ĐỖ LỆNH DŨNG - CHƯƠNG 3

 Lê Thiệp

                                                Chương 3

 

CHƯƠNG 3

 

Cuộc Tổng Tấn Công Mậu Thân thay đổi toàn bộ cục diện cuộc chiến Việt Nam và đẩy đời tôi vào một hướng khác. Lúc đó tôi đang học luật năm thứ ba , dù chiến tranh mỗi lúc một khốc liệt , nhưng đó là chuyện xảy ra đâu đó ngoài Trung, trên Cao Nguyên hay dưới đồng bằng Cửu Long. Trường Luật ở góc đường Duy Tân cây dài bóng mát vẫn êm đềm trôi với Dạ Vũ Tất Niên và các “Ban PhaMi” được tổ chức liên tu bất tận ngay từ lễ Giáng Sinh.

Thật ra thì cũng còn có các sinh hoạt mang mầu sắc khác đầy đấu tranh và chính trị, nhất là trong các cuộc bầu cử Ban Đại Diện Sinh Viên. Thỉnh thoảng tôi cũng vớ được tờ truyền đơn. Thường thì tôi chỉ liếc mắt đọc sơ. Cuộc đời còn có cái đáng để ý hơn ba cái vụ Cải Thiện Chế Độ Lao Tù, Chuồng Cọp hay những cuộc biểu tình phản chiến ở tận Đông Kinh , hoặc đại học Kent, Berkley. Với tôi đời là Dung, là những tháng dung dăng dung dẻ ở Catinat.

Tối Giao Thừa ngồi đánh xì dách với lũ em đến quá Giao Thừa. Dì nấu một nồi bún thang tuyệt vời. Tiếng pháo Giao Thừa từ phía ngoài vọng vào khiến bà bảo: “Chỉ phí tiền. Giặc giã thế này có gì vui mà nêu với pháo”. Dù trước đó có một thoáng dư luận đồn đại “Tết này sẽ ăn bánh chưng chấm máu” nhưng chẳng ai để tâm. Lời đồn lúc nào chẳng có và lúc nào cũng là chuyện kinh hoàng. Thiên hạ vẫn tíu tít lo bánh mứt, đi chợ mua hoa đào Đà Lạt, sang hơn nữa mua hoa đào Hồng Kông, đi lựa mai, đi kén những bó glaïeul thật đỏ cho nó hên.

Dân miền Nam ăn bánh chưng chấm máu thật.

Tiếng pháo Giao Thừa không chỉ là M16 và AK47. Cuộc Tổng Tấn Công Mậu Thân của Hà Nội cứ theo sử sách tôi đọc là một sai lầm của ông Hồ Chí Minh. Sai lầm của ông Hồ thì nhiều nhưng lần này nó ảnh hưởng trực tiếp tới tôi. Tổng động viên. Tôi nhận được giấy đi trình diện để vào Thủ Đức.

Tôi còn nhớ gì chăng? Lũ sinh viên chúng tôi lúc đó vẫn tìm cách để tóc như hippy, như những anh chàng phản chiến no war but love. Tấm poster tôi treo ở đầu giường là ảnh hai người nam nữ ôm nhau, chân xõa ra trong một cái vòng tròn, biểu tương cho phong trào chống chiến tranh.

Bỗng nhiên chúng tôi được phát quân trang quân dụng , nhét đầy một cái sắc nhà binh lớn – sắc-ma-ranh – và cũng lũ lượt chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế đẩu để cắt tóc. Đúng ra là để hớt trọc. Cái tông đơ cùn nhai không đứt khiến đầu chúng tôi lởm chởm như bờ cào. Các ông Huynh Trưởng lúc nào cũng hét, hò luôn mồm “Huynh Trưởng, Đàn Em” lôi lũ tôi ra chạy chào Vũ Đình Trường. Cả đời sinh viên dù có bơi lội và khá khoẻ, tôi vẫn không quên cảnh vừa ôm cái sắc đủ thứ quân trang lỉnh kỉnh, vừa chạy trong cái sân trường Thủ Đức có tên nhà binh là Vũ Đình Trường. Có lúc tôi đánh rơi, cái sắc tung ra khiến quần áo nhà binh vãi tùm lum. Ông Huynh Trưởng Alpha cúi xuống sỉ vả hò hét inh ỏi, bắt tôi hít đất.

Tôi chỉ nhớ có thế, bởi đầu óc của tôi chưa giúp tôi hội nhập vào đời sống quân trường. Hễ lỉnh được là tôi lỉnh. Những buổi tập bắn, tập di hành, học ngoài bãi là những lúc tôi ngủ gà ngủ gật. Tôi còn nhớ một vị Đại Úy Huấn Luyện Viên môn tác xạ đã mắng chúng tôi không biết lợi dụng cơ hội này để trau dồi “nghề nghiệp”. Ông ta bảo để huấn luyện một sĩ quan, chính phủ phải tốn hơn một triệu đồng! Điều mà ông quên không nói là chúng tôi bị đi lính, không phải đi lính tình nguyện, lính nhà nghề, chọn binh nghiệp như một lối thoát, như một đường thăng tiến.

Có lẽ vì nhu cầu chiến trường, tôi nhớ khóa tôi tốt nghiệp toàn bộ không ai đi Trung Sĩ. Nhưng cũng thi cử đàng hoàng và vì vậy có thứ tự ra trường. Những người đậu cao, hoặc cao lớn khoẻ mạnh đẹp trai được nhận vào những đơn vị ưu tú của quân đội như Biệt Kích, Dù, Thủy Quân Lục Chiến, hoặc cóquyền chọn những đơn vị phè, gần Sài Gòn. Tôi đậu thấp và khi bắt thăm thì giấy đề sư đoàn 23 đồn trú ở Ban Mê Thuột. Trời đất như sụp đổ. Từ Ban Mê Thuột về Sài Gòn làm sao được? Làm sao gặp Dung? Tôi hỏi người này người kia xem có ai muốn chuyển hoán chăng? Đâu cũng được, đơn vị nào cũng xong miễn sao gần Sài gòn. Một ông có gia đình ở Ban Mê Thuột bằng lòng hoán chuyển. Ông ta đậu cũng thấp cỡ tôi và bố được tiểu Khu Phước Long. Âu cũng là cái duyên, cuộc đời lính tráng của tôi và đất Phước Long trở nên mật thiết chỉ vì tôi nghĩ Phước Long ít ra cũng gần Sài gòn hơn Ban Mê Thuột. Tỉnh Trưởng Phước Long, Trung Tá Huy bắt phải lên cho ông xem mặt. Ông là một sĩ quan liêm khiết, yêu quân đội và đầy khả năng. Khi trình diện ông, Trung Tá Huy nhìn tôi rồi bảo:

– Những gì Chuẩn Úy học được ở Thủ Đức chỉ là căn bản. Quân đội là một trường học mênh mông, Chuẩn Úy phải mở to mắt ra mà nhìn. Những người như Chuẩn Úy chỉ là những người lính bất đắc dĩ nhưng khi đất nước cần thì chúng ta phải chấp nhận. Luật lệ ở tiểu khu do tôi chỉ huy không có vụ phè, vụ con ông cháu cha. Ra trường về đây Chuẩn Úy có sáu tháng thực tập, ba tháng ở Trung Tâm Hành Quân và ba tháng ở đơn vị tác chiến. Sáu tháng sau Chuẩn Úy trở lại đây trình diện tôi để nhận nhiệm sở chính thức.

Tôi không bao giờ quên vị Trung Tá khả kính này và những lời ôn tồn của ông. Tôi được cử xuống học nghề lính thứ thiệt ở Trung Tâm Hành Quân với Đại Úy Lê Tán Vậy. Cái kiến thức sơ đẳng của Trường Bộ Binh Thủ Đức không ăn nhập gì với thực tế chiến trường. Tôi phải học cách đọc lệnh hành quân, học liên lạc truyền tin, học nhìn phóng đồ, chấm tọa độ, học về tiếp liệu. Đại Úy Vậy là một sĩ quan hết lòng tận tụy chỉ dạy. Tôi vẫn nghĩ nếu tất cả như Trung tá Huy và Đại Úy Vậy, có lẽ miền Nam còn đứng vững. Được cái tôi thích nghi với hoàn cảnh rất mau và cũng do tính tò mò, ưa học hỏi, tôi đã có một cái nhìn khác về quân đội, về lính tráng. Ít ra là chiến tranh không phải là chuyện cà dỡn mà là chính mạng sống của con người.

Ba tháng ở TTHQ lúc nào tôi cũng y phục chỉnh tề và khi nhận được sự vụ lệnh thực tập giai đoạn hai với một tiểu đoàn Biệt Động Quân tăng phái, tôi vẫn mửng cũ, trong suy nghĩ đã là sĩ quan thì lúc nào cũng phải gương mẫu.

Ngay sau ngày trình diện vị tiểu đoàn trưởng, sáng hôm sau tôi ba lô súng đạn tham dự một cuộc hành quân tảo thanh. Lệnh rõ ràng là phải chuẩn bị cho sáu ngày nên tôi ra phi trường với một ba lô căng phồng nặng trĩu gồm trang bị như xẻng đào hố cá nhân, gạo sấy, bi đông nước, mũ sắt bọc lưới ngụy trang và nhất là quần áo chỉnh tề, ủi hồ nếp phẳng lì.

Khi trèo lên xe jeep để ra ngoài bãi đáp chia toán trực thăng bốc, người tài xế nhìn tôi tủm tỉm cười nhưng không nói gì. Đến khi nhìn thấy những người lính biệt động quân nằm ngồi la liệt bên cạnh những chiếc trực thăng, tôi ngượng chín cả người. Họ quần áo tơi tả, mũ sắt tróc sơn loang lổ, đôi khi còn đen sì vì có lẽ còn được dùng để nấu nướng. Trông họ phong sương, vết tích chiến trận còn hiện rõ nơi đôi giầy vẹt gót, bẩn thỉu nheo nhếch, nơi những chiếc ba lô sờn rách và nhất là những gương mặt đen đúa, khắc khổ. Họ nhìn ông Chuẩn Úy hộp, giày láng bóng, mũ sắt mới lãnh trong kho và cả cái giây ATB trông cũng rất điệu với khẩu Colt xệ xuống và ai nấy đều cười.

Nhưng rất nhanh tôi thích nghi với hoàn cảnh. Lần đầu đi hành quân tôi chỉ đem theo có một bi đông nước và lúc đổ nước vào gạo sấy thì mất gần nửa bình. Mới hơn nửa ngày di hành, tôi không còn một giọt nước, khát khô cổ nhưng không đủ can đảm xin ai. Ông thượng sĩ già hình như đã nhiều kinh nghiệm với cảnh lính mới tò te, đã đưa cho tôi một bi đông đầy nước và dặn:

– Chuẩn Úy đừng lo đói. Cái khát mới đáng sợ.

Đại Úy Khoái lúc đó là Đại Đội Trưởng sau cuộc hành quân vỗ vai tôi:

– Sĩ quan đi hành quân không cần đem xẻng theo.

Ngay lúc đó tôi nghĩ có lẽ đã là sĩ quan thì không có quyền trốn tránh trong cái hố cá nhân mà phải hiên ngang đứng trên mặt đất. Sau này tôi không còn ngây thơ như vậy nữa.

Biệt Động Quân là một trong những binh chủng thiện chiến, nhưng như lời của Đại Úy Khoái “chuyên môn làm con nuôi, con ghẻ“. Khác với Dù và TQLC, đa số các tiểu đoàn Biệt Động Quân là những đơn vị tăng phái, có nghĩa là chịu sự điều động của địa phương. Trong hoàn cảnh đó, BĐQ thường là đơn vị chịu nhiều lửa đạn nhất, nơi nào găng, chốn nào hiểm là địa phương gọi tới các đơn vị tăng phái mà BĐQ luôn luôn đứng hàng đầu. Do đó chỉ ba tháng, tôi đã trở thành một người lính thứ thiệt, lính trận mạc, hành quân không ngơi nghỉ, đụng trận liên miên, đã nghe súng địch, đã thấy kẻ chết người bị thương. Tôi thực sự đối mặt với chiến tranh. Tôi không còn là ông Chuẩn Úy mặt búng ra sữa, quần áo hồ ủi thẳng nếp nữa. Có một lần thiếu quần, tôi chơi luôn cái quần Jean đi hành quân. Sĩ quan Tiểu Đoàn Trưởng gọi tôi lên gật gù:

– Cậu chơi ngon hơn cả tôi. Vừa ngo ngoe ra trường mà dám mặc cả quần Jean đi hành quân, may là cậu ở BĐQ tụi tôi. Nhưng từ nay nhớ mặc đồ lính cho nó tử tế, lần này tôi tha.

Sau kinh nghiệm đó, tôi chỉ mặc Jean khi đi chơi phố hay về Sài gòn. Suốt ba tháng lặn lội với BĐQ chắc tôi phải khác lắm vì kỳ phép đầu tiên, Dung nhìn tôi nheo mũi:

– Anh gầy quá, mà lại đen nữa.

Khi ôm tôi, nàng giữ tôi rất lâu trong vòng tay rồi nhẹ nhàng bảo:

– Người anh khét quá.

– Ê, đừng chê lính chứ. Anh tắm xà phòng Camay đàng hoàng.

– Không phải hôi mà khét.

Tôi im lặng. Từ một cậu sinh viên công tử không để ý gì ngoài chuyện học hành, tình ái; bỗng chỉ chưa quá một năm, tôi thay đổi đến nỗi người vợ tương lai ngửi thấy cái thay đổi đó, cái đổi từ trong da trong thịt, trong hơi thở. Tôi rùng mình. Tôi có còn là tôi chăng?

Suốt đời lính, tôi nghĩ đến cung cách đối xử của Trung Tá Huy đối với các tân sĩ quan. Nếu tôi bon chen về được Tổng Tham Mưu hoặc Bộ Quốc Phòng, chắc chắn tôi sẽ không khét và cũng có thể tôi nhìn quân đội dưới một nhãn quan khác. Nhưng tôi không có duyên làm việc dưới trướng Trung Tá Huy. Ngay ngày rời tiểu đoàn BĐQ về lại tiểu khu, biến cố xảy ra. Đặc công Việt Cộng không hiểu bằng cách nào đã vào tận giữa tỉnh đội đột kích tư dinh Trung Tá Tỉnh Trưởng. Đêm xảy ra trận đột kích, ông không ở nhà mà lo họp hành quân nên có đến sáu, bảy nghĩa quân thiệt mạng trong vụ này. Bộ Quốc Phòng cử đoàn thanh tra xuống điều tra sự việc. Trung Tá Huy nhận hoàn toàn trách nhiệm, không hề đem đàn em ra làm bung xung. Ông tuyên bố:

– Có gì mà điều tra. Việt cộng muốn hạ tôi nên mới đem một toán đặc công đông như vậy đánh vào chỗ tôi ở. Tụi nó chết gấp đôi chưa đủ trả lời hay sao mà phải điều tra.

Ngay ngày hôm sau có lệnh Trung Tá Nguyễn Dương Huy về trình diện Bộ Tổng Tham Mưu và ông mất ghế Tỉnh Trưởng. Tôi còn nhớ Đại Úy Vậy ngậm ngùi nói với tôi:

– Trung Tá Huy là người giỏi, tư cách, chính nhờ ông mà Phước Long càng ngày càng vững. Nhưng giỏi và tư cách chưa đủ. Chú mày mới vào lính nhưng từ từ sẽ hiểu.

Đại Úy Vậy giữ tôi lại làm việc với ông ở trung tâm Hành Quân. Chỉ sau vài ngày tôi ngứa chân ngứa tay, nhớ những ngày ở với Biệt Động Quân. Nay tôi lại quần áo tenue ngon lành, giày bóng láng sáng sáng họp thuyết trình hành quân. Đứng trên bục, tay cầm cây gậy sắt gỡ ra từ máy truyền tin tôi trình bầy cho cỡ gần hơn hai chục sĩ quan cao cấp trong tiểu khu về tình hình lãnh thổ trong ngày.

Mới đầu chưa quen tôi còn phải mò mẫm, sửa soạn đâu ra đấy, từ vị trí của các đơn vị ta cho đến khả năng tấn công của địch, từ những tin tức tình báo phối hợp cho đến khả năng yểm trợ của quân đoàn…. Nhưng rồi khi đã nắm vững , cuộc thuyết trình mỗi sáng trở nên nhàm chán. Đâu được khoảng ba tháng , tôi được vị tỉnh trưởng kế nhiệm gọi lên trình diện Đại Tá Lưu Yểm bảo tôi:

– Cậu lên đây làm sĩ quan tùy viên cho tôi. Ông Trung nhắc, tôi mới nhớ là đã gặp cậu ở nhà ông Trung nhiều lần. Lên đây với tôi may ra đời cậu mới khá.

Đại Tá Yểm vẫn hay ghé nhà chú Hà Bỉnh Trung, thỉnh thoảng vẫn xoa vài tẩy mạt chược. Tôi gặp ông đều đều nhưng vẫn giữ lễ và không hề nhắc đến chuyện này. Khi nghe Đại Tá Yểm muốn tôi về làm tùy viên, lòng tôi chết điếng nhưng không thể từ chối. Khi về gặp lại chú, tôi nhăn nhó vì tưởng ông gởi gấm tôi, nhưng chú bảo:

– Đâu có gởi gấm gì. Thấy ông về làm tỉnh trưởng thì vui miệng nhắc đến Dũng vậy thôi. Đi lính để đánh giặc gửi gấm để làm gì.

Gửi hay không, bỗng tôi trở thành cái bóng của Đại Tá Tỉnh Trưởng, đi đâu cũng ôm kè kè một cái samsonite tiền. Tiền ở đâu mà nhiều thế? Thường trong samsoneite tiền được sắp sẵn thành ba cọc, 25.000, 50.000 và 10.000 tùy viên và tùy phái khác nhau chỉ một chữ nhưng trên một bình diện nào đó chẳng khác gì nhau. Tôi trở thành đầu sai lo những việc hết sức lỉnh kỉnh từ những chuyện như lo sắp xếp tiệc tùng khoản đãi , khách cỡ nào thì đặt đồ ăn ở đâu, rượu, cà phê, thuốc lá như thế nào.

Đôi khi cần biếu xén một nhân vật nào đó , tôi phải lo “nghiên cứu đối tượng” để xem món cần đưa là gì. Có lần tôi phải lo xoay xở để tìm được một con nai bao tử đem ngâm rượu thuốc làm quà cho một ông tướng trên quân đoàn vì nghe đâu ông hơi yếu. Tôi phải sắp xếp lộ trình cho Đại Tá, gọi phi cơ, lo xe đưa đón và chi tiền. Chỉ độ hai tuần là tôi đã hiểu là phải chi ra sao. Nếu là phi cơ trực thăng thì sau chuyến bay tôi móc cọc lớn nhất ra để phi hành đoàn cà phê cà pháo. Nếu vừa xuống phi trường để họp với quân đoàn mà có cả một công voa quân cảnh, súng ống võ trang đầy người hú còi dẫn đường, tôi móc cọc thứ nhì. Nếu chỉ là những giao tế lăng nhăng tôi móc cọc thứ ba. Nghệ thuật của chi tiền là nhã nhặn, kín đáo và luôn luôn phải nhấn mạnh rõ đây là chút gọi là để anh em lai rai của Đại Tá gửi.

Đại Tá Yểm đi tới đâu cũng được gọi là Thẩm Quyền, là Đại Bàng và thân mật hơn “Ông Thầy” luôn tiền hô hậu ủng sao cho đẹp vì biết thế nào cũng có tí đỉnh.

Tôi nhăn nhó nhưng không biết giải thích với ai. Cái chức tùy viên thơm thế còn muốn gì nữa? Nhiều người cầu cạnh, nhờ vả tôi. Những vụ như vậy đẩy tôi vào khó xử. Một ông ba Tàu có con đi lính đến nhờ tôi xin cho cậu công tử về làm việc ở dinh ông Tỉnh, đưa tôi một bó tiền. Một ông khác muốn mở trại cưa cũng đến nạp nhờ tôi nói với Đại Tá một tiếng. Tôi được về Sài Gòn đều đều nhưng không có thì giờ với Dung. Gặp độ giữa một hai tiếng các cuộc họp của Đại Tá Yểm, tôi lại tất tưởi chạy vào Quân Vụ Thị Trấn hay ra phi trường Tân Sơn Nhất. Dung rất tinh, hỏi:

– Bộ anh không thích Đại tá Yểm sao?

– Ồ Không. Đại Tá Yểm rộng rãi tiền bạc và rất dễ chịu. Nhưng cái chức tùy viên chẳng ra ngô ra khoai gì, đúng ra là tùy phái cao cấp.

Dung im lặng ngẫm nghĩ:

– Em thấy dạo này đánh nhau dữ quá. Anh ở đó với Đại Tá Yểm yên thân hơn. Em không muốn làm người yêu của tử sĩ.

Đây cũng là điều lạ, chỉ đi lính bất đắc dĩ, tôi không bao giờ nghĩ chính mình sẽ chết dù xung quanh mình chết chóc xảy ra hàng ngày. Khi làm ở TTHQ, mạng người là những con số. Ta tám binh sĩ hi sinh, sáu bị thương, địch dể lại bốn xác, và nhiều vết máu. Tối qua địch pháo hai hỏa tiễn 122 ly vào vùng lân cận Quận Bố Đức khiến sáu người dân thiệt mạng. Ngôn từ chết chóc cũng được phân biệt rõ, ta thì hi sinh, địch thì bỏ xác, và thường dân thì thiệt mạng. Ngay cả khi hành quân với Đại Đội của Đại Úy Khoái, tôi cũng thấy chết chóc dưới nhiều hình dạng khác nhau. Nhưng có lẽ quan niệm chiến tranh , giặc giã thì phải có thương vong, chết chóc khiến tôi chấp nhận cái chết như lý đương nhiên. Nhưng nếu như chính tôi chết thì sao? Tại sao tôi không nghĩ đến?

Tôi ngây người trước lời nói của Dung rồi giả lả:

– Yên trí, ông thầy tử vi nói anh sống đến 80 tuổi lận. Chết khó lắm Dung ơi.

– Em sợ.

– Anh cũng sợ. Nhưng lính tráng tụi anh nói với nhau “Trời kêu ai nấy dạ”. Trời quên tên anh lâu rồi.

Bản tính tôi ghét cái gì nhàm chán và những thúc buộc của chức tùy viên khiến tôi tìm mọi cách thoát ra. Khi thấy đại đôi Quyết Tử cần một sĩ quan, tôi đăng ngay. Đại Tá Yểm khi thấy đơn của tôi, nhìn tôi ngạc nhiên:

– Bộ cậu chê tôi à? Cậu có điên không? Muốn tiến thân hay muốn tìm chỗ tăm tối? Rồi tôi ăn nói với ông Trung ra làm sao?

Tôi nhũn nhặn giải thích rằng:

– Chú Trung sẽ không trách Đại Tá và bản tính ham vui nên tôi muốn ra đơn vị tác chiến.

Tôi kỳ kèo nhiều lần nhiều đến nỗi Đại Tá Yểm bực mình ký cho tôi về Đại Đội Quyết tử, về với Đại Úy Dương Thắng Cảnh, một sĩ quan đẹp trai nhất nước hơn cả tài tử ciné.

Khi ở tù ngoài Bắc, tôi vẫn hay thủ thỉ với thẩm phán già nằm cạnh. Ông đưa ra nhận xét là quân đội VNCH được tổ chức rườm rà quá, nhiều binh chủng khác nhau với các bộ chỉ huy khác nhau và trang bị quân phục cũng khác nhau. Chính vì thế không có được sự phối hợp toàn diện, và nguy hiểm hơn nữa là nạn kiêu binh. Tôi không đủ kiến thức để tranh luận với quan điểm của người tù già đáng tuổi bố tôi nhưng thâm tâm tôi vẫn thấy điều này chưa chắc đúng. Chữ của chúng tôi hồi đó là mầu cờ sắc áo. Vả lại mỗi binh chủng khi được thành lập có những nhiệm vụ riêng biệt như nghĩa quân, địa phương quân lo giữ gìn lãnh thổ. Dù, thủy quân lục chiến là những đơn vị tổng trù bị có khả năng di động cao. Khi vị thẩm phán bảo quân đội Cộng Sản hoạt đông hữu hiệu vì tất cả bộ đội, quần cứt ngựa dép râu, trên dưới như nhau không phân biệt nhưng khi tôi bảo Cộng Sản cũng có pháo binh, có thiết giáp, có phòng không, du kích, đặc công thì ông thẩm phán im không trả lời.

Đại đội Quyết Tử được thành lập như một đơn vị độc lập , một loại trừ bị của tiểu khu, cần đâu đánh đó. Tôi không rõ ý kiến thành lập đại đội này có phải là của Đại Tá Yểm không nhưng khi tôi xin nhập đơn vị này thì ông cứ ầm ừ mãi mới chịu chuẩn phê. Rời khỏi dinh Tỉnh Trưởng, bỏ lại đằng sau chức tùy viên, lần này tôi mới thực sự dấn thân vào chiến trường với tất cả phũ phàng của chiến tranh, của súng đạn, của sống cùng chết.

Cảm nhận đầu tiên thoải mái vô cùng tận. Đại Úy Cảnh cao lớn như Tây, vai ngang ngực nở, dáng đi hiên ngang lại có râu quai nón. Ông còn nổi tiếng hơn nữa ở Phước Long vì người vợ, ca sĩ Thanh Tuyền. Tôi vốn không để ý gì tới ca sĩ, nhạc sĩ tài tử trình diễn vì trong mắt tôi không ai hơn được Dung, nhưng lần đầu tiên gặp người ca sĩ khả ái này, tôi bị chinh phục hoàn toàn. Tóc xõa dài, thân hình thanh tú, lần nào đi thăm chồng, Thanh Tuyền cũng hát cho tụi tôi nghe những bài tình ca của lính.

Đại đội Quyết Tử không chỉ nổi danh vì Ông Đại Úy đẹp trai có vợ là ca sĩ lừng danh. Đại Úy Cảnh là một sĩ quan rất dễ thân cận nhưng khi cần kỷ luật nghiêm minh, lính là lính, sĩ quan là sĩ quan trên dưới đâu ra đấy. Chúng tôi được võ trang tới tận răng, cần gì cũng có, từ súng đạn cho đến trang bị, quân dụng khác. Một là Đại Tá Yểm rất hãnh diện với đơn vị này. Hai là mấy ông cố vấn Mỹ tận lòng lo lắng, xin gì được nấy toàn là thứ hảo hạng.

Đổi lại đơn vị hành quân liên chi hồ điệp, khi thì tảo thanh lúc phục kích, khi thì giải tỏa. Tôi nhớ ông Chuẩn Úy Sao, một trung đội trưởng lì nhất với trên hai mươi lính, Ông là người Miên, nói tiếng Việt sõi nhưng giọng vẫn còn lơ lớ. Ông là Hạ Sĩ Quan nhưng thăng lon dần trở thành Chuẩn Úy. Chuẩn Úy Sao là người bản địa, cả đời chưa ra khỏi Phước Long. Chỗ nào ông cũng biết. Địa hình địa vật như trong lòng bàn tay. Chính nhờ ông mà đơn vị tránh được một vụ phục kích của địch, và thắng lớn.

Nguyên là đại đội được lệnh hành quân tảo thanh một vùng gần đồi Bù Gia Mập. Kế hoạch hành quân được soạn thảo kỹ lưỡng nhưng khi nhảy xuống trực thăng, Chuẩn Úy Sao cho hay không thể di hành theo hướng dự trù vì lộ trình sẽ đi qua một nơi hai bên là đồi dễ bị phục kích. Ông đề nghị đi vòng, vất vả hơn vì băng qua một cái trảng bùn lầy khá lớn. Đại Úy Cảnh hỏi đi hỏi lại từng chi tiết và đối chiếu với bản đồ hành quân và cuối cùng theo lời khuyên của Chuẩn Úy Sao. Quả nhiên khi chúng tôi bọc hậu phía sau dãy đồi thì đụng lớn với địch, quân số cỡ tiểu đoàn.

Càng ngày Đại Đội Quyết tử càng nổi không chỉ vì ông đại đội trưởng đẹp trai và người vợ ca sĩ mà chính là những chiến công. Tôi không đếm xuể số huy chương được tưởng thưởng nhưng Đại Tá Yểm thì hãnh diện và cưng đơn vị này vô cùng. Tôi cũng càng ngày càng dày dạn gió sương, trở thành một người lính nhà nghề lúc nào không biết. Tôi hay chửi thề hơn xưa và uống rượu nhiều, rượu gì cũng được. Tôi khoái câu thơ của ông thi sĩ Nguyễn Đức Sơn:

Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế cũng mang theo.

Tôi không nghiện rượu và tất nhiên không lạm dụng dến nỗi bắt người lính tà lọt đem rượu cho mình nhưng mỗi lần về hậu cứ, không lần nào là không say mèm. Tôi không để ý nhưng Dung thì nhận ra. Một lần về phép, đi chơi, Dung bảo:

– Em để ý thấy anh uống rượu nhiều hơn xưa. Lại hút thuốc liên miên. Anh nóng tính, hay cau có.

– Anh vẫn vậy, đâu có say sưa bao giờ.

– Anh uống tới sáu chai 33.

– Bia để giải khát đâu phải rượu đế.

– Anh cộc cằn, chửi thề nữa.

Sau lần đó, tôi cố giữ, không nhậu bí tỉ nhưng cái tật chửi thề – cái ngôn ngữ lính tráng – đã quá lậm sâu. Tôi tránh nói về chiến trường, trận mạc chết chóc với Dung. Tôi chỉ kể về Phước Long, về đời sống tỉnh lẻ, về dân tình. Đây cũng là một khía cạnh nữa của chiến tranh. Tôi vẫn cứ nghĩ nếu tôi tiếp tục đèn sách, ra luật sư, làm Maître ở tòa chắc cả đời sẽ không biết thác Mơ ở đâu, thác Đức Mẹ ở đâu.

Trong rừng già phía Tây Bắc Phước Long, giữa lúc đang đi di hành tôi nghe nước đổ. Thác Mơ và thác Đức Mẹ hiện ra như giữa cơn mơ. Không cao lắm và sát nhau, từ con sông Drang như vấp vào những tảng đá, ngập ngừng rồi đổ xuống tung bọt trắng xóa. Chuẩn Úy Sao bảo Tổng Thống Diệm có đến đây, thấy cảnh trí nên thơ nên đặt tên là thác Mơ và cho dựng một tượng Đức Mẹ. Tôi chỉ nhớ thời học trung học êm đềm, tôi vẫn thấy hình ảnh của Ông Diệm như một ông quan nghiêm nghị, như một ông cha cố không biết đùa và hẳn là ông Tổng Thống đó không có óc lãng mạn. Nhưng khi nhìn thấy thác Mơ, tôi đã gật gù một mình tán thưởng cái nhìn của ông Diệm. Tôi mò mẫm khi nghe nói Tổng Thống có ý định biến chỗ này thành một nơi du lịch và đã cho dựng móng xây cất nhà cửa. Tôi chỉ tìm được mấy cái ghế đá nay đã bị cây leo, cây dại trùm kín. Ngồi trên ghế đá giữa rừng già trong một buổi chiều dịu nắng, nhìn hai dòng thác liên miên tung bọt, tôi quên hẳn mình đang võ trang tới tận răng và cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Tôi nhớ rõ hai cái thác vì trong đợt hành quân tảo thanh lần đó không chạm địch, quân ta không hề thiệt hại gì trừ tôi. Khi tôi lui cui tìm cách trèo lên tượng Đức Mẹ thì bị vấp phải mìn muỗi. Theo cách nói của Hà Nội thì đây là cuộc chiến toàn diện. Tôi vẫn hiểu nôm na rằng Cộng Sản chủ trương cái gì có lợi cho họ là họ làm, không có vấn đề nhân quyền, đạo đức gì cả. Từ cái nhìn có tính cách căn bản đó, cuộc chiến đang diễn ra dưới đủ mọi hình thái, từ hàng rào điện tử Mac Namara, phi cơ, thiết giáp, phóng lựu, bom bi, B52 cho tới bàn chông, mìn muỗi. Chỉ cần một tí C4 trộn với đinh gỉ, miểng chai, dây kẽm gai và một kíp nổ là có mìn, và gài đâu cũng dễ ngụy trang. Vết thương nơi chân trái tôi cũng chẳng đáng gì, người y tá rửa cồn và băng bó. Tôi còn nhớ khi đang băng vết thương một người lính quân y đưa cho tôi một ống tre lớn nói:

– Thiếu Úy uống cái này đỡ lắm.

Đang khát tôi ực một hơi hết. Đó là nước đọng trong những ruột cây tre cây nứa , nhất là sau những trận mưa, nó dịu dàng, ngọt ngào hương vị của cỏ cây núi rừng.

Khi về tới hậu cứ tôi hơi sốt và sau đó khó thở. Thời buổi chiến tranh , bác sĩ đến chín mươi phần trăm là bác sĩ nhà binh và ở cái tỉnh lẻ như Phước Long các vị quân y sĩ luôn luôn vừa chữa bịnh chùa cho lính vừa mở thêm phòng mạch ngoài. Người bạn cùng phòng chở tôi đến phòng mạch của ông Thiếu Tá Đích và khi vừa nhìn thấy, nghe tim mạch xong, ông hối hả dục đưa tôi đi ngay nhà thương. Vào đến bệnh viện Phước Long, tôi không còn thở được nữa và tay chân giật liên hồi, nên tôi được chuyển ngay vào phòng cấp cứu để tiếp dưỡng khí và nước biển, rồi yêu cầu chuyển gấp về Cộng Hòa. Tôi không thở được, mồm há hốc, ngáp từng tí không khí một. Khi hay tin chính Đại Úy Vậy chạy đến và yêu cầu tải thương khẩn. Nhưng trời vần vũ, mưa to gió lớn không những ở Phước Long mà cả ở Biên Hòa. Không cách gì phi cơ lên được trong thời tiết đó. Những sĩ quan bạn bè tới tấp chạy tới. Tuy không thở nổi, mồm miệng rãi nhớt chảy ra nhưng tôi rất tỉnh. Các bác sĩ cho hay tôi bị phong đòn gánh, Tétanos, nơi đây không đủ phương tiện và thuốc men. Bịnh viện tỉnh chỉ có hai bình dưỡng khí được hàn dính cứng vào giường sắt, bình kia cũng đang phải tiếp cho bịnh nhân khác. Đại Úy vậy chợt nhớ tới viên Thiếu Tá Mỹ, cố vấn của TOC. Ông điện thoại yêu cầu. Vị Thiếu Tá này sốt sắng nhưng cũng được trả lời rằng thời tiết này không có cách gì cất cánh. Ông Thiếu Tá Mỹ này vẫn không chịu thua, liền mời một bác sĩ Mỹ. Người y sĩ này sau vài phút đo tim mạch, quay sang nói ngay trường hợp này cần phải tải thương gấp. Đại Úy Vậy trình bầy lý do thời tiết và yêu cầu giúp cho. Ông bác sĩ này lên máy và xác nhận nếu sĩ quan này không được tải thương thì không thể nào cứu được. Lực lượng Mỹ ở Biên Hòa trả lời thời tiết này rất xấu. Trực thăng Hoa Kỳ chỉ cất cánh cho trường hợp một quân nhân Hoa Kỳ bị nguy kịch. Đại Úy Vậy nghĩ còn nước còn tát, nên ông gọi điện thoại trực tiếp cho Đại tá Yểm. Ngay sau đó Đại Tá Yểm đã liên lạc với Đại Tá Smith, cố vấn của ông ta, và nói rõ là Thiếu Úy Đỗ Lệnh Dũng là một sĩ quan rất ưu tú rất quan trọng cho tỉnh Phước Long và yêu cầu can thiệp tải thương. Đại Tá Smith đích thân liên lạc với Biên Hòa, yêu cầu một chuyến tải thương đặc biệt khẩn cấp và coi đây như một trường hợp đối với một sĩ quan Hoa Kỳ. Đời tôi may mắn nhiều lần, nhất là đối với tử thần.

Không đầy mười lăm phút sau, chuyến tải thương đặc biệt đã ở trên vùng và xin bắn trái sáng để xác định hướng vì trời mưa tầm tã và tối đen như mực. Trong nhà thương mọi người tìm cách đưa tôi ra sân bay nhưng cái bình dưỡng khí to tướng hàn dính vào chiếc giường sắt làm sao di chuyển. Mấy ông bác sĩ nhìn nhau, gỡ tôi ra chắc chỉ năm phút là tôi tím ngắt, là tôi chết vì nghẹt thở, máu không có oxy. Đúng lúc đó, bác sĩ Mẫn liên lạc với cố vấn Mỹ, y sĩ Đại Úy Martin, xem có cách gì xoay được một bình dưỡng khí cầm tay chăng? Ông Martin lái xe cấp tốc về bên MACV và trở lại với một bình dưỡng khí. Ông ta cho biết bên đó cũng chỉ có hai bình mà thôi. Khi trực thăng đảo trên cao, trái sáng bắn rầm trời, để đến nỗi sau này bạn bè vẫn bảo, chưa bao giờ thấy một sĩ quan cấp Úy được săn sóc như vậy.

Khi trực thăng tải thương rời khỏi Sông Bé được một lúc lâu, tôi cảm thấy không thở được, thì ra trực thăng bị lạc hướng khi thời tiết mưa quá lớn. Bình dưỡng khí đã hết oxy vì thời gian bay lâu quá. Lúc đó tôi cảm tưởng như đang lặn ở dưới nước, hết dưỡng khí phải trồi lên, thì có ai dìm tôi xuống, nên tôi vùng vẫy dãy dụa dữ dội. Hai người y tá Medic Mỹ đi theo chuyến tải thương hình như hiểu được trường hợp, tìm cách tiếp dưỡng khí cho tôi bằng phương pháp hô hấp trực tiếp bằng miệng cho đến khi trực thăng đáp xuống một căn cứ Mỹ ở Biên Hòa để lấy thêm bình dưỡng khí khác hầu có thể bay tiếp tục đến bịnh viện dã chiến Mỹ ở Biên Hòa. Tôi nằm ở bịnh viện Hoa Kỳ tại Biên Hòa gần nửa tháng.

Có những điều không bao giờ giải thích được với những người ngoại quốc. Tôi nhất định xin được chuyển giao về bịnh viện Cộng Hòa hay cho về nhà. Viên bác sĩ cho hay nơi này có đủ phương tiện y tế tối tân, và tôi được đối xử ngang với một sĩ quan Mỹ, tại sao muốn về? Tại vì thèm cơm quá, thèm phở quá. Uống mãi nước cam, nước táo nó xót ruột làm sao ấy. Ăn sáng mãi với cereal ngọt lờ lợ chẳng ra ngô ra khoai gì sất. Tôi thấy người không đói nhưng cứ lâng lâng, ngầy ngật thèm cơm thèm rau. Nếu được rau muống non chấm nước mắm chanh nữa thì tuyệt. Nhưng rồi gần nửa tháng họ mới cho tôi xuất viện. Câu đầu tiên Dung nói với tôi:

– Em sợ muốn chết. Trông anh xanh quá.

Tôi chỉ biết cười:

– Mìn muỗi như muỗi đốt, ăn thua gì. Tại vi trùng phong đòn gánh.

– Phong đòn gánh là gì vậy?

– Tétanos.

– Em sợ. Lỡ anh có gì.

– Anh cao số , đừng lo.

Ông thầy chấm số tử vi cho tôi bảo với mẹ tôi rằng tôi cao số , và ông nói lung tung những gì là “giáp long, giáp phượng, giáp tả, giáp hữu” rồi “tuần triệt, thân cư di” gì đó tôi chẳng hiểu. Nhưng tôi nhớ ông ta đã vỗ đầu tôi, lúc tôi đâu bẩy tám tuổi:

– Số cậu này buồn cười lắm, cứ tưởng được lại mất, có khi thấy mất lại được. Nhưng cái lạ là lúc nào cũng thoát.

Mẹ tôi vẫn hay nhắc lời ông thầy tử vi và đến gần cuối đời tôi ngẫm hay người ta có số thật.

Đó không phải là lần đầu tôi bị thương. Cuộc chiến hiện diễn ra dưới đủ mọi dạng trong đó có dạng xôi đậu. Tôi vẫn cười khi tự hỏi quốc gia là xôi hay là đậu? Và dân là gì trong cái thế xôi đậu đó. Điển hình là ấp Phước Lộc.

Phước Lộc nằm ở phía tây bắc Phước Long là một loạt các xã, các ấp bắt đầu bằng chữ Phước , Phước Bình , Phước Vĩnh , Phước Quả, Phước Lộc. Tình trạng ở Phước Lộc là nửa xôi nửa đậu, Đêm Cộng ngày Quốc. Ban ngày sinh hoạt bình thường như bất cứ ấp nào, trụ sở ấp treo cờ vàng ba sọc đỏ, các em học sinh tiểu học sáng hát quốc ca “Này công dân ơi , đứng lên đáp lời sông núi…” Nhà nào cũng sơn cờ quốc gia ở trước cửa. Nhưng khi trời sập tối thì các viên chức chính phủ, kể cả những chức dân cử như các ông hội đồng xã ấp lũ lượt chăn mền lên ngủ ở đồn. Đồn nằm trên một ngọn đồi thấp, do đại đội địa phương quân 334 trấn giữ. Đại đội 334 sau này đổi tên thành đại đội 333 vì theo Đại Tá Tỉnh Trưởng Lưu Yểm thì 334 là số bù, số xui. Tôi đã có dịp nằm với ông Thái ở đồn và đến đêm, từ đồi nhìn xuống, ấp Phước Lộc cũng lốm đốm đèn lửa. Nhưng lời thiếu úy Thái, có đêm Việt cộng về đốt đuốc sáng rực, họp dân lại để học tập về tội ác Mỹ ngụy.

Chuyện xảy ra khi cả hơn một tiểu đoàn địch khơi khơi về ấp chiếm, đuổi hết dân. Tin tình báo và nhất là theo lời dân thì rất đông bộ đội cộng sản, nói toàn tiếng Bắc. Phối kiểm tới, phối kiểm lui, Đại Tá Yểm mở cuộc hành quân lớn, phối hợp Việt Mỹ. Đây chỉ là cách nói, thực ra là quân đội Mỹ sẽ hành quân và quân đội Việt Nam chỉ là lực lượng án ngữ. Đại đội của tụi tôi được lệnh tham dự. Khi nhảy trực thăng xuống, Đại Úy Cảnh cho dàn quân ngay ở trên ngọn đồi của đại đội số bù 334. Chưa kịp bố trí thì cả một bầu trời vần vũ phi cơ trực thăng và đủ thứ phi cơ quan sát bay vòng vòng. Tôi ước lượng cỡ trên một tiểu đoàn TQLC Mỹ được đổ xuống trong ba đợt bao quanh ấp Phước Lộc. Cái ấp nhỏ bé đó vẫn im lìm như đang ngủ yên không một động tĩnh. Mỹ khai hỏa trước, bằng súng phóng lựu, bắn lựu đạn cay mù mịt từng chập một. Hơi cay dữ dội gió tạt đến tận chỗ chúng tôi trấn trên đồi. TQLC Mỹ mặt nạ, súng đủ loại ào lên. Ấp trống không, chỉ thấy gà vịt chạy tứ tung kêu oang oác. không một bóng dáng địch, không một chú du kích hay như tin tình báo, lính chính qui Bắc Việt. Chiến lợi phẩm duy nhất là lá cờ Mặt Trận Giải Phóng treo ở trụ sở ấp.

Dân chúng được đưa trở về nhà với lời bảo đảm của chính phủ và quân đội rằng bất cứ lúc nào quân đội đồng minh cũng sẵn sàng có mặt. Hai tuần lễ sau, dân lại bị xua khỏi ấp. Đại Tá Yểm họp và nói với Đại Úy Cảnh:

– Tụi nó chơi trò hú tìm, mục đích là gây náo loạn, tạo thế bất an cho dân. Đại đội 334 của ông Thiếu Úy Thái yếu quá. Đại Úy lo dùm tôi vụ này, không thể mở hành quân lớn nữa. Kỳ vừa rồi mất mặt với tụi Mỹ quá.

Đại Úy Dương Thắng Cảnh trông tướng tá có vẻ công tử nhưng lại là một sĩ quan vô cùng cẩn thận. Ông dặn dò mọi người:

– Không thể khinh địch được. Cuộc hành quân lần trước khác, lần này khác. Có ai đọc Tam Quốc chưa? Khổng Minh đã xài kế không thành. Tôi yêu cầu tất cả sĩ quan và binh sĩ chuẩn bị vì có thể sẽ chạm lớn. Chúng ta quen chiến trận trong rừng núi nay phải đối phó với một trận địa khác, ngay giữa ấp với nhà cửa, và rất nhiều hầm trú ẩn.

Đại Úy Cảnh chọn hướng Đông để tiến thẳng vào ấp và liên lạc yêu cầu đại đội địa phương 334 dàn ngoài ấp dọc dọc phía Tây chặn đường rút của địch. Đại Đội dàn cánh cung tiến vào. Tôi giữ phía trái , Chuẩn Úy Sao giữ phía mặt và chính giữa do Đại đội trưởng chỉ huy. Đến ven ấp, mọi sự bình yên như tờ. Đại Úy Cảnh gọi tôi.

– C1 tiến trước ở giữa.Zulu chận dọc đám cây , SS áp dọc rào nứa.

Từ đội hình cánh cung, đại đội chuyển thành đội hình tam giác, mũi nhọn đi đầu. Cánh của Đại Úy Cảnh lọt vào ấp yên lành. Tôi đem trung đội bọc theo rặng cây tiến tới. Những căn nhà lợp tôn, lợp lá thấp lè tè im đến độ đáng ngờ. Tôi ra lệnh tiến chậm, bò leo thang đi từ căn này tới căn khác. Một sinh hoạt sống duy nhất là một con chó cụp đuôi vừa đi vừa chạy giữa hai lớp nhà lụp xụp. Viên Hạ Sĩ truyền tin chỉ tay. Tôi nhìn về phía căn nhà gạch hai tầng, thấy biển đề Trường Tiểu Học Phước Lộc và thấy lá cờ mặt trận phất phơ nhẹ trong gió. Tôi vẫy tay ra hiệu và khi một người lính đẩy chiếc cổng trường toan tiến vào sân trường thì súng nổ nhiều loạt khiến người lính liệt đi. Tôi nghe nhiều tiếng hò hét vẳng lên từ các cửa sổ.

Cùng lúc đó, từ phía sau súng cũng nổ rền trời. Cánh của Đại Úy Cảnh chạm nặng. Những người lính của Đại Đội Quyết Tử đều là tình nguyện và rất nhiều kinh nghiệm. Họ sử dụng M79 rất là thần sầu, chỉ ít phút sau địch im. Sam Graves sau nhiều cuộc đụng độ đã tỏ ra bình tĩnh và chín chắn ra nhiều. Ông cố vấn nằm sát sau mô đất cùng tôi quan sát. Tôi trườn lại phía sau gốc cây để nhìn bao quát hơn thế trận. Đúng lúc đó cột cờ trúng đạn B40 ngã đổ, lá cờ mặt trận trải dài trước mặt. Tôi nhỏm dậy, vừa cúi vừa chạy và vừa đúng lúc giật lá cờ nhét vào trong ngực thì tôi trúng đạn. Tôi lăn tròn trên đất và nghe tiếng súng nổ liên hồi. Sam Graves và người hạ sĩ truyền tin xả súng từng chập bắn chận. Người Hạ Sĩ truyền tin lôi tôi vào được phía sau những mô đất có cỏ cao che lấp. Tôi nghe anh ta nói như thét vào PRC:

– Thiếu Úy bị rồi. Thiếu úy bị rồi.

Không hiểu động lực nào đã khiến tôi vô cùng tỉnh táo, giật lấy ống nghe:

– Zulu đây. Bị nhẹ, không sao.

Tôi chỉ sợ Đại Úy Cảnh quá để tâm tới cánh quân của tôi, lo tiếp vận yểm trợ rồi bị phục kích. Giữa lúc đó một người lính nói với tôi:

– Để em qua lấy lại khẩu M79.

Khẩu M79 của tôi nằm chơ vơ giữa sân trường. Tôi vội bảo:

– Đừng có ngu. Tụi nó chốt trong các căn nhà phía trước.

Chỉ đến khi đó tôi mới thấy tay trái tê dại rũ xuống. Tôi cũng không biết đích xác đạn trúng chỗ nào trên cánh tay. Viên y tá bò lại gần, xé nguyên một cuộn băng, băng chằng chịt từ khủyu tay trở xuống trùm hết cả bàn tay. Anh ta giải thích:

– Cứ băng lại đã để lỡ có gãy xương thì còn có thể nối lại được.

Máu ra ướt đẫm băng trắng. Tiếng nổ rền của AK cùng mùi thuốc súng làm tôi tỉnh táo trở lại và quyết định cho trung đội phòng thủ theo thế cánh cung để tự bảo vệ. Phía bên trái tôi, cánh quân của ông Cảnh cũng đang chạm nặng. Trong máy tôi nghe Đại Úy Cảnh ra lệnh chậm rãi và bình tĩnh cho cánh quân của ông tiến chiếm lại Vườn Mít.

– Zulu đây Charlie nghe rõ trả lời.

– Nghe ba mai.

– 72 (Đại Tá Yểm) đang bay trên vùng hỏi thăm cậu. Nhận được trả lời.

Anh truyền tin định nghiêng máy cho tôi nghe thì ngay lúc đó một quả B40 nổ sát tôi làm anh lính truyền tin bị thương và máy bị vỡ tan. Kể từ lúc đó tôi hoàn toàn mất liên lạc với đơn vị bạn.

Đại đội 334 có nhiệm vụ chốt tại ngã ba Thác Mơ để bảo vệ đường rút cho chúng tôi cũng bị bao vây và tấn công dữ dội. Chưa đầy nửa tiếng sau, đại đội 334 bị mất liên lạc. Thế là đại đội của Đại Úy Cảnh bị khóa đít, không tiến và cũng không lui được. Địch hy vọng sẽ khóa sổ đại đội Quyết Tử nhưng họ nhầm vì chúng tôi cũng như họ, lợi dụng những hầm trú ẩn của dân chúng làm tuyến tự vệ cho nên những đợt tấn công của họ đều bị đánh bật ra. Đại đội Quyết Tử được trang bị nhiều M72 nên hỏa lực rất mạnh. Hơn nữa, gần một tiếng đồng hồ trôi qua đã đủ cho trực thăng võ trang của Hoa Kỳ lên vùng, loại trực thăng Cobra được trang bị 48 quả đạn hỏa tiễn ngăn chặn dễ dàng những đợt tấn công liều lĩnh của địch. Một tiếng đồng hồ ấy cũng đủ thời gian cho tiểu đoàn 340 trừ bị tại Phước Quả tiến đánh vào sườn địch.

Trận đánh diễn ra chưa đầy một tiếng. Địch thiệt hại nặng, để lại nhiều súng AK và B40 sau đó khi rút lại bị tiểu đoàn 340 Đại úy Phan truy kích. Riêng trung đội của tôi đã thiệt mất sáu binh sĩ và hầu hết đều bị thương.

Đêm hôm đó đại đội của chúng tôi rút về đồn Phước Lộc cùng với đại đội 334. Tiểu đoàn 340 ở lại đóng quân tại ấp Phước Lộc. Sau đó tôi được biết tiểu đoàn 340 phối hợp với một tiểu đoàn của sư đoàn 5 mở cuộc hành quân lớn truy kích địch. Kết quả thu lượm hơn 100 súng đủ loại, xác địch đếm được tại chỗ 60 chưa kể một số đã được kéo đi trong đêm. Về phía chúng tôi thì đại đội 334 còn lại hơn hai trung đội do trung sĩ Nhất Tuệ, người có cấp bậc cao nhất còn lại chỉ huy, đại đột Quyết Tử 16 hy sinh. Đại Úy Cảnh bị thương có lẽ không nặng lắm, đã từ chối không cho tải thương và ở lại đơn vị. Phần tôi thì đêm đó, đã được bốc về tỉnh.

Khi được trực thăng tải thương đưa về bịnh viện Phước Long, tôi chỉ chăm chăm xin về Cộng Hòa. Về Cộng Hòa có nghĩa là về Sài Gòn, về với Dung. Nhưng viên Đại Úy bác sĩ vừa nhìn thấy bảo:

– Thiếu Úy bị nhẹ , đâu cần về Cộng Hòa.

Tôi năn nỉ một hồi đến nỗi ông ta phát cáu:

– Còn nhiều người bị nặng hơn Thiếu Úy.

Tôi chán nản nằm dài trên chiếc băng ca phòng đợi. Nhưng khi xé băng, xem xét vết thương. Vị Đại Úy Quân Y chích cho tôi một mũi thuốc gì đó và bảo:

– Cho Thiếu Úy này về Cộng Hòa.

Đến đây thì tôi sợ tái người:

– Có gãy xương không bác sĩ? Liệu có phải cưa tay không?

Có lẽ bị nhiều thương binh cần chăm sóc quá, ông ta nhìn tôi, vỗ vỗ vào chiếc băng ca rồi đi lo cho người khác. Tôi sợ đến lạnh người. Hnh ảnh của một người tay cụt không phải là hình ảnh đẹp, nhất là đi bên cạnh Dung. Thoáng từ đầu, câu hát vọng về:

Em lạnh lùng dạo phố mùa xuân

Bên người yêu tật nguyền chai đá.

o O o

Tổng y viện Cộng Hòa như một cái chợ thương binh. Băng ca nằm ngang dọc, thương binh người thì băng đầu, kẻ thì băng chân. Có người thì im lìm nghẹo đầu như đã chết. Kẻ thì rên rỉ. Tôi nằm dài, chỉ thấy bải hoải, người rũ ra vì mệt mỏi, hoặc vì mất máu. Cái mũi thuốc ở Phước Long có lẽ là morphine, nay đã tan. Hễ cựa mình là tay trái đau nhói chịu không thấu nhưng cái đau không thấm gì với ý nghĩ bị cưa tay. Tôi được đưa vào phòng chụp quang tuyến và khoảng một tiếng sau thì vào phòng mổ. Vị bác sĩ có lẽ là một ngày mổ ít nhất vài ba ca, nhìn tôi hỏi:

– Thiếu Úy bị ở đâu?

– Ở Phước Long.

– Không tôi hỏi bị bắn trúng ở chỗ nào trên tay có biết không?

– Không, chỉ biết bị ở tay.

Ông ta cầm tấm phim quang tuyến đen ngòm xoay tới xoay lui, rồi gật gật.

– Ở cổ tay.

– Liệu có phải cưa?

– Cưa thì được giải ngũ. Sống cụt còn hơn chết lành. Sợ không?

Đây là lần đầu tiên có người hỏi tôi câu này. Sợ không? Tôi vẫn nghĩ con sâu cái kiến còn muốn sống huống hồ là con người. Tôi đâu muốn bắn người khác chết? Tôi không rõ là người lính Bắc Việt ở bên kia có muốn bắn người không? Tôi giương mắt nhìn, và người bác sĩ đồng đội đã luống tuổi cười:

– Yên trí, để tôi đánh thuốc mê, giải phẫu cho Thiếu Úy. Tỉnh dậy thấy mất một cánh tay là được giải ngũ, tàn phế 100%.

Tàn phế 100% là câu cuối cùng tôi nghe khi lên bàn mổ, và mũi thuốc mê làm tôi lịm đi không biết gì nữa. Tôi đột nhiên tỉnh dậy, ngơ ngác không biết mình đang ở đâu, chỉ thấy cảm giác bị trói buộc. Tôi ngước nhìn. Cánh tay trái của tôi băng kín được buộc thẳng dọc theo một cái cọc sắt. Tôi định thần và cố thở xem có co duỗi được mấy ngón tay chăng. Hoàn toàn vô vọng, không một cảm giác gì ngoài sự tê cứng. Tôi còn bàn tay trái chăng?

Khi vị bác sĩ cúi xuống nhìn tôi cười , tôi sợ thất thần. Sống cụt hơn chết lành.

– Thiếu Úy may mắn lắm. Đạn trúng cổ tay nhưng lại trúng ngay vào chiếc đồng hồ nên xương không bị vỡ vụn. Yên trí không bị cụt tay đâu nhưng mà lại sắp phải ra mặt trận, không được giải ngũ.

Khi tôi còn phải treo cánh tay trái thì một chuyên viên quang tuyến dẫn theo một vị cố vấn người Mỹ ôm theo một xấp hình x-ray đến. Ông ta hỏi bằng giọng rất nghiêm chỉnh:

– Khi Thiếu Úy bị bắn, Thiếu Úy có biết trúng phải thứ đạn gì, hay có biết Việt Cộng sử dụng loại súng gì không?

Tôi nhìn ông ta ngạc nhiên. Trông bộ dạng rõ là lính văn phòng, chưa bao giờ ra trận. Tôi không biết đồng đội của tôi nhìn thấy võ khí của địch dùng để bắn trúng mình bao giờ chưa và lại còn biết cả loại đạn gì. Tôi trả lời:

– Đạn nổ rền trời, nhưng tôi nghe như tiếng AK. AK nổ nghe không thanh như M16.-

– Tại sao trong phim chụp lại có mảnh đạn răng cưa. Chúng tôi là chuyên viên võ khí cũng chưa hiểu tại sao. Có thể Việt Cộng được viện trợ loại võ khí tối tân gì chăng?

– À , tôi nghe ông bác sĩ giải phẫu của tôi bảo tôi không bị vỡ cườm tay nhờ đạn trúng cái đồng hồ.

Hai chuyên viên Việt Mỹ bàn tán, gật gù rồi bỏ đi. Tôi chợt nhớ dến những bài báo ngoại quốc viết về những loại vũ khí tối tân lần đầu tiên được sử dụng ở Việt nam như hỏa tiễn SAM tầm nhiệt, như hỏa tiễn TOW và nhiều thứ lỉnh kỉnh khác nữa. Đất nước đang trở thành bài thí nghiệm của các phát minh mới trong nghành võ khí học của cả hai phe Tự Do lẫn Cộng Sản. Những ý nghĩ viển vông này không ám ảnh tôi lâu vì ngày ngày Dung đều có mặt ở nhà thương Cộng Hòa. Khi được chuyển từ khu cấp cứu sang khu dưỡng thương của sĩ quan, quang cảnh đổi hẳn. Tổng Y Viện Cộng Hòa được xây cất từ khi nào không rõ nhưng rất tình tứ với những dãy nhà gạch có mái hiên rộng, thoáng và phía giữa hai dãy nhà là các hàng cây to tỏa tàn mát rượi. Hễ chiều chiều Dung tới là hai đứa ra ngồi ở mấy chiếc ghế bên gốc cây sơn vôi trắng toát thủ thỉ đủ thứ chuyện. Tôi được nghỉ gần ba tháng ở Sài Gòn và có lẽ đây là tuần trăng mật của tụi tôi. Dung bắt tôi ăn rất nhiều thịt bò để lại sức nhiều đến nỗi khi về đến Phước Long tôi vẫn còn ớn.

Trở Lại Phước Long, mọi sự xem ra chẳng có gì thay đổi, vẫn là một cuộc sống bấp bênh tạm bợ trong chiến tranh. Mỗi buổi sáng các quán xá trong thị xã đầy lính tráng, đủ loại mầu cờ sắc áo, đủ loại binh chủng và ngay cả ở quán phở Tàu Bay đông đúc thỉnh thoảng cũng có cả mấy ông cố vấn Mỹ lóng ngóng cầm đũa vớt những cọng bánh phở trơn trượt. Guồng máy vẫn cứ quay dù có tôi hay không, bởi chỉ hai ngày sau, tôi lại mũ sắt áo giáp lội rừng lội suối. Đơn vị của tôi được cưng chiều, hễ về được đến hậu cứ là kể như phè và nhất là quân trang quân dụng không bao giờ thiếu. Hễ cần cái gì, Đại Tá Lưu Yểm cung cấp liền và nếu phía Việt khó quá thì có Đại Úy Sam Graves lo. Để bù lại những ân sủng đó, tụi tôi bị xài tối đa. Chữ xài là ngôn ngữ của lính và đôi khi tôi đã rùng mình khi nghĩ rằng cả đại đội hơn trăm con người được coi như một đồ vật, một dụng cụ để xài. Tôi vẫn hay suy nghĩ lẩm cẩm như vậy đến nỗi Đại Úy Cảnh trong một bữa nhậu đã cười ngất, gọi tôi là Ông Đồ Tây. Hỏi tại sao là ông Đồ Tây thì Đại Úy Đại Đội Trưởng bảo tôi học trường Tây mà suy nghĩ lẩm cẩm như Ông Đồ.

Đại đội biệt lập, chịu sự chỉ huy trực tiếp từ Đại Tá Yểm và TOC. Chúng tôi hành quân giải tỏa, hành quân lục soát, hành quân phối hợp, hành quân truy kích…Chỗ nào cần, chỗ nào gay, có mặt tụi tôi. Thương vong khá lớn nhưng luôn luôn được bổ sung nên quân số không bao giờ được thiếu hụt, khác hẳn những đơn vị khác.

Bản doanh của tiểu khu Phước Long nằm sát chân núi Bà Rá, ngọn núi cao nhất trong vùng. Đi đâu trong tỉnh , ngước lên cũng có thể nhìn thấy đỉnh núi và nếu hôm nào trời quang mây tạnh còn có thể loáng thoáng thấy dạng của công sự chiến đấu và những cột ăng ten và cột thu phát sóng truyền tin. Tôi liên lạc đều đều với Bà Rá khi hành quân và ngày này qua ngày khác tôi biết tên một số những người lính truyền tin, trong đó có ông Thiếu Úy Mai ra trường Thủ Đức sau tôi một khóa. Mai kém tôi một tuổi nhưng đã tốt nghiệp Văn Khoa, Cử Nhân Triết Đông. Lần nào từ núi bò xuống Mai cũng kiếm tôi cà phê cà pháo và đến tối thì mò vào ngủ trong hậu cứ của đại đội. Tôi thích Mai vì từ Mai tôi học được khá nhiều về nền văn hóa Đông Phương. Mai bảo rằng khi Việt Nam đã là một quốc gia có tổ chức, có hệ thống, có vua quan hành chính, có sử thì Nhật Bản vẫn còn là một bộ lạc, là sứ quân. Mai kể về cuốn sử của ông Lê Văn Hưu, một bộ sử đồ sộ được viết ra khi Nhật chưa có chữ viết. Mai nói rằng cuốn An Nam Chí Lược của Lê Tắc nay được giữ trong Khố Toàn Thư của Tàu. Cái ước mơ của Mai trở thành học giả Hán Nôm chuyên về sử. Nhưng tôi nhớ nhất là có lần Mai hỏi tôi:

– Ông có biết vụ ly thân đầu tiên của Việt Nam, và có thể là của thế giới xảy ra vào thời kỳ nào không?

Trời đất, làm sao tôi biết chuyện ly kỳ này. Mai cười bảo:

– Đó là vụ ly thân giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Chính vì bố mẹ xa nhau nên con cái không còn nhận ra nhau, đánh nhau lung tung.

Và Mai gõ tay trên bàn vừa hát “Giặc từ Bắc vô đây, bàn tay nhuốm máu anh em…” Tôi thích Mai vì lối nới chuyện hóm hỉnh có duyên. Có lần Mai nói với tôi cái vốn chữ Hán chữ Nôm của anh đã giúp anh rất nhiều trong việc giải mã truyền tin. Tôi không hiểu điều này có đúng chăng nhưng Mai gật gù bảo:

– Ít nhất thì Đại Học Văn Khoa cũng dậy tôi được chút ít để ứng dụng trong chiến tranh.

Khoảng hơn một tuần trước Thiếu Úy Mai hạ san mang theo một người Hạ Sĩ truyền tin trẻ măng bảo tôi:

– Đây là Hạ Sĩ Ngọc, em út tôi đang học chữ Hán.

Sống ở trên núi buồn quá, ông Mai vớ được người hạ sĩ ham học, bèn đem chữ Hán ra dậy. Thầy trò ông có vẻ tương đắc và tôi thấy rõ lòng kính trọng của hạ sĩ Ngọc với ông thầy Thiếu Úy.

Chính nhờ nói chuyện nhiều , tôi hiểu căn cứ tiếp vận truyền tin Bà Rá được người Mỹ trang bị rất nhiều dụng cụ truyền tin hiện đại, có cái máy giá trị cả triệu Mỹ kim. Thiếu Úy Mai cho biết đài tiếp vận có thể liên lạc với đệ thất Hạm Đội của Hoa Kỳ và đặc biệt hơn nữa, căn cứ này còn có nhiệm vụ tìm bắt những liên lạc vô tuyến của địch. Tôi nghe lỗ tai này chạy qua lỗ tai khác nhưng hiểu rằng Bà Rá là một căn cứ quan trọng. Không ai nghĩ rằng Bà Rá sẽ bị tấn công. Thứ nhất nó tuy nằm trên núi nhưng vẫn là trong vòng đai của Tiểu Khu. Thứ nhì Bà Rá địa thế hiểm trở, phía bên kia là sườn đá tai mèo không có cách gì để bày binh bố trận. Căn cứ ngoài lực lương của truyền tin còn có hơn một đại đội nghĩa quân bảo vệ.

Nhưng tối hôm đó, núi Bà Rá nổ tung. Phước Long dẫu sao vẫn là tỉnh lẻ, khoảng chín giờ tối ít ai ra đường, và dăm ba cái đèn điện lù mù không đủ tạo cho Phước Long một sinh hoạt ồn ào trong đêm. Đêm đó gần như mọi người trong tỉnh đều đổ ra đường nhìn lên đỉnh núi. Những tiếng nổ long trời lở đất làm sáng một vùng trời. Khi tôi và Đại Úy Cảnh tới trung tâm hành quân thì Đại Tá Yểm và rất nhiều cấp chỉ huy đã có mặt.

Tôi thấy chính ông đang nói bên máy:

– Em phải giữ vững tinh thần, cho thẩm quyền biết chuyện gì xảy ra.

– Tụi nó đông lắm ở trần đánh lựu đạn và bộc phá. Thẩm quyền cứu em.

– Hiện giờ ra sao?

– Hầm em bị sập, em kẹt trong này một mình. Em không biết bên ngoài ra sao. Tối om không thấy gì hết. Thẩm quyền cứu em. Chắc em chết.

– Can đảm lên. Thẩm quyền thăng em lên Trung Sĩ Nhất. Những người khác ra sao?

– Em bị sập hầm, không biết.

Tôi nghe và nhận ra tiếng Hạ Sĩ Ngọc, học trò chữ Hán của ông Mai, nên ra hiệu. Đại Tá Yểm gật đầu để tôi lên máy.

– Ngọc, đây Thiếu Úy Dũng, nhớ không. Thiếu Úy Mai…

– Em không biết Thiếu Úy Mai ở đâu. Hầm em bị sập, tối không nhìn thấy gì. Em sợ. Thiếu Úy cứu em với.

Đại Úy Cảnh muốn hành quân trực thăng ngay lập tức nhưng phải đến sáng hôm sau đại đội của tôi mới nhảy xuống lưng chừng núi. Tiếng nổ đã im từ nửa đêm qua. Khi tiến lên được đến đỉnh, một cảnh tang thương bày ra trước mắt chúng tôi. Những hàng rào có lẽ bị bộc phá quăn queo thành từng nhúm. Một vài nơi còn có khói ngún lên thành từng dải. Xác chết la liệt khắp nơi, đủ dạng đủ kiểu. Đau lòng nhất là ngay ở sân cờ khoảng hơn hai chục xác bị bắn, hai tay vẫn bị trói giật cánh khuỷu ra sau lưng. Có lẽ họ bị bắt, bị trói và sau đó Việt Cộng xả súng bắn. Không có thương binh. Tôi mò mẫm tìm được Mai nghẹo đầu cạnh chiếc cột lớn, máu đã khô. Anh chết chân không đi giày, khẩu Colt vẫn còn ở trong bao gắn ở giày ATB chưa kịp rút ra. Phải đến quá trưa binh sĩ mới bới và lôi được Hạ Sĩ – nay là Trung Sĩ Nhất Trần Văn Ngọc – ra khỏi căn hầm bị sập.

Đặc công Việt Cộng đã bò từ phía sông Drang dưới chân núi, leo lên sườn đá dốc ngược, đánh bất ngờ khiến toàn thể căn cứ Bà Rá bị hủy. Tôi chưa thấy Đại Úy Cảnh khóc bao giờ cho đến hôm đó. Ông đứng ở mỏm đá cao nhất nhìn cảnh tương của Bà Rá, hai khoé mắt đẫm lệ. Ông không nói một câu gì, không chửi thề như mọi khi, không hò hét lính tráng như vẫn hò hét khi ra trận. Ông đứng đó chết trân. Tôi cũng thấy nước mắt mình ứa ra khi quì xuống vuốt mắt cho Mai, cho người đồng đội với giấc mơ Hán Nôm.

 

No comments: