NHỮNG THƯƠNG HIỆU PHÁP MỘT THỜI LỪNG LẨY TẠI VIỆT NAM

Cùng với quá trình khai khẩn thuộc địa từ thế kỷ 19, nhiều thương hiệu Pháp đã đến hoặc hình thành tại Việt Nam, để lại dấu ấn sâu đậm đối với nhiều thế hệ người Việt.
Bia BGI được thành lập tại Sài Gòn vào năm 1875 bởi một sĩ quan hàng hải đã giải ngũ tên Victor Larue, BGI là viết tắt của Brasseries Glacières d’Indochine (Hãng bia và nước đá Đông Dương). Nổi tiếng và lâu đời nhất là Nhà máy bia Chợ Lớn và Usine Belgique, được xây dựng từ năm 1952. Đến năm 1954, khi Đông Dương không còn nữa thì hãng đổi tên thành Brasseries Glacières Internationales, vẫn viết tắt là BGI.
 
BGI thời trước rất nổi tiếng với bia Bia 33, Royale, Hommel và đặc biệt là bia Tiger, thường được người Sài Gòn trước 1975 gọi theo kiểu bình dân là "bia con cọp".
 
Vào năm 1975, khi BGI vừa tròn 100 tuổi, hai nhà máy của hãng bia Pháp này được quốc hữu hóa. Nhà máy bia Chợ Lớn trở thành Bia Sài Gòn và Usine Belgique cũng đổi thành Chương Dương. Ngày nay, đây vẫn là 2 thương hiệu thức uống có chỗ đứng lớn tại thị trường Việt Nam.
 
Đến Việt Nam từ rất sớm, hãng rượu Fontaine xây dựng nhà máy của mình tại số 94 Lò Đúc vào năm 1898, với tên gọi Nhà máy Rượu Hà Nội. Đây là nhà máy lớn nhất trong 5 nhà máy được công ty Fontaine xây dựng ở Đông Dương khi đó.
 
Năm 1955, Chính phủ quyết định phục hồi Nhà máy Rượu Hà Nội để sản xuất cồn phục vụ y tế, quốc phòng và dân sinh. Cuối năm 2006, Nhà máy Rượu Hà Nội  đổi tên thành Công ty cổ phần Cồn Rượu Hà Nội (Halico) và hoạt động dưới hình thức cổ phần.
Cách đây vài năm, UBND TP Hà Nội quyết định di dời nhà máy về Bắc Ninh và thu hồi lô đất tại Lò Đúc để sử dụng vào mục đích khác.
 
Năm 1936, hãng xe Citroën của Pháp tiến hành xây dựng xưởng sản xuất đầu tiên ở Đông Dương với trụ sở ban đầu tại góc đường Lê Lợi - Nguyễn Huệ, ngày nay là khách sạn Rex.  Đến thời Việt Nam Cộng hòa xưởng sản xuất được dời đi và đổi tên thành Công ty Xe hơi Citroën, tiếp đến là Công ty Xe hơi Saigon.
 
Năm 1969, Citroën mua bản quyền thiết kế của chiếc Baby Brousse từ công ty Ateliers et Forges de l’Ebrié để sản xuất chiếc xe lừng danh thời bấy giờ là La Dalat. La Dalat có 4 kiểu dáng khác nhau với các loại 4 chỗ ngồi hoặc 2 chỗ ngồi với thùng chở hàng.
 
Giai đoạn 1970 cho đến 1975, hãng xe Citroën sản xuất hơn 5.000 chiếc La Dalat, tức là khoảng 1.000 chiếc mỗi năm, tỷ lệ nội địa hóa tăng dần từ 25% đến 40% vào năm 1975. Tuy nhiên, vào năm này, hãng Citroën chính thức đóng cửa.
 
Cũng có mặt tại Việt Nam từ thời Pháp thuộc, hãng xe Simca có một trụ sở tại Hà Nội, ngày nay chính là vũ trường  New Century  ở số 10, phố Tràng Thi.
 
Đây vốn là hãng xe Pháp, được thành lập vào năm 1934 bởi Fiat. Trong ảnh là một mẫu xe Simca được trưng bày tại một cuộc triển lãm vào tháng 9/1949 tại Sài Gòn.
 
Simca từng thuộc sở hữu của Chrysler giai đoạn thập niên 50-60  và vẫn tiếp tục bán xe tại Hà Nội, Sài Gòn. Trong ảnh là một ảnh quảng cáo mẫu Vedette đời 1953.Sau năm 1970, Simca được  PSA (liên minh giữa Peugeot và Citroen) mua lại. Tuy nhiên, nhãn hiệu Simca đã không còn xuất hiện tại Việt Nam.
 
Công ty các đồn điền cao su Michelin (Société des Plantations et Pneumatiques Michelin au Vietnam) thành lập năm 1917, đặt trụ sở tại Dầu Tiếng và một văn phòng tại số 180 đường  Chasseloup Laubat, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, TP HCM.  Với số mủ cao su khai thác được, De Lafon cho xây dựng nhà máy sản xuất tại chỗ săm lốp xe đạp và săm lốp xe hơi.
 
Thời đó, Michelin có 3 đồn điền lớn: Dầu Tiếng (7.000 ha), Phú Riềng và Thuận Lợi (3.000 ha). Trong ảnh là đồn điền tại Thuận Lợi vào năm 1927. Đến năm 1943, Michelin chiếm 7% toàn bộ diện tích cao su khai thác và sản lượng bằng 11% tổng sản lượng toàn Đông Dương.
Sau 1975, Đồn điền Michelin đổi tên là Nông trường Quốc doanh Cao su Dầu Tiếng. Đến năm 1981 chuyển thành Công ty cao su Dầu Tiếng. Cùng với đó, hãng lốp xe Michelin cũng quay lại Việt Nam để bắt đầu công việc kinh doanh mới với một công ty con là Công ty TNHH Michelin Việt nam thành lập vài tháng 10/2009.
 
Nhằm phục vụ nhu cầu đi lại giữa Pháp và Việt Nam cũng như các thành phố tại châu Á trong quá trình khai thác thuộc địa, hãng hàng không Air France cũng sớm có mặt tại Việt Nam.
Không chỉ tổ chức các chuyến bay, vào tháng 6/1951, Air France góp 33,5% vốn cùng với Chính phủ Quốc gia Việt Nam (góp 50%) của Quốc trưởng Bảo Đại để thành lập Hãng hàng không dân dụng của Quốc gia Việt Nam (Air Viet Nam) với quy mô 18 triệu Piastre (tương đương với 306 triệu Franc Pháp lúc bấy giờ). Sau 1975, Air Viet Nam do Cục hàng không dân dụng quản lý. Đến năm 1993, khi Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) ra đời thì Air Viet Nam chính thức không còn.
 
Khách Sạn Continental được xây cất bởi Pierre Cazeau trong năm 1880 và mau chóng trở thành một địa điểm lưu trú sang trọng nổi bật trên bản đồ du lịch của vùng Đông Dương.
 
Khách sạn đã qua tay nhiều chủ trước khi Mathieu Franchini mua nó trong năm 1930. Dưới thời điều hành của ông, khách sạn có chuỗi ngày cực thịnh cho đến khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ năm 1954.
Vào thập niên 1960, Philippe - con trai của ông Mathieu Franchini, quay trở lại từ Pháp để điều hành khách sạn. Sau ngày giải phóng, khách sạn thuộc sở hữu của Công ty Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh (Saigontourist).
 
Năm 1950, quán cà phê kiêm bán bánh Girval ra đời ở đường Catinat, nay là Đồng Khởi, Q.1, TP HCM. Chủ quán là Alain Poitier, một thợ bánh Pháp đã sống nhiều năm ở Sài Gòn. Ông đã làm việc ròng rã suốt 8 tháng trời để tìm công thức bánh kiểu Pháp phù hợp với khẩu vị người Việt.
Hiệu bánh sau đó nhanh chóng trở thành điểm đến quen thuộc của giới trí thức và nhà báo trong và ngoài nước. Đến năm 1973, trước những biến động chính trị, người con của Alain Portier giao lại thương hiệu bánh cho giám đốc xưởng bánh người Việt và về nước.
 
 
Năm 1975, Xí nghiệp bánh kẹo Givral được chuyển giao về cho Saigontourist tiếp quản.




No comments: