ĐỖ LỆNH DŨNG - CHƯƠNG 6

  Lê Thiệp

 

CHƯƠNG 6

 

Trong một cơn bốc đồng, có thể vì chán nản trước mọi sự, có thể chỉ vì cái nhìn khinh rẻ của ông Trung Tá Minh, tôi đã trải qua một đêm đầy kinh hoàng.

Cuộc đời có những đẩy đưa bất ngờ. Tôi không bao giờ nghĩ tôi sẽ gặp lại ông Trung Tá Minh ở Bố Đức. Chính ông Trung Tá này đã ký giấy báo cáo tôi đào ngũ. Bởi vậy khi cầm sự vụ lệnh đi nhậm chức Đặc Trách Nhân Dân Tự Vệ Quận Bố Đức, tôi không có một ý niệm gì, coi như mọi sự muốn ra sao thì ra và bật ngửa khi thấy ông Quận Trưởng lại là người hai tháng trước đây ký giấy báo cáo tôi bỏ nhiệm sở, đào ngũ.

Ông Minh nhìn tôi cười khẩy:

– A, Trung Uý Đỗ Lệnh Dũng. Mình lại gặp nhau. Thôi được, ông liên lạc với Thiếu Uý Tám lo chỗ ăn chỗ ở rồi tính sau.

Không hiểu sao tôi nổi cơn khùng:

– Tôi hiểu là chức vụ của tôi sẽ phải ở dưới ấp nhiều hơn. Trung Tá có thể cho tôi đi thẳng xuống ấp ngay được không.

Trung Tá Minh ngạc nhiên, ngẩng đầu nhìn tôi khá lâu như muốn đánh giá và rồi chậm rãi:

– À, nếu Trung Uý Đỗ Lệnh Dũng muốn bắt tay vào việc ngay thì được chứ. Để tôi sai tài xế chở Trung Uý xuống ấp liền.

Lúc đó cũng đã khoảng hơn bốn giờ chiều và khi người tài xế bỏ tôi xuống ngã tư đường đất đỏ, trời cũng bắt đầu sập tối. Tôi hỏi người tài xế:

– Trụ sở ấp ở đâu ?

– Làm gì có trụ sở ấp, Trung Uý.

Lại thêm một bất ngờ. Quả thật tôi chỉ muốn nhảy lên chiếc xe jeep quay trở lại Quận đường. Ít ra thì ở đó còn có chút đỉnh văn minh. Nhưng nghĩ đến cái giọng khinh khỉnh của ông Quận, tôi vẫy tay bảo:

– Thôi chú cứ về đi, mặc tôi.

Trung Uý Đỗ Lệnh Dũng vai đeo ba lô, tay thủ khẩu M16 đứng chơ vơ giữa ngã tư Ấp Mới với cái sự vụ lệnh Đặc Trách Nhân Dân Tự Vệ không biết phải đi đâu tìm ai trong cái ấp toàn là người Thượng Stieng này. Trót đâm lao thì phải theo lao, tôi lững thững đi về phía căn nhà có vẻ khang trang nhất. Té ra là một cửa hàng chạp phô bày lỉnh kỉnh đủ thứ tạp nham. Mùi cá khô sực lên. Dăm ba gói thuốc Quân Tiếp Vụ xếp bên một thúng thuốc rê. Vài hũ kẹo, và nhiều thứ tôi không biết là gì nữa. Quán vắng tanh y như cảnh ngoài đường vậy. Tôi lên tiếng:

– A lô, có ai không?

Từ phía sau bếp tối om, một người đàn bà trung niên ló ra. Người thiếu phụ có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi áo giáp mũ sắt ba lô nặng trĩu, một hình ảnh lạ lẫm trong cái bối cảnh này. Phải định thần một lúc bà ta mới hỏi:

– Trung Uý tìm ai?

Bà ta không có hỏi tôi có cần mua bán gì không. Tôi chậm rãi:

– Bà có biết ông Trưởng Ấp hay mấy ông hội đồng ở đâu không? Ấp này có lính tráng hay nhân dân tự vệ gì không?

– Biết chứ, nhưng giờ này làm sao tìm được họ. Còn mấy ông nhân dân tự vệ hả lúc nào họ mua rượu thì mới thấy.

Bỗng nhiên, bà hỏi tôi một câu bất ngờ:

– Trung Uý có đói không?, Trung Uý ngủ ở đâu tối nay?

Một nỗi buồn tràn ngập tôi. Trung Uý Dũng trận mạc đầy người, huy chương Việt Mỹ cả vốc, dân chơi thứ thiệt nay đang đứng trong xó tối và đang bị một người phụ nữ, có lẽ là bà vợ của một người lính tử trận, nhìn bằng con mắt ái ngại. Tôi quay nhìn ra phía cửa. Trời gần như tối hẳn. Tôi thấy bụng cồn lên vì đói:

– Bà có biết có quán nào bán cái gì ăn không?

Bà ta cười:

– Xó rừng này toàn là người Stieng, làm gì có quán xá. Chỉ có vài gia đình Việt Nam ở hẳn đây. Thôi, Trung Uý đói để tôi nấu mì gói vậy.

– Nếu có mì gói thì hay quá.

Bà ta chỉ cái bàn khập khiễng ra hiệu và đi khuất vào phía sau bếp. Tôi ngồi đó chỏng chơ, cây M16 gác ngang đùi, đầu óc trống rỗng.

Khi người đàn bà – sau này tôi thân với bà Hoa lắm – bưng ra một tô mì nóng đặt trước mặt tôi và nhỏ nhẹ:

– Tôi ở một mình, Trung Uý ở đây không tiện. Để tôi qua nhà thím Sáu tính toán xem sao.

Tôi nhìn bà ta ngạc nhiên. Tôi chưa hề xin được trọ ở đây nhưng có lẽ linh tính phụ nữ cho bà ta thấy tôi đang ở đường cùng ngõ bí. Không đợi tôi trả lời, bà ta đi ra đóng hết cửa lại và lách mình vào đêm tối. Đói quá tôi lùa vài đũa là hết tô mì, bưng cả cái tô lên húp nước. Tứ bề im phăng phắc không một tiếng động. Một niềm sợ hãi bùng lên trong tôi. Nếu người đàn bà này là Việt Cộng nằm vùng dám lắm, một người đàn bà goá ở một mình nơi đây… Dám lắm, có thể dọn mì để cầm chân tôi… Lấy cớ sang thím Sáu để đi báo du kích…

Tôi quan sát và chộp khẩu M16 lủi vào một góc nhà nơi có một lô bao vừa gạo vừa cá khô, măng khô chất chồng khá cao. Ít nhất thì cũng có chướng ngại vật cản và nếu tụi nó vào thì một mạng phải đổi vài mạng. Tôi vừa thu người thì có tiếng đập cửa rầm rầm. Tim tôi đập liên hồi. Tôi bật chốt an toàn sẵn sàng. Phía bên ngoài có tiếng lè nhè:

– Có tiền mà. Không mua chịu đâu. Mở cửa đi.

Tôi cố định thần. Giọng nói lơ lớ rõ là của một người Stieng. Khi tiếng đập cửa ầm ĩ hơn thì có tiếng bà Hoa quát:

REPORT THIS AD

– Làm gì giờ này còn đòi rượu

– Có tiền mà. Có tiền mà

Cửa mở bà Hoa đi vào cùng với một người Stieng. Bà nhìn trong cái tù mù của ngọn đèn dầu chắc không thấy tôi, gọi lớn:

– Trung Uý, Trung Uý.

– Tôi đây

Thở phào, tôi từ từ đứng dậy, cũng may trời tối nên dù tôi có đỏ mặt chắc bà ta cũng không nhận ra.

– Thím Sáu nói nếu cần Trung Uý có thể ở bên đó nhưng không được rộng rãi lắm.

Người đàn ông đi mua rượu vai khoác khẩu carbine khiến tôi ngạc nhiên hỏi:

– Người này sao có súng?

Ông ta từ lúc thấy một ông Trung Uý mũ sắt áo giáp xuất hiện thì im hẳn, đứng nép vào một bên.

– Tui là Nhân Dân Tự Vệ.

Tự đẩu tự đâu, phong thái của tôi trở về, nói như quát:

– Nhân dân tự vệ đang giờ gác, sao đi mua rượu?

– Ông Hai, lạnh quá mà Ông Hai.

Đầu tôi tính toán rất nhanh. Thế này là được, là có phe ta, là có canh gác. Tôi hỏi:

– Trưởng Ấp ở đâu

– Tui không biết. Nó ngủ ở đâu có ai biết. Phải tìm Ông Hai ơi.

Tôi thấy khó mà ngủ ở nhà cái thím Sáu nào đó và hẳn là không thể ngồi đây đến sáng. Tôi nhìn đồng hồ, mới khoảng 7 giờ tối. Tôi quyết định, đòi trả tiền tô mì nhưng bà Hoa nhất định không lấy và trong cung cách bà có vẻ ngạc nhiên về phản ứng của tôi. Tôi bảo người lính Nhân Dân Tự Vệ:

– Anh dẫn tôi đi kiếm Trưởng Ấp.

Trời tối như thui khá lạnh và hình như sương đã xuống. Người lính Nhân Dân Tự Vệ áo bỏ ngoài quần, chân đi dép Nhật xem ra khá dễ bảo. Cái ấp nhỏ tí này chưa bao giờ lại có một ông Hai lừng lững tối trời còn đi tìm Trưởng Ấp. Anh ta dẫn tôi đi từ căn nhà sàn này đến căn nhà sàn khác, hỏi lung tung nhưng tông tích ông Trưởng Ấp mịt mù không thấy.

Cuối cùng, tôi hỏi anh ta:

– Tối nay anh gác ở đâu?

– Ông Hai, gác cho vui, gác ở đâu cũng vậy!

– Có ai gác chung không?

– Có chứ. Có chứ. Gác một mình buồn lắm.

Khi anh tôi dẫn tôi đến nơi gọi là vọng gác thì một ông Nhân Dân Tự Vệ khác cũng đã say mèm đang ngủ đong đưa trên võng. Khi lay được anh ta dậy, anh ta như ở trên trời rớt xuống và khi nhìn thấy một Trung Uý Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà thì anh ta ú ớ nói không ra tiếng. Tôi quan sát địa thế và ra lệnh:

– Tôi sẽ nằm ở đây. Anh này nằm ở đây. Anh kia nằm chỗ kia. Thay phiên nhau gác mỗi người hai tiếng.

Tôi phải nói rất chậm, và rành mạch lập đi lập lại nhiều lần họ mới hiểu. Tôi cũng biết rõ không thể tin tưởng ở họ nhưng yên bụng hơn vì dù sao tôi cũng có thêm hai cây carbine và nhất là với yếu tố bất ngờ, có du kích chắc tụi nó cũng không thể ngờ tôi đang có mặt ở bìa rừng như thế này để đối phó.

Tối hôm đó dù đã chia phiên cẩn thận nhưng chính là chỉ có ông Hai Dũng thức gác còn hai ông Nhân Dân Tự Vệ thì gật gù vừa gác độ mười phút là bắt đầu ngáy.

Tôi ngồi đó bó gối nhìn vào bóng đêm để nhớ những ngày xưa. Gọi là ngày xưa nhưng chỉ mới mấy tháng trước tôi còn ngủ trên giường nệm trắng giữa căn cứ của Lữ Đoàn Một Kỵ Binh Không Vận Hoa Kỳ với một rừng trực thăng đậu ngoài bãi cho đến khi cuộc Việt Hoá Chiến Tranh Việt Nam đi vào giai đoạn chót.

Tôi nhớ bỗng nhiên không còn những cuộc hành quân cóc nhảy nữa và trong số vài sĩ quan Việt Nam được biệt phái làm việc với Toán Mầu, tôi là người duy nhất được giữ lại để giúp Lữ Đoàn Kỵ Binh Hoa Kỳ để giải quyết số lính “đánh thuê”. Họ được trả lương khá hậu và được trả về đời sống dân sự. Một người lính trong đám khá trẻ nhưng gương mặt gân guốc đen đủi nói với tôi sau khi cầm một bó tiền của người Mỹ trao cho:

– Thấy mẹ rồi Trung Uý ơi. Em đăng vào Biệt Kích Mỹ vì đằng nào cũng đánh giặc nhưng đánh giặc với người Mỹ lương cao hơn, sướng hơn, cái gì cũng có. Nay em về chắc lại phải đi quân dịch, lại phải xuống Quang Trung

Tôi nhìn người lính trẻ không biết phải an ủi anh ta cách nào. Họ đăng vào những đơn vị do Mỹ thành lập. Tuy lương cao nhưng vẫn không có quân số, không có quân bạ, thẻ bài. Đối với Quốc Gia Việt Nam họ vẫn là dân sự – có nghĩa là nếu đi loạng quạng ngoài đường sẽ bị quân cảnh xét giấy, họ sẽ bị liệt vào thành phần trốn quân dịch, và chắc chắn họ sẽ bị hốt lên xe cây đưa xuống Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Cái bi thảm hơn nữa là những người lính có thẻ bài không bao giờ ưa những người đi lính cho Mỹ vì họ lãnh lương thấp hơn nhiều và đời sống cũng cơ cực hơn nhiều.

Toán Mầu được giải tán trong bối cảnh xuống thang chiến tranh và nỗ lực của Hoa Kỳ cố rút chân ra khỏi vũng lầy Việt Nam. Tôi không để ý gì lắm đến chính trị nhưng cũng lờ mờ hiểu rằng người Mỹ đã tìm đủ mọi cách để có mặt ở đây. Xa xôi nhất có lẽ nó bắt đầu từ thời Tổng Thống Kennedy với chương trình Tân Biên Cương. Ngay từ những năm sau hiệp định Genéve 1954, CIA đã nhảy xuống giúp người Mèo – người Hmong như tiếng gọi chính thức sau này – để đối phó với Lào Cộng. Đến bây giờ nhiều người Việt Nam vẫn nghĩ rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông em Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã bị giết chỉ vì chống đối việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam. Hẳn là lịch sử sau này sẽ có câu trả lời xác đáng hơn. Nhưng khi đã lậm sâu vào chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ lại bị buộc tay buộc chân vì chính trị của quốc gia họ.

Suốt cuộc đời tôi, tôi không bao giờ nghĩ người Mỹ như là một bọn “xâm lược” hay thực dân, đế quốc như đế quốc Pháp lo chiếm thuộc địa. Thế giới bây giờ không chấp nhận thuộc địa nữa. Nhưng tôi vẫn thấy cái gì không ổn trong việc người Mỹ xăn tay áo đảm đương cuộc chiến và nhất là buộc miền Nam Việt Nam phải đối phó với cuộc chiến theo quan điểm Hoa Kỳ.

Những suy nghĩ cá nhân này vân không có cách gì cản trở được guồng máy đang quay. Khi những tin tức về hoà đàm Paris, về Quân Sự Bốn Bên, về Trao Đổi Tù Binh tới tấp tràn ngập trên mặt báo chí thì những người lính như tôi vẫn phải hành quân, vẫn phải cầm súng canh gác. Khi người Mỹ đổ quân vào Việt Nam, báo chí có chữ mới “leo thang“. Khi người Mỹ rút ra khỏi Việt Nam thì có chữ “Việt Nam Hoá Chiến Tranh

Đang tham dự những cuộc hành quân với vũ khí hiện đại nhất, nay tôi lại bó gối trong một bìa rừng với hai ông lính Nhân Dân Tự Vệ và hai khẩu carbine cà tàng. Những đêm dù lạnh rồi cũng qua đi, và như một con rối không tự điều khiển được mình, tôi lao vào một cuộc sống khác bán khai nhưng ở một khía cạnh nào đó ghi đậm tình người khiến dù ngắn ngủi, khi nào nghĩ lại tôi cũng mỉm cười sung sướng.

Trước hết là cái tên Ấp Mới. Có lẽ trên toàn lãnh thổ Việt Nam có hàng trăm ấp có tên là Ấp Mới! Khái niệm quy dân lập ấp có từ lâu trong lịch sử Nam Tiến của người Việt và đến thời ông Diệm ông Nhu nó trở thành quốc sách Ấp Chiến Lược. Mục tiêu lớn nhất của quốc sách này là chính sách đãi đậu, lọc du kích và nằm vùng khỏi dân chúng, quy dân sống thành làng, thành ấp để dễ kiểm soát. Tôi không đủ trình độ để phán xét đúng sai và cũng không có dữ kiện tài liệu thống kê để biết kết quả của quốc sách Ấp Chiến Lược. Hình ảnh sâu đậm nhất nơi tôi là cảnh Tổng Thống Diệm đứng bên một hàng rào ấp được dựng bằng tre vót nhọn trong một cuốn phim thời sự. Thời tôi còn nhỏ mỗi lần đi xem chiếu bóng còn phải đứng lên chào cờ và suy tôn Tổng Thống, sau đó rạp còn chiếu một cuốn phim thời sự đen trắng của bộ thông tin trước khi chiếu tuồng chính. Tôi đã nhìn thấy cái hàng rào Ấp Chiến Lược trong hoàn cảnh đó.

Danh xưng Ấp Chiến Lược sau này không được dùng nữa có lẽ vì nó gợi nhớ đến thời Đệ Nhất Cộng Hoà, đến ông Nhu ông Diệm. Nhưng trên thực tế rất nhiều vùng, nhất là những vùng dân cư quá tản mát, chính quyền vẫn tìm cách qui tụ họ lại. Ấp Mới của Quận Bố Đức hẻo lánh là một thí dụ điển hình. Đa số 90% cư dân trong ấp là người Thượng Stieng. Họ nói tiếng Việt không sõi lắm và sau này tôi còn khám phá ngôn ngữ Stieng khá gần với tiếng Miên, có thể vì vùng này sát với biên giới Miên chăng.

Dân Stieng vẫn sống theo tập tục và bản năng cố cựu. Họ ở trong những căn nhà sàn, và khi chui vào đó mùi khói nồng nặc. Họ vẫn ủ giữa nhà một đống lửa âm ỉ khói bốc dầy đặc để xua muỗi và sưởi. Cái mùi đặc biệt này nó thấm sâu vào da thịt, vào hơi thở của họ đến nỗi bất cứ người Stieng nào cũng có mùi khen khét. Tôi chui rúc ở trong đó không lâu nhưng chính Dung đã bảo: “sao anh khét thế. Anh sắp thành người Thượng đến nơi!”

Quả tình nếu tôi sống ở đó lâu hơn nữa có khi tôi trở thành người Stieng thật cũng nên. Tôi yêu cái hồn nhiên mộc mạc của họ. Tôi yêu đầu óc giản dị, bản tính hiền hoà của họ.

Trong suốt hơn bốn tháng sống ở đó tôi chưa bao giờ chứng kiến họ đánh nhau, cãi nhau. Mọi tranh chấp đều được giải quyết rất nhanh và hoà hoãn. Khoảng một tuần sau khi trấn nhậm, tôi đã gom lại đầy đủ các ông chức sắc trong ấp. Họ ngơ ngác khi tôi giao công việc cho họ vì từ trước tới nay ông Trưởng Ấp hoàn toàn là một chức vụ hão, chẳng ăn nhậu quái gì đến đời sống của ông ta.

REPORT THIS AD

Khi tôi tập họp đám Nhân Dân Tự Vệ để kiểm kê thì đa số có súng nhưng đạn dược thì coi như không. Trên nguyên tắc mỗi ông Nhân Dân Tự Vệ được trang bị một khẩu carbine, thứ vũ khí phế thải của quân đội và khoảng gần 200 viên đạn. Những người lính bất đắc dĩ này thấy rằng săn bắn bằng cung tên cổ lổ quá không kiến hiệu bằng súng carbine. Do đó súng đạn là để đi săn nai, đi bắn chim, không phải để tự vệ, để chống Cộng.

Một phần vì buồn quá chẳng có gì để làm, phần vì tôi cũng rét, lỡ ấp bị tấn công mà các ông Nhân Dân Tự Vệ không có đạn, hoặc tệ hại hơn nữa trốn mất tiêu thì bản mạng của tôi cũng khó giữ nên tôi ra công huấn luyện cho họ.

Tôi liên lạc với đồn nghĩa quân và với Quận xin được một số đạn. Tôi cũng bỏ tiền túi ra mua thêm một số. Trong cái chợ lèo tèo họp hai ngày một lần ở ngã tư ấp, trong số hàng hoá trao đổi có đạn carbine. Có thể là của các ông lính nghĩa quân đem bán chăng, tôi không rõ nhưng quả là mua bao nhiêu cũng có!

Tôi kiểm tra súng đạn tối đa và bắt họ học một số các thế bắn, tập đi đều bước, chỉ cho họ cách canh gác, đổi phiên. Làm được những việc này không phải dễ. Họ như cóc bỏ dĩa, và lập luận rất ngây thơ, cho rằng cần gì phải tập nữa, họ biết bắn rồi mà. Nhìn những người Thương Stieng ngu ngơ tập cả buổi vẫn không thuộc những động tác cơ bản nhất, bỗng đâu tôi nhớ đến bộ phim bảy người võ sĩ của Nhật. Những người dân Stieng hiền lành có khác gì những người dân làng ở cái xó xỉnh nào đó của nước Nhật xa xưa? Và tôi thấy mình đang là một võ sĩ, một Samurai đang hành hiệp trượng nghĩa. Cái so sánh kỳ quặc này có phần xoa dịu tôi, có phần giảm đi cái ý tưởng bị đầy ải. Tôi nhớ rõ cái suy sụp nơi tôi khi được trả về cho tiểu khu Phước Long vào giai đoạn cuối của cuộc rút quân của Hoa Kỳ. Sự suy sụp nơi tôi chỉ là phản ảnh sự suy sụp toàn diện của một xã hội đã quá mệt mỏi vì chiến tranh. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu xem ra không đủ khả năng để đương đầu với áp lực từ mọi phía. Các phong trào đòi tự do dân chủ, các cuộc biểu tình phản chiến núp dưới những danh xưng kỳ quặc như Phong Trào Cải Thiện Chế Độ Lao Tù, các tiếng nói gào thét đòi diệt trừ tham nhũng, tất cả ào ào tấn công chính quyền. Phía người Mỹ thì tìm đủ mọi cách để ra đi êm thấm, ép cho bằng được các phe Việt Nam ngồi lại ở Paris. Dư luận ở Hoa Kỳ mỗi ngày một gay gắt hơn và cả thế giới có vẻ như bị chế độ Hà Nội che mắt, ủng hộ họ ra mặt.

Tôi trở lại tiểu khu Phước Long không có một nhiệm vụ dứt khoát nào, ra rồi lại vào Trung Tâm Hành Quân. Tôi như thứ phế thải, nhất là dưới con mắt của một số sĩ quan nơi đây. Tôi đã bon chen để được biệt phái sang Không Kỵ Hoa Kỳ. Tôi có gốc lớn chẳng ai dám động đến. Sau hơn hai tháng vất va vất vưởng, trong một lần về Sài Gòn, tôi ở lỳ luôn. Cả tháng trời tôi nằm khểnh ở nhà chú Trung hay sang nhà Dung. Tôi không ra phố. Tôi cũng không đọc báo hay nghe radio nữa. Đầu óc trống rỗng, tôi thấy mình suy sụp xuống đến tận cùng. Một hôm chú Trung về nghiêm mặt bảo tôi: “Dũng phải về đơn vị ngay. Họ vừa điện thoại cho chú hay là đã có giấy báo cáo Dũng đào ngũ.” Hình như chú Trung coi trọng tôi nên không hỏi han lý do tại sao tôi ở lỳ ở nhà. Đối với ông đó là chuyện riêng của tôi và tôi phải tự thu xếp. Thu xếp kiểu gì cũng được nhưng không thể đào ngũ. Dung cũng thấy rõ tôi thay đổi, gặng hỏi nhiều lần mà tôi không cách nào giải thích với người hôn thê về những suy nghĩ của mình.

Tôi từ Sài Gòn lết trở lại Phước Long. Giấy báo cáo đào ngũ đã ký. Trung Tá Minh là người ký nhưng chưa chuyển. Tôi lại dật dờ ở Phước Long cho đến một hôm thấy yết bảng cần một sĩ quan lo Nhân Dân Tự Vệ ở Quận Bố Đức, tôi thản nhiên ghi tên với tâm trạng “đi khuất vào một xó lại hay“. Đó là lý do tại sao tôi đóng vai hiệp sĩ – đúng ra là hiệp sĩ mù – nơi cái ấp hẻo lánh này.

Thế là tôi thành ông Hai nhưng ông Hai biết thân biết phận. Tôi không đeo lon lá. Tôi không ngủ đâu hai lần. Không ai biết tối tôi sẽ ngủ đâu. Tôi cố sống như một người Stieng chính hiệu vì biết chắc nếu có sự cớ nào, tôi chỉ còn trông nhờ vào họ. Trong cái nỗ lực đó, tôi chiếm được cảm tình của mọi người và đặc biệt nhất một bà mẹ có con gái rất xinh. Tên thật của nàng là Ychun nhưng tôi đặt tên nàng là Gái. Tôi coi bà cụ như một người thân thích và coi Gái như em. Người Stieng vẫn canh tác theo kiểu du canh. Họ ra ngoài rừng đốt một khoảnh. Đợi sau độ hai ba cơn mưa, họ bắt đầu trồng bắp. Người chồng đi trước cầm một cái sào nhỏ vót nhọn dâm xuống đất, người vợ đi sau bỏ một hai hạt bắp vào lỗ rồi lấp đất. Làm gì có luống. Làm gì có vụ xới đất bón phân. Họ cứ khơi khơi như vậy đợi. Vậy mà bắp cũng nảy mầm, cũng đơm bông kết trái, tất nhiên là không đều hạt nhưng vẫn là bắp, vẫn có thể luộc có thể nướng và ăn thì ngọt lịm.

Tôi đã đóng vai trò người đàn ông cầm cái sào chọc xuống đất và Gái cũng lom khom theo tôi bỏ hạt bắp. Tôi nghĩ giá mà không có súng đạn, không có chiến tranh, tôi đưa Dung về Ấp Mới sống đời sống của người Stieng có lẽ cũng vui.

Cái nghĩ viển vông đó hẳn là không tưởng và một hôm tôi nghe xì xào trong đám dân Stieng. Điều tra mãi rồi tôi cũng tìm ra sự việc. Một người Stieng khi đi săn đã thấy Việt Cộng chôn súng đạn. Tôi hỏi kỹ chỉ được biết đạn to lắm và nhiều lắm.

Suy nghĩ kỹ, tôi liên lạc với Quận xin mở cuộc hành quân nhưng không được vì tình hình không thích hợp. Đó là cách nói văn vẻ, sự thực thì quân số của Quận bị kẹt tứ phía. Tôi điều đình mãi cuối cùng mới xin được một trung đội nghĩa quân để yểm trợ.

Lâu lắm kể từ ngày rời đại đội Quyết Tử nay tôi mới lại lui thui soạn thảo dự trù và điều khiển một cuộc “hành quân” Tôi gom được gần ba chục ông Nhân Dân Tự Vệ, kiểm tra súng ống tử tế. Tôi có được một trung đội Nghĩa Quân do một ông Trung Sĩ cầm đầu, quân số 21 người. Tôi có được một máy PRC25, một xa xỉ phẩm đối với tôi.

Cứ theo lời nói của người dàn ông thì Việt Cộng chôn súng đạn cách ấp sáu cây số về phía Đông Bắc. Tôi xuất quân từ tờ mờ sáng.

Nhìn cung cách của các ông Stieng và trông bộ dạng lếch thếch của đám Nghĩa Quân tôi rùng mình thấy tôi liều lĩnh quá đáng. Nếu đụng thì chắc chắn là lãnh đủ, nhất là qua lời khai của người đàn ông thì hầm chôn vũ khí này phải quan trọng, vì có nhiều súng đạn lớn.

Trót thì phải trét, tôi cũng chia lực lượng thành ba toán và yêu cầu ông trung Sĩ đi đoạn hậu. Sau khoảng ba tiếng lội rừng, người đàn ông bảo hầm ở quanh đây. Ông ta nhớ là có nhìn thấy cái cây – và ông ta chỉ một cây rừng có trái như trái măng cụt. Loanh quanh một hồi không biết hầm với hố ở đâu, tôi nghĩ là người đàn ông này nhớ lộn chỗ. Tôi cho dừng quân nghỉ ngơi. Và bỗng đâu từ rừng các bà vợ của các ông Nhân Dân Tự Vệ túa ra. Họ lễ mễ đem thức ăn trưa cho chồng! Tôi phát hoảng. Làm sao họ đi theo mà tôi không biết!

Họ tíu tít cười nó chỉ trỏ y như một cuộc đi cắm trại ngoài trời. Tôi không biết nói năng gì và cũng đành ngồi dựa gốc cây nhâm nhi mớ cơm bọc theo. Đúng lúc đó có tiếng ý ới! Vô tình một người vợ đã đạp trúng một mảng cỏ trượt chân và lộ ra nắp hầm.

Tôi không bao giờ ngờ mọi sự lại diễn ra như vậy. Chiến lợi phẩm mới là điều đáng nói. Tụi tôi lôi lên được gần một trăm quả đạn súng cối 81 và 82 ly. Đây có thể là hầm đạn được tồn trữ để pháo vào Quận Bố Đức. Tôi biết ngay phải làm gì, lên máy PRC báo về Quận về “thành quả rực rỡ” của cuộc hành quân không tiền khoáng hậu này. Điều ngạc nhiên hơn nữa là chỉ mười phút sau chính Trung Tá Quận trưởng Trần Đình Minh lên máy nói chuyện với tôi.

Chúng tôi lễ mễ khuân vác chiến lợi phẩm về ấp và khi về đến nơi đã thấy Trung Tá Minh đứng đợi sẵn.

Hai ngày hôm sau một buổi lễ ăn mừng chiến thắng được tổ chức ngay tại ấp với sự chủ toạ của đích thân ông Quận trưởng. Tất cả Nhân Dân Tự Vệ đều được tuyên dương công trạng và gắn huy chương hẳn hòi. Đang lúc mọi người hứng khởi thì từ tim tôi nhói lên niềm sợ hãi vô bờ khi nhớ đến ấp Dak Sun. Cái tiếng khóc u ơ không hẳn thành tiếng từ sâu thẳm trong trí nhớ nay vang lên rõ mồn một.

Giống như Ấp Mới, Dak Sun là một ấp qui tụ người Thượng ở sát biên giới Miên, chỉ có điều vị trí ấp nằm ngay trục lộ chuyển quân của bộ đội Bắc Việt. Vị trí chiến thuật của ấp khiến Tiểu khu Phước Long cho tăng cường hẳn hai trung đội đóng chốt ngay sát ấp. Những người Thượng ở đây tuy ban ngày đi vào rừng tìm măng, săn thú hay làm rẫy nhưng tối đến họ ở trong ấp có hàng rào và canh phòng khá cẩn mật. Chính từ tin tức của những người dân Dak Sun về những cuộc di quân của bộ đội Bắc Việt đã khiến có lẽ cả một trung đoàn Cộng Sản bị B52, không một mạng sống sót.

Để nhổ cái chốt Dak Sun và có thể để trả thù và đồng thời muốn dóng lên một lời doạ dẫm với những người Thượng, bộ đội Bắc Việt đã tung một cuộc tấn công dữ dội. Hai tiểu đoàn chính qui tấn công ấp, đè bẹp đám dăm chục nghĩa quân trong đồn và san bằng Dak Sun. Chữ san bằng chưa đủ để diễn cảnh tượng của cái ấp nhỏ bé này. Khi tôi và Đại Uý Cảnh nhảy xuống ấp vào quãng tờ mờ sáng, ấp không còn một căn nhà. Tất cả bị đốt cháy rụi. Bộ độ Bắc Việt đã dùng súng phun lửa xịt vào các căn hầm trú ẩn của thường dân trong ấp, quăng lựu đạn xuống. Ấp trở thành lò quay, mùi thịt nướng – mùi tử khí bốc lên lợm giọng. Tôi nhớ mãi cảnh một người đàn bà đầu tóc rũ rượi, ôm đứa con đã chết, u ơ khóc không thành tiếng bên xác người chồng bị cháy thành than chỉ còn một cái đùi nứt nẻ. Tiếng khóc, không hẳn thành tiếng, âm thanh như đứt từng đoạn xoáy vào người nghe trong cái thê lương của chiến địa, của mùi chết chóc, của mùi súng đạn. Tôi đã phải quay mặt đi trước người thiếu phụ thân mình lắc lư như người lên đồng, miệng thì kêu lên những âm hưởng làm người nghe lạnh xương sống.

Tôi không chia sẻ được niềm lo sợ này với ai nên lẳng lặng lo tự bố trí. Tôi dặn đi dặn lại những người dân ở đây nếu có chuyện gì họ phải đối phó như thế nào. Tôi lôi cả đám Nhân Dân Tự Vệ buộc họ phải tản hẳn ra tứ phía quanh ấp mỗi đêm, và bố trí khá xa.

Công việc sắp đặt không dễ dàng vì ngôn ngữ. Tôi phải nói rất giản dị và gần như nói với từng gia đình trong ấp. Họ nghe tai này lọt sang tai khác bởi họ không thấy cái viễn ảnh tôi thấy. Suốt hơn nửa tháng hễ ngủ là tôi lại thấy Ấp Mới trở thành lò thiêu.

Trung Tá Minh không có “khách sáo” với tôi như lúc đầu. Khi xuống chủ toạ lễ ăn mừng chiến thắng, sau khi gắn huy chương cho những anh hùng Ấp Mới, ông thân mật vỗ vai tôi bảo:

– Moa không ngờ Toa làm được cú này. Cái ấp trông khác hẳn so với ngày xưa.

Khi tôi bày tỏ nỗi lo sợ Việt Cộng trả thù, đưa đơn vị lớn tận diệt Ấp Mới, ông Quận gật gù:

– Toa cần cái gì cứ nói. Moa sẽ gởi cho một cái PRC để liên lạc.

Ông giữ lời cho tôi một người lính truyền tin và một cái PRC cà rỉ cũng đủ để tôi thêm vững bụng. Điều đáng quí hơn nữa là ông Trung Tá còn bảo:

– Toa ở ấp hơn ba tháng rồi, thôi để Moa ký giấy cho Toa về Sài Gòn vài bữa.

Cuộc đời tôi lại đổi một lần nữa vì cái giấy phép. Khi đang chờ trực thăng ở Phước Long, tôi gặp Đại Uý – nay là Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái. Ông cười ngất khi thấy tôi đầu tóc để chấm vai, râu ria không cạo, và hỏi:

– Sao mà như người rừng vậy? Giờ cậu ở đâu?

– Đúng là người rừng rồi ông thầy ơi. Tôi coi cái ấp ở Bố Đức.

– Chỗ ông Trung Tá Minh mới về phải không? Sao lại chui vào cái chỗ tối tăm thế?

Nếu tôi có thể trả lời được câu hỏi này thì dễ chịu biết chừng nào? Một tên Trung Uý như tôi thì làm gì có quyền tự định đoạt vận mệnh của mình trong chiến tranh? Tôi cười nói:

– Ông thầy, trên xỉa đâu mình đi đó, đâu có quyền chọn lựa.

– Hay cậu về với tôi. Đồng Xoài ít ra cũng còn có tí ánh sáng văn minh.

Không ngờ Thiếu Tá Khoái giữ lời thật. Ông đã điện thoại thẳng cho Trung Tá Minh để điều đình và sau đó xin với tiểu khu để tôi về Đôn Luân coi ban Ba .

Khi trở lại Bố Đức, ông Quận gật gù bảo tôi, giọng đầy thân mật:

– Bên Đôn Luân xin Toa. Chính ông Khoái đã gọi cho Moa. Moa biết Toa là người có khả năng, bỏ đi cũng tiếc nhưng ông Khoái nằng nặc đòi Toa cho bằng được

Từ giã Gái và bà mẹ, từ giã Ấp Mới và những người Stieng hiền lành một mạc sau hơn bốn tháng chung sống, tôi lại khăn gói quả mướp đi trấn nhậm ở một chỗ khác trong tiểu khu Phước Long.

Cái tình của tôi với Ấp Mới không phải chấm dứt khi tôi rời đó. Khoảng bốn tháng sau, khi tôi đang lo ban Ba Đồng Soài thì người hạ sĩ dưới quyền cho hay có hai phụ nữ Stieng muốn gặp Ông Hai Dũng.

Gái và bà mẹ đứng ở sân cờ chờ tôi với một gùi đầy bắp, những trái bắp đã già, được cột lại từng chùm. Hai mẹ con gái đã lặn lội đi bộ băng rừng để đem mấy trái bắp đến tận Đôn Luân.

– Bắp của ông Hai trồng phải đem trả cho ông Hai.

Tôi lặng người cảm động trước cái suy nghĩ đơn sơ nhưng đầy tình nghĩa này. Cả chi khu Đồng Xoài đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy tôi long trọng dẫn hai mẹ con người Stieng đi ăn hủ tíu và sau đó mua tùm lum tà la đồ chất đầy cái gùi để họ đem về Ấp Mới làm quà.

Tôi tiễn mẹ con Gái về lại núi rừng của họ, lòng chùng xuống, nghĩ giá mà mọi người cùng đối xử với nhau như hai mẹ con Gái, Chắc tôi không phải cầm súng đánh nhau với ai cả.

No comments: