến cho CS thắng lợi dễ dàng.
Việc đòi Cộng quân rút về Bắc không có nghĩa VNCH sẽ được an toàn, họ chỉ rút qua biên giới Lào, Miên sát ngay đó và trở lại khi cần.
Berman chỉ trích Nixon Kissinger đánh lừa Thiệu, hứa hẹn trừng phạt BV đã ghi trong Hiệp định (trang 202). Cuối tháng 11-1972, Nguyễn Phú Đức, đại diện ông Thiệu đi Hoa Thịnh Đốn họp với các nhà lãnh đạo Mỹ về bản sơ thảo Hiệp định. Kissinger nói với Đức rằng lời cam kết của TT Nixon sẽ ghi vào hồ sơ đàng hoàng. Berman nói thực ra chẳng ghi hồ sơ gì cả, nước Mỹ không đụng một ngón tay ngăn chận CS chiếm miền Nam, những ngày cuối của Saigon, Kissinger và Nixon đánh lừa Đức nhưng không đánh lừa được lịch sử (lời Berman)
Sự thực khi CSBV vào chiếm VNCH, Nixon đã bị ép từ chức tháng 8-1974, vả lại Quốc hội ra luật (9) cắt hết các ngân khoản (của Hành pháp Mỹ) dành cho chiến tranh Đông Dương 30-6-1973 (nửa năm sau Hiệp định). Nixon bị bó tay nhìn CSBV và Khmer đỏ tấn công chính phủ Lon Nol và VNCH.
Berman chỉ trích Nixon, Kissinger ép Thiệu ký Hiệp định bất bình đẳng mà thực ra tháng 1-1973 Quốc hội đã thúc ép Nixon phải sớm có hòa bình. Các vị chức sắc Quốc hội đã nhắc nhở Nixon nêu VNCH làm trở ngại Hiệp định họ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh nên không thể qui trách nhiệm cho Nixon Kissinger trong việc ký kết.
Hòa bình danh dự, Peace with Honor theo định nghĩa của TT Nixon là rút quân về nước, lấy tù binh, chấm dứt chiến tranh và không làm sụp đổ đồng minh VNCH. Trong khi đó đảng đối lập chủ trương rút bỏ VN sớm mà không quân tâm tới sự tồn tại của Đông Dương, sống chết mặc bay, miền nam VN sẽ sớm mất về tay CS. Nixon chỉ làm được đến thế, thật vô lý khi Berman cũng như rất nhiều người chỉ trích kết án hòa bình danh dự của ông. Họ nói Hiệp định của hai nhà lãnh đạo đã làm sụp đổ Đông Dương trong khi Nixon đã bị ép phải từ chức.
Thật vô lý khi Berman và nhiều người chỉ trích TT Nixon không giữ lời hứa (với ông Thiệu) sẽ trừng trị CSBV nếu họ vi phạm Hiệp định khi ai cũng biết ông đã từ chức tháng 8-1974 và đã bị Lập pháp trói tay.
Tác giả nói nay có hai cách giải thích sự thất bại của Hiệp định Paris và sự sụp đổ Sài Gòn, trước hết cách nói của hai nhà lãnh đạo: Nixon nói (10) năm 1973 ông đã bảo đảm nền độc lập VNCH nhưng năm 1975, Quốc hội đã hủy hoại khả năng thi hành Hiệp định (của ông) khiến VNCH sụp đổ. Kissinger nói thảm kịch là do tình trạng xáo trộn tại Mỹ, tháng 4-1973 vụ Watergate nổi lên, kế đó TT không được phép cưỡng bách thi hành Hiệp định Paris (trừng trị CSBV khi họ vi phạm)
Cách giải thích thứ hai của tác giả Frank Snepp (trang 8) cho rằng Hiệp định chỉ là một khoảng cách tốt đẹp (Decent interval). Nixon, Kissinger chỉ chú trọng lấy tù binh, tìm người mất tích, tương lai chính trị VN thì để người VN tự giải quyết. Chính phủ Mỹ không muốn CS thắng quá nhanh, họ biết là CS sẽ ngẫu nhiên thắng, khi ký Hiệp định CSBV không bỏ mục tiêu dài hạn chờ cho Mỹ rút. Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp nói Hiệp định chỉ là cách trốn trách nhiệm của Mỹ (Nixon – Kissinger), một cách bảo đảm để Mỹ rút đơn phương.
Kissinger đã nói với Phụ tá TT Ehrlichman miền nam VN may mắn lắm thì có thể cầm cự được một năm rưỡi, ông cũng nói với phụ tá của mình Negroponte rằng Mỹ không muốn tiếp tục ở lại VN.
Hồ sơ giải mật
Nhưng chương thứ 10 và 13 (11) Larry Berman nói sau khi tham khảo những hồ sơ đã giải mật thì thấy sự kiện tệ hại hơn thế. Ông nói sự thực khác xa với giả thuyết Decent interval và khác xa những điều mà Nixon, Kissinger tuyên bố. Hồ sơ giải mật có ghi là Chính phủ Mỹ muốn Hiệp định bị BV vi phạm ngay và sẽ đưa tới sự giáng trả dữ dội. Chiến tranh thường trực bằng oanh tạc (B-52) mà Nixon và Kissinger sẽ khởi động từ Hiệp định. Họ tin đó là con đường duy nhất để dân Mỹ chấp nhận (chiến tranh) nếu đã ký Hiệp định, Nixon tin là sẽ xử dụng B-52 để giúp VNCH cho tới cuối nhiệm kỳ của ông năm 1976.
Đối với Nixon, Hiệp định là một phương tiện để có quyền can thiệp thường trực vào Đông Nam Á. Sự thực đã được chôn vùi khá lâu vì Nixon và Kissinger từ chối không cho ai được xem những bí mật lịch sử, hạn chế không cho người khác đọc cũng như coi giấy tờ riêng, băng thu điện đàm và tất cả những nguồn tài liệu gốc …
Nhờ tham khảo những tài liệu giải mật Berman đã đánh giá được chủ trương hiếu chiến của Nixon-Kissinger, nó hoàn toàn trái ngược với ý nghĩa của hòa bình danh dự mà ông ca ngợi, phô trương. Hai nhà lãnh đạo này đã đánh lừa người dân Mỹ, dư luận Mỹ bằng một nền hòa bình giả (12).
Berman cho biết (trang 203), sáng 30-11-1972, khoàng hai tháng trước ngày ký kết Hiệp định Paris, TT Nixon họp Ban tham mưu liên quân, Kissinger thuyết trình về bản Dự thảo Hiệp định ngưng bắn, ông nói Tổng thống muốn tập trung vào tình trạng khẩn trương nhất gồm hai sự kiện: Nếu hòa đàm tan vỡ, giải pháp quân sự nào? Thứ hai nếu hòa đàm thành công nhưng Hiệp định bị vi phạm ta sẽ trừng trị địch thích đáng bằng không lực Mỹ.
TT Nixon chỉ thị cho Ban tham mưu sửa soạn chương trình oanh tạc khẩn cấp trong trường hợp hòa đàm tan vỡ, chiến dịch sẽ xử dụng ồ ạt Hải quân, Không quân trên lãnh thổ BV. Chiến dịch được gọi là Priming Charge (trừng phạt khởi đầu) được phác họa để phá hủy bộ máy chiến tranh BV gồm 58 mục tiêu và phong tỏa hải cảng…
Đô đốc Elmo Zum Walt Tư lệnh Hải quân trong buổi họp cho rằng Nixon chủ trương đánh mạnh (oanh tạc) trong hai năm nữa sẽ thương lượng một Hiệp định tốt đẹp hơn. Tổng thống nói ông cần Ban tham mưu hợp tác, VNCH sẽ vui mừng, họ vẫn được viện trợ kinh tế, quân sự.
Trong trường hợp CSBV vi phạm, tăng cường xâm nhập, tấn công VNCH, Đô đốc Thomas Moorer (trang 204) Tham Mưu Trưởng Liên Quân đã thảo kế hoạch khẩn trương 3 và 6 ngày cho kế hoạch đòi hỏi để tấn công BV. Kế hoạch gồm gài mìn Hải Phòng, oanh tạc Hà Nội bằng B-52, sự giáng trả phải ồ ạt hữu hiệu.
Ngoài ra hồ sơ giải mật (trang 260) về cuộc nói chuyện trong buổi họp với Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu ngày 4-8-1973. Kissinger nói chỉ có oanh tạc (B-52) mới bảo vệ và giúp VNCH không bị sụp đổ, cuộc đối thoại cho ta thấy rất nhiều. Kissinger đã nhìn nhận ký Hiệp định xong tháng 1 và nói tôi cảm thấy chúng ta phải tái oanh tạc BV vào tháng 4 hay tháng 5.
“Nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp định chúng tôi sẽ tái oanh tạc”
Điều ông xác nhận cũng giống y như cái mà Đô đốc Zumwalt đã kết luận cuối tháng 11-1972 tại buổi họp Tham mưu trưởng liên quân. Đó là hòa bình giả trong kế hoạch đánh lửa dân Mỹ với những từ ngữ văn vẻ hào nhoáng “danh dự cho Mỹ”.
Kissinger cho rằng Watergate (1974) đã phá hỏng kế hoạch của
Nixon, ông không hề có ý định phản bội VNCH. Nixon muốn được coi là
vị Tổng thống có chính sách ngoại giao vĩ đại người đã
- Bang giao với Trung Cộng.
- Hòa với Nga Sô.
- Bảo vệ được VNCH.
Quyết tâm bảo vệ miền Nam VN của Nixon để bảo tồn một di sản cho sự nghiệp chính trị của ông. Hôm 27-4-1975, William Buckley viết trên Wall Street Journal nhận định Watergate đã làm cho kế hoạch nghiền nát miền Bắc VN của Nixon bị trật đường rầy.
Điều mà Larry Berman khám phá nhờ tài liệu giải mật cho thấy
Nixon, Kissinger đã đánh lừa người dân Mỹ, Quốc hội. Hòa bình danh
dự mà họ tìm kiếm chỉ là hòa bình giả (a sham peace)
Nixon-Kissinger mang tội giả dối với nước Mỹ (như tác giả nói) nhưng có công với VNCH vì ông chủ trương cưỡng bức (CS) thi hành Hiệp định, tiếp tục bảo vệ đồng minh. Nếu do tham khảo hồ sơ mật để khám phá ra sự thật ấy thì nó mâu thuẫn với chủ đề mà ông đưa ra trên đây khi kết án Nixon, Kissinger ký Hiệp ước bất bình đăng phản bội VNCH.
Đô đốc Elmo Zum Walt Tư lệnh Hải quân đã ghi lại cảm tưởng về buổi họp, ông nhận định Nixon lường gạt: Tổng thống nói về tình trạng ngưng bắn, hứa viện trợ ồ ạt cho miền nam VN và giáng trả vi phạm của CSBV để bảo đảm hòa bình. Chính phủ (Nixon) dấu kín và không bao giờ cho người dân và Quốc hội biết chuyện bí mật này.
Ai phản bội Việt Nam
Larry Berman đặt tên tác phẩm “Không Hòa Bình, Không Danh Dự, Nixon, Kissinger Và Sự Phản Bội Việt Nam ” khiến người ta nghĩ rằng hai nhà chính khách này đã không mang lại hòa bình danh dự và họ phản bội VN. Nhưng phần sau, tác giả tham khảo tài liệu giaỉ mật cho thấy các vị này chỉ chuẩn bị chờ oanh tạc trừng trị BV để cứu VNCH.
Trong phần mở đầu cũng như phần kết luận, ông chiếu lại khúc phim
cuối tháng 4-1975 người Mỹ tháo chạy bỏ VN và có nói sơ về sự phản
bội đồng minh của Mỹ. Kissinger cho biết danh dự Mỹ bị lâm nguy
(trang 3) Đại sứ Martin điện tín cho Kissinger xin đừng cho di tản ồ
ạt vì nó cho thấy sự phản bội khiến ta mất hết danh dự. Khi trực
thăng di tản những người Mỹ cuối cùng, tại hạm đội Đại tá Harry G.
Summers nói “Chiến tranh Việt Nam chấm dứt, đối với người Mỹ ngày
này thật chẳng lấy gì làm tự hào” (trang 4)
Tại Bạch Cung TT Ford chính thức thông báo chỉnh phủ VNCH đã đầu
hàng
“Lịch sử sau cùng sẽ phán xét phán xét những cái ta đã và chưa
làm ở VN cũng như nơi khác. Ta hãy bình tâm chờ bản án” (trang 5)
Ngoài Larry Berman ra không thấy tác giả nào đề cập tới khía cạnh
này, họ thường nhấn mạnh sự sai lầm của ông Thiệu trong kế hoạch lui
binh tại Cao nguyên và vùng hỏa tuyến
Tác giả tuy đề cập tới vấn đề người Mỹ phản bội đồng minh nhưng ông lại hướng về hai nhân vật lãnh đạo Hành pháp và không đả động gì tới trách nhiệm của nước Mỹ. Berman cũng như nhiều người chỉ trích Nixon, Kissinger ký Hiệp định vô nghĩa nhưng họ không biết hoặc vờ không biết về những khó khăn mà chính phủ phải đương đầu tại bàn Hội nghị. Kissinger kể lại những ngày đầu đàm phán với phía CSBV từ 20-2 tới 4-4 -1970 (13) trong khi Mỹ đang rút quân từ từ. Thái độ của Lê đức Thọ rất cha chú, ta đây. Thọ nói Mỹ phải rút không điều kiện, lật đổ chính phủ Thiệu, thành lập Liên hiệp, ngoài ra chẳng có gì để bàn cả. Đảng Dân Chủ và Ủy ban ngoại giao Thượng viện đòi rút nhanh, loại bỏ Thiệu-Kỳ nhưng Nixon-Kissinger không chấp nhận vì như thế coi như đầu hàng CS (14). Kissinger nói Thọ hiểu biết rõ, chính xác về dư luận phản chiến tại Mỹ nên tếp tục đòi Mỹ rút đơn phương, lật đổ Thiệu cho tới tháng 9-1972, (hai năm rưỡi sau) khi BV thảm bại về quân sự họ mới chịu nhượng bộ nhiều.
Ngày 18-3-1970, ông Hoàng Sihanouk bị Tướng Lon Nol lật đổ khi đang ở Bắc Kinh. Từ giữa tháng 4 -1970 CSBV tại căn cứ biên giới tấn công bao vây Nam Vang để lật đổ Lon Nol đưa Sihanouk về, nay Sihanouk đã theo CS. Nếu Mỹ không can thiệp VNCH sẽ bị lâm vào tình trạng nguy khốn. Cuối tháng 4 -1970 Nixon giúp VNCH hành quân sang Miên phá hủy các căn cứ CSBV, VC nhưng vấp phải sự chống đối dữ dội của Quốc hội, truyền thông, sinh viên và phong trào phản chiến… Hàng trăm ngàn người biểu tình phía sau Tòa Bạch Ốc, tại Thủ đô. Tình trạng cho thấy sự ngang ngược của Quốc hội Dân chủ, truyền thông, phong trào phản chiến…họ muốn Hành pháp phải chịu bó tay trước sự lộng hành của CS.
George Donelson Moss (15) nói Nixon nhậm chức đã được hai năm, sau hai năm chiến đấu và đàm phán để chấm dứt chiến tranh mang lại hòa bình nhưng ông nhận thấy quyền hạn của Tổng thống bị thu hẹp, vị trí nước Mỹ tại bàn hội nghị tồi tệ, hòa bình còn xa….
Kissinger thất vọng không tìm ra cách nào đòi CSBV rút song phương, ông nói khi Nixon nhậm chức thay thế những người (Dân Chủ) trước đây đã can thiệp (đưa quân) vào VN. Mới đầu họ trung lập sau quay ra chống đối, kết án Nixon có trách nhiệm với cuộc chiến mà thực ra ông chỉ thừa hưởng. Họ chỉ trích Nixon không theo giải pháp này nọ mà chính họ trước đây chẳng làm được gì (16).
Kissinger cũng nói Bảo thủ (CH) xuống tinh thần vì cuộc chiến tới giai đoạn phải rút quân, Cấp tiến (DC) ám ảnh bởi chính họ đã đưa nửa triệu quân vào Đông Dương. Họ không chịu đối mặt với sự can thiệp của mình trong quá khứ hoặc ngồi im miệng mà ngược lại, trốn trách nhiệm và đổ lỗi cho Tổng thống Nixon (17). Đảng Dân chủ đã đưa nước Mỹ vào chỗ sa lầy tại VN thập niên 60 nay trở mặt a dua với phản chiến, truyền thông để chống chiến tranh, chống chính phủ (đối lập), không được ăn thì đạp đổ, tạo lên không khí phân hóa dữ dội.
Dân chủ vẫn nắm Quốc hội với 55.86% Hạ viện và 57% Thượng viện.
Sau hai năm lãnh đạo, Nixon thấy chính phủ bị giới hạn quyền hành, đảng Dân Chủ, truyền thông, phong trào phản chiến, sinh viên…những năm 1969, 70 đã đưa nước Mỹ bước vào giai đoạn “toàn quốc phản chiến” đòi rút bỏ VN.
Những tháng đầu năm 1973, CSBV vi phạm hiệp định và giúp Khmer đỏ tấn công chính phủ Lon Nol, Nixon oanh tạc trừng trị địch và bị Quốc hội phản đối dữ dội. Họ ra tu chính án cắt hết ngân khoản quân sự dành cho Đông Dương cuối tháng 6-1973, có hiệu lực từ giữa tháng 8 (18). Sau đó Quốc hội Dân chủ cắt giảm quân viện VNCH mỗi năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975 (19) khiến miền nam VN lâm vào tình trạng kiệt quệ tiếp liệu đạn dược.
Tổng thống lúc này chẳng khác gì bù nhìn nhưng người ta vẫn chỉ trích ông không trừng trị quân địch để cứu VNCH.
Sau khi tham khảo tài liệu giải mật Larry Berman lại nói Nixon, Kissinger không bỏ Đông Dương mà còn sẵn sàng trừng trị CSBV vi phạm Hiệp định, họ chủ trương kéo dài chiến tranh. Điều này cho thấy những lời chỉ trích, lên án Nixon, Kissinger phản bội VN hoàn toàn sai.
“Không hòa bình không danh dự” như tác giả nói không phải để ám chỉ Hiệp định vô nghĩa mà là tiếp tục chiến tranh chứ không phải hòa bình danh dự, người ta thường nghĩ là ông chỉ trích hòa bình danh dự làm sụp đổ VN
Tên tác phẩm của Berman khiến độc giả tưởng ông kết án Hiệp định Paris không có hòa bình, không có danh dự vì nó làm sụp đổ VNCH. Nhưng khi ông nói về hồ sơ giải mật thì không phải vậy mà tác giả muốn nói “không hòa bình, không danh dự” vì Nixon, Kissinger không tìm hòa bình như họ tuyên bố mà muốn tiếp tục chiến tranh bằng không lực Mỹ để bảo đảm cho miền nam VN.
Lúc này Berman không lên án hai nhà chính khách này phản bội đồng minh nhưng chỉ trích họ họ đánh lừa, lường gạt nước Mỹ vì tiếp tục cuộc chiến bảo vệ miền nam VN, phản lại chủ trương của nước Mỹ muốn vứt bỏ mảnh đất này cho lùi vào dĩ vãng. Đúng vậy, Quốc hội, truyền thông, sinh viên…muốn nước Mỹ phải bỏ Đông Dương trong khi Nixon-Kissinger đi ngược lại chủ trương này, hai ông không phản Đông Dương mà có tội với nước Mỹ.
Tại phần mở đầu và kết luận cuốn sách Berman có đề cập dù là sơ sài tới việc nước Mỹ bị sứt mẻ uy tín vào những ngày cuối tháng 4-1975 khi họ tháo chạy bỏ Đông Dương. Hầu như không có nhà nghiên cứu nào nói như ông dù là ngắn gọn, họ thường chỉ trích sự sai lầm của ông Thiệu làm sụp đổ miền nam.
Họ lờ đi không nói tới quân viện ồ ạt của CS quốc tế cho Hà Nội tổng cộng 2 triệu 362 ngàn tấn hàng hậu cần và vũ khí (20). Trong khi CSBV muốn bao nhiêu xe tăng, đại bác, hỏa tiễn, phòng không… đều có ngay thì VNCH những năm cuối cùng 1974, 1975 phải trầy da tróc vẩy cử phái đoàn sang Mỹ xin viện trợ thường là nhỏ giọt
Không phải rằng Nixon, Kissinger phản bội VN mà là nước Mỹ phản bội vì như đã nói trên, ngay từ 1970, nước Mỹ đã phát động phong trào toàn quốc phản chiến gồm Quốc hội, đảng đối lập, sinh viên, truyền thông… Theo lời kể của Kissinger (21) Quốc hội Mỹ đã bắt đầu đề nghị một số tu chính án cắt ngân khoản chiến tranh Đông Dương nhưng chưa được phê chuẩn. Như thế nước Mỹ chống chiến tranh tập thể, hành động phản bội chính là nước Mỹ chứ không thể là Nixon, Kissinger. Chủ trương rút bỏ Đông Dương đã thành hình từ 1970 và nhất là sau khi Nixon, Kissinger đã bang giao được với Trung Cộng, hòa hoãn với Nga sô từ giữa năm 1972 là cơ hội tốt cho Quốc hội Dân chủ Mỹ phản bội đồng minh
Larry Berman phải lục lọi, tìm kiếm những hồ sơ giải mật để viết về sự dối trá của Nixon, Kissinger đối với người dân Mỹ, nước Mỹ, nhưng ông không viết về sự phản bội của nước Mỹ. Muốn vậy ông cũng chẳng cần tham khảo các hồ sơ giải mật. Tài liệu đầy cả ra, không cần thiết phải tìm tòi nhưng đã có nhà sử gia, chính khách Mỹ nào biên soạn chưa? Tháng 6-1973 Quốc hội ra luật cắt hết ngân khoản dành cho chiến tranh Đông Dương để trói tay Tổng thống. Nixon không còn quyền hành ngăn chận CS vi phạm Hiệp định Paris, sau đó họ dần dần cắt giảm viện trợ miền nam VN mỗi năm 50% mà ai cũng đều biết cả… hậu quả là VNCH sụp đổ trong khoảng thời gian thật ngắn.
Berman nói kế hoạch trừng trị BV vi phạm Hiệp định của Nixon-Kissinger đã bị Wategate hủy hoại (trang 9), thực ra dù không có biến cố này, Nixon cũng đành chịu bó tay vì không có ngân khoản để oanh tạc. Quốc hội đã ra luật từ giữa năm 1973 cắt hết nguồn tài chánh (của Hành pháp) dành cho chiến tranh Đông Dương.
Ta không thấy sử gia chính khách Mỹ so sánh viện trợ Mỹ cho VNCH với viện trợ của CS Nga, Tầu cho BV, ta không thấy các vị ấy nói về tình đồng chí của CS, họ không bỏ đồng minh
Hậu quả của sự phản bội là nay tại Đông Nam Á, các nước Thái Lan, Việt, Mên, Lào, Mã Lai, Phi Luật Tân… có khuynh hướng ngả về Trung Cộng, họ không dám theo Mỹ khi nhớ lại biến cố Đông Dương 1975.
Nhiều nhà nghiên cứu, chính khách Mỹ thường ra vẻ công bình, khách quan, họ khen kẻ địch can đảm, yêu nước được lòng dân …nhưng họ không công bình vì không so sánh viện trợ Mỹ cho VNCH với viện trợ của CS quốc tế cho BV. Ta không thấy các vị ấy nói về tình đồng chí của CS, họ giúp đỡ đồng minh tới ngày chiến thắng cuối cùng.
Trên thực tế hầu hết các nhà sử gia, chính khách Mỹ tránh nói tới việc Quốc hội nước họ bức tử VNCH vì tâm lý chung đẹp đẽ khoe ra, xấu xa đậy lại. Họ thường nói Hoa Kỳ bảo vệ dân chủ, tự do cho tất cả các nước bị áp bức xâm lăng nhưng tránh xúc phạm đất nước mình
Nhiều người cho rằng Hoa Kỳ phải ký Hiệp định Paris mới rút quân, lấy tù binh là không đúng sự thật. Quốc hội Mỹ có hai cách để lấy hòa bình
– Ký Hiệp định Paris
– Ra luật chấm dứt chiến tranh
Trường hợp có được nền hòa binh danh dự đẹp mặt cả nước là điều họ mong đợi, cùng kỳ lý nếu Hiệp định trở ngại họ sẽ phải ra luật chấm dứt chiến tranh cho dù tàn khốc vô nhân đạo.
Ít người chịu để ý vấn đề này, các nhà sử gia Mỹ tránh không nhắc tới vì nó thể hiện bộ mặt xấu của Lập pháp, của cả đất nước mình.
Trọng Đạt
(trích trong Chiến Tranh Việt Nam Dưới Thời Kennedy-Johnson-Nixon-Ford, 2017)
Tham khảo
(1) No No Peace Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam các trang 2, 7
(2) Richard Nixon: No More Vietnams trang 152
(3) Nixon trong No more Vietnams trang 150 cũng nói vậy
Theo Phillip B. Davidson: Vietnam At War, The History 1946-1975 trang 673 là 125 ngàn quân
Subscribe to:
Posts (Atom)