À
thì ra thế! Nhưng có ai biết từ nội dung Hội thảo đến 2 bài viết của
Quang và Lịch đã chứa đựng những dối trá để che đậy tội ác chiến tranh
của Quân đội Nhân dân (miền Bắc) và của lực lượng tay sai được gọi là
“lực lượng võ trang giải phóng” (của Mặt trận Giải phóng miền Nam do
đảng CSVN dựng lên) đã gây ra cho đồng bào miền Nam nói chung, và đặc
biệt đồng bào ở Cố đô Huế trong 25 ngày đềm Cộng sản chiếm đóng chỉ để
thảm sát dân lành?
Do đó, Tướng Ngô Xuân Lịch đã không ngần ngại khoe đạt chiến thắng ở Huế bằng máu người dân vô tội. Lịch viết: “Đặc
biệt, với 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế đã khẳng định sức mạnh của
lực lượng vũ trang (LLVT) ba thứ quân, góp phần quan trọng vào thắng lợi
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền
Nam anh hùng”.
Lịch
viết bố láo như thế là bôi nhọ lịch sử và chà đạp lên những vong hồn
của các nạn nhân bị Quân đội Cộng sản thảm sát, chôn sống và hành quyết
rồi đẩy xuống các hố mồ tập thể khắp nơi trong Thành phố Huế. Bởi vì
trong suốt thời gian của biến cố Mậu Thân và ngay tại Thành phố Huế khi
bị chiếm đóng, không nơi nào có “nổi dậy” của nhân dân như Cộng sản
tuyên truyền từ trước khi tiềng súng nổ đêm Giao Thừa Mậu Thân (31 tháng 1 năm 1968). Và cũng chẳng có nơi nào dân bỏ vùng Quốc gia chạy vào rừng với Quân Cộng sản.
Như
vậy rõ ràng Lịch và guồng máy tuyên truyền của CSVN đã “bịa đặt một”
chưa dủ còn tranh thủ “ nói dối hai” mà mặt vẫn cứ trơ ra như đá!
Nhưng không chỉ có thế, Lịch còn bịa thêm rằng: “Nhận
thức rõ vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang trong chiến tranh
cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng xây
dựng LLVT ba thứ quân, nhất là xây dựng bộ đội chủ lực từng bước phát
triển lớn mạnh. Theo đó, đến cuối năm 1967, lực lượng bộ đội chủ lực
toàn miền Nam đã phát triển lên 278.000 người , được tổ chức thành 190
tiểu đoàn chiến đấu, bố trí bí mật trên khắp các chiến trường. Đây là
một trong những nhân tố tạo sức mạnh trực tiếp, quyết định thắng lợi
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; đồng thời, thể hiện
tầm nhìn và sự chỉ đạo chiến lược sắc sảo của Đảng ta về xây dựng LLVT
nhân dân trong chiến tranh giải phóng dân tộc.”
Làm gì có cái gọi là “lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam” do
chính người miền Nam lập ra? Có chăng là đa số trong đội ngũ này là của
miền Bắc được đào tạo đưa vào Nam rồi nhập chung vào với du kích miền
Nam để cùng đội mũ tai mèo, mặc quần xà lỏn, đi chân đất trông rất tồi
tệ. Đi đâu cũng khoe là “quân giải phóng”! Trong khi bộ đội chính quy từ
miền Bắc được đi dép râu bằng vỏ xe hơi và mặc quần áo do Tầu Cộng cung
cấp để cầm súng của Nga, các nước Cộng sản Đông Âu và Trung Cộng cung
cấp.
Sự
thể bộ đội miến Bắc vào Nam xâm lược Việt Nam Cộng hoà và gây ra chiến
tranh máu đổ thịt rơi từ 1955 đến 1975 thì ai không biết. Ngoài số quân
“vượt Trường Sơn theo đường mòn Hồ Chí Minh’’ xuyên qua Lào và Cao Miên
xâm nhập miền Nam từ 1960 thì trước đó, khỏang từ 30 ngàn đền 40 ngàn Bộ
đội Cộng sản được giữ lại trong Nam mà không tập kết ra Bắc theo điều
kiện của Hiệp định Geneve 1954.
Chính
đạo quân “nằm vùng” này là lực lượng nồng cốt để đảng CSVN thành lập
cái gọi là Quân đội Giải phóng và Mặt trận Giải phóng miền Nam tay sai
do đảng CSVN thành lập ra đời ngày 10 tháng 12 năm 1960.
Nhưng
đến khi xe tăng và bộ đội kéo vào các thành phố và Thủ đô Sài Gòn trước
và trong ngày 30/04/1975 thì đâu đâu cũng mang cờ của Mặt Trận Giài
Phóng miền Nam : Hình chữ nhật, mầu đỏ trên và mầu xanh dưới. Ở giữa có
ngôi sao Vàng, thay vì “cờ Đỏ Sao Vàng” của Đảng CSVN.
Vì
vậy, ngay sau khi vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975, quân CS miền
Bắc đã hạ lá Cờ Vàng 3 Sọc đỏ của VNCH xuống và thay vào lá Cờ của
MTGPMN, ngụy trang là cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam (!)
Nhưng
sau ngày chính thức thống nhất đất nước tháng 7/1976, lá cờ của MTGPMN
đã bị dẹp bỏ không kèn không trống để chỉ còn lại lá cờ Đỏ Sao Vàng của
miền Bắc CS chiếm ngự trên cả nước!
BÀI TRẦN ĐẠI QUANG
Về phần mình, Chủ tịch nước Trần Đại Quang góp phần tuyên truyền gỉa dối trong bài “Phát
huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng của cuộc tổng tiến công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân 1968 trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”.
Quang ba hoa rằng: “Cách
đây tròn 50 năm, đúng vào dịp Tết Mậu Thân 1968, dưới sự lãnh đạo tài
tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại, quân và dân ta đã đồng loạt mở cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy trên khắp chiến trường miền Nam. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử
trọng đại, tạo ra bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, viết thêm trang sử hào hùng trong lịch sử đấu tranh cách mạng
vẻ vang của dân tộc ta…
“…
Đêm Giao thừa Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã bất ngờ đồng loạt
tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, đánh vào các cơ quan đầu não
của địch ở Sài Gòn, Huế, các căn cứ quân sự của Mỹ – ngụy, các thành
phố, thị xã, đồng thời đánh địch khắp các vùng nông thôn bị tạm chiếm…”
SỰ THẬT KHÓ XÓA ĐI
Như
vậy, tất cả nội dung dành tung hô cho biến cố Mậu Thân đã không có một
chữ hay con số nào nói lên sự thật tổn thất lớn lao của Bộ đội miền Bắc
và Quân Việt Cộng trong Nam.
Vì
vậy, mãi đến năm 2013, cuốn phim tài liệu dài 12 tập “Mậu Thân 1968”
của Nhà Đạo diễn (Bà) Lê Phong Lan, chủ Hãng phim Bản sắc Việt, mới bắt
đầu chiếu trên đài Truyền hình Việt Nam từ ngày 25 tháng 01 năm 2013.
Lý do làm phim trễ vì Chính quyền Cộng sản và Bộ Quốc Phòng coi vụ Mậu Thân là “vấn đề nhậy cảm” không ai muốn nói đến.
Nhưng tại sao lại cho là “nhạy cảm”, Lê Phong Lan nói: “Vì
sao mọi người phía ta tránh nhắc đến Mậu Thân, đó là vì sự tổn thất của
quân đội nhân dân Việt Nam ở sự kiện này quá nhiều. Tâm sự với tôi khi
trả lời phỏng vấn, nhiều chỉ huy các sư đoàn dạn dày chiến trận còn khóc
nức lên vì thương lính. Đó là lý do duy nhất”.
Quả
nhiên về phương diện quân sự thì cả quân miền Bắc và du kích trong Nam
đã thiệt hại rất nặng. Theo các ước tính quân sự thì trong cuộc tấn công
Mậu Thân, CSVN đã vận động từ 323,000 đến 595,000 quân chính quy và địa
phương trong Nam để thực hiện kế họach chống lại khỏang 1 triệu 200
quân VNCH và Hoa Kỳ với dự kiến chiếm đóng nhiều vùng lãnh thổ của VNCH.
Tuy
nhiên kế họach hồ hởi của Hà Nội đã bị quân và dân VNCH được sự yểm trợ
của quân đội Hoa Kỳ đánh bại. Khỏang từ 85,000 đến 100,000 quân Cộng
sản bị loai khỏi vòng chiến, so với thiệt hại của đồng minh có trên
6,000 tử thương, ngót 30,000 bị thương và trên 1,000 quân bị mất tích.
Thương
vong thường dân, tính riêng tại Huế cũng đã có từ 5,000 đến 6,000 người
chết và mất tích, đa số bị quân Cộng sản thảm sát bằng nhiều hình thức,
kể cả chôn sống hay đập đầu cho chết vì muốn tiết kiệm đạn để chiến
đấu.
Nhưng phiá Cộng sản đã liên tiếp phủ nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho bom đạn của Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hoà gây ra.
Vì vậy, theo tường thuật của báo chí Việt Nam thì bà Lê Phong Lan cho rằng: “Thấy
trên mạng có quá nhiều thông tin sai lệch về sự kiện lịch sử này, tới
nỗi các thế hệ sinh sau 1975 không còn biết đâu là thông tin sai, đâu là
thông tin đúng vì vậy lại càng quyết tâm để làm phim.”
Nhà
văn Hòang Phủ Ngọc Tường, thành viên của Liên Minh Các Lực Lượng Dân
Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế đi theo Cộng sản trong vụ Mậu
Thân, còn đối đáp vớ Nhà báo Thụy Khuê của Đài Phát thanh Quốc tế Pháp
(Radio France International, RFI) trong cuộc phỏng vấn gần 30 năm sau
Mậu Thân như sau :
“Thụy Khuê: Nhìn từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã xẩy ra trong một trình tự như thế nào?
HPNT:
Huế Mậu Thân đã xẩy ra cách đây gần 30 năm. Sách vở, tài liệu đã được
công bố từ nhiều phía của cuộc chiến, khá đầy đủ, có thể làm cơ sở cho
những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc chiến mà thật ra, không
thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều quan trọng còn
lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi
và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những
tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành
động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là
một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và
nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.
Nhưng tôi tin
rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo
cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải một chính sách toàn cục của
cách mạng.. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xẩy
ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa bàn rộng
lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp
như ở Sài Gòn thời ấy.
Thụy Khuê: Vậy, theo anh, ai trách nhiệm những thảm sát ở Huế?
HPNT:
“Tôi không đủ thẩm quyền để phán xét bất cứ cá nhân nào. Xin trích dẫn
theo trí nhớ một ý tưởng trong hồi ký của chính ông Lê Minh, tư lệnh
chiến dịch Huế Mậu Thân: Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn
thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách
nhiệm của tôi. Qua bài hồi ký tâm huyết này, đã được công bố trên tạp
chí Sông Hương, Huế, và sau đó, nếu tôi không nhớ lầm, đã được dịch và
in toàn bộ trên báo Mỹ Newsweek, tác giả, Lê Minh (lúc đó đã nghỉ hưu),
còn nhắc nhở rằng, điều quan trọng có thể làm, và phải làm bây giờ, là
những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan
cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và
những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ.”
NHỮNG TIẾNG NÓI KHÁC
Ông Đinh Lâm Thanh, trong Bài thuyết trình trong dịp tưởng Niệm 40 năm biến cố Mậu Thân tổ chức tại Paris ngày 02.03.2008, nói :
“Tại Huế, CS lùng bắt thành phần quân-cán-chính, tập trung dân để tổ
chức đấu tố, bắn giết, chôn sống tại chỗ một số và dẫn những người còn
lại theo làm tù dân – tôi nói tù dân, vì tù là những người dân vô tội –
trước rút lui tháo chạy trước sức tấn công mãnh liệt của QLVNCH và Đồng
Minh.
Nếu
tính nạn nhân tại Huế, ngoài số quân nhân, cảnh sát, nhân viên cán bộ
hành chánh về nghỉ Tết cũng như những người sống tại địa phương làm việc
cho chính quyền Sài Gòn bị Cộng sản bắn ngay tại chỗ là 1.892 người..
Ngoài ra người ta còn tìm được 2326 tử thi thường dân trong 22 hố chôn
tập thể tại những địa điểm như Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bãi Dâu,
Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Đức, Lăng
Đồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Đông Ba, Trường An, Ninh Hạ, Trường Vân
Chí, Chợ Thông, Chùa Từ Quang, Chùa Từ Đàm, Lăng Gia Long, Đồng Di, Vịnh
Thái, Phú Lương, Phú Xuân, Thượng Hòa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Đá
Mài.
Mỗi
hố chôn tập thể từ 5, 7 người đến trên 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài.
Những nạn nhân nầy bị thảm sát một cách dã man như : Cột chùm nạn nhân
lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ tan
xác, chặt đầu, bắn vào ót, đập chết bằng bá súng, đóng cọc từ dưới bàn
tọa lên đến cổ, trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống.
Nạn nhân là thường dân vô tội tuổi từ 15 trở lên, gồm có sinh viên học
sinh, 6 linh mục là các cha Bửu Đồng, Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, cha
Guy và cha Urbain (dòng Thiên An), và cha Cressonnier (Hội Thừa sai
Paris), 5 thầy dòng gồm 3 sư huynh dòng Thánh Tâm là thầy Hec-Man, thầy
Mai Thịnh và thầy Bá Long, 2 sư huynh dòng Lasan là thầy Agribert và
thầy Sylvestre. Hai thầy dòng Lasan bị bắt và bị chôn sống chung một hố
với linh mục Bửu Đồng tại Sư Lỗ, quận Phú Thứ. Ngoài ra Cộng sản còn
giết các giáo sư đại học người nước ngoài trong lúc họ đang dạy ở đại
học Y khoa Huế và thân nhân họ hàng của những người phục vụ dưới chế độ
VNCH. Người ta ước lượng tại thành phố Huế có gần 5.000 người bị Cộng
sản giết trong vòng mấy tuần lễ.
Những
người lớn tuổi còn sống tại Huế là những nhân chứng sống. Trong đó có
hai thanh niên nguyên là học sinh trung học, nay đã 56 tuổi, trả lời
phỏng vấn của các nhà báo ngoại quốc. Người thứ nhất tên Tuấn cùng với
những học sinh khác đã bị CSBV bắt đào lỗ chôn sống 5 người tại Gia Hội
ngay trong ngày đầu tiên khi CS vừa chiếm Huế. Học sinh thứ hai, xin
giấu tên, ở Phủ Cam bị bắt đi theo đoàn tù dân đưa chôn sống ở Khe Đá
Mài. Cả hai học sinh nầy nhờ một phép nhiệm mầu nào đó họ đã thoát được
và sống sót đến ngày hôm nay.” (Khối 8406Tự do Dân chủ cho Việt Nam,
01-2009)
Hai Linh mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Hữu Giải hiện còn sống ở Việt Nam kể lại như sau:
“…tại
núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế.. Ngôi mộ này lưu giữ hơn
400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị chính quyền cộng
sản phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời…
“Trong
toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là đau
thương và đánh động hơn cả, có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng
rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng tôi,
hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt
dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu
ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự
việc kể từ lúc nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết”. (Đối
Thọai online, 17-01-2008)
Hai
linh mục Lợi và Giải cho biết họ họ gặp một nhân chứng sống lúc bấy giờ
ông ta mới 17 tuổi cũng bị bắt theo đoàn người bị đưa đi giết ở Khe Đá
Mài nhưng may mắn lợi dụng lúc đêm tối nên ông đã trốn thoát và hiện còn
sống ở trong nước đã kể lại :
“Hồi
ấy, tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình
hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy về thành phố, cư ngụ tại giáo
xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là
phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước… Khuya mùng Một rạng
mùng Hai Tết, tôi nghe tiếng súng nổ khắp nơi và được tin Việt Cộng đã
chiếm nhiều nơi trong thành phố Huế… Cả gia đình tôi cũng như nhiều giáo
dân ở Phủ Cam đều chạy đến ẩn núp trong nhà thờ để tránh bom đạn. Lính
Nghĩa quân của xã và một số quân nhân về phép chiến đấu bên ngoài để bảo
vệ đồng bào. Sau mấy ngày, không có tiếp viện nên chiều mùng 5 Tết (3
tháng 2/1968) phải rút chạy… Khuya mùng 5 Tết, Việt Cộng tràn vào nhà
thờ bắt những người từ 15 tuổi đến ngoài 50 tuổi bất kể là học sinh hay
thường dân … và tuyên bố cho đi học tập trong vòng 3 ngày sẽ trở về
trong đó có tôi… Sáng hôm sau, chúng tôi bị dẫn đi theo đường xe lửa từ
Phủ Cam ra Bến Ngự và đến chùa Từ Đàm… Tại đây tôi thấy Việt Cộng rất
đông vừa du kích địa phương vừa bộ đội miền Bắc… Ngôi nhà 5 gian thì 4
gian đã đầy người bị bắt từ mấy ngày trước, còn một gian để giam giữ
những người mới bị bắt… Tôi gặp những người quen như ông Tín (thợ chụp
ảnh), ông Hồ (thợ hớt tóc), anh Trị (con ông Ngọc người đánh đàn trong
nhà thờ), ông Hoàng (Đông y sĩ ở Chợ Xép), hai người con trai ông Thắng
(làm nghề nấu rượu nuôi heo), hai người con trai ông Vang (nhạc sĩ thổi
kèn đồng), anh Thịnh (con ông Năm), hai anh em Bình và Minh (con ông
Thục), anh Minh 16 tuổi, con ông Danh nhân viên Công Ty Thủy Điện Huế)
đều là học sinh… Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả một ngày từ sáng
tới tối không được ăn uống gì cả… Họ đưa cho chúng tôi mỗi người một tờ
giấy để viết bản khai lý lịch tên, nghề nghiệp, tên cha mẹ, sinh quán ở
đâu… Ai khai gian sẽ bị đem ra bắn… Tôi thấy một số người bị trói vào
gốc cây bồ đề và bị đem ra bắn chôn ngay trong sân chùa, trong đó có anh
Hoàng Sự (Cảnh Sát) mà tôi biết tên. Họ cho một vài người về nhắn với
gia đình tiếp thế lương thực và quần áo, thuốc men cho những người đang
bị giam giữ… Khi trời sẩm tối, họ bắt chúng tôi ra ngồi xếp hàng giữa
sân chùa. Một anh cán bộ tuyên bố:
– Anh em yên tâm, Cách Mạng sẽ đưa anh em đi học tập trong 3 ngày rồi sẽ cho về với gia đình! Bây giờ chúng ta lên đường!.
Rồi
họ dùng dây điện thoại trói tay chúng tôi ra phía sau lưng từng người
một, rồi dùng dây kẽm gai nối 20 người làm một toán. Tôi đếm được trên
25 toán như thế (tất cả 500 người). Một người địa phương đi nhìn mặt anh
em chúng tôi và nói với nhau:
– Không thấy Trọng Hê và Phú Rỗ trong số giáo dân Phủ Cam ở đây.
(Anh
Trọng con ông Hê và anh Phú là hai thanh niên ở Phủ Cam có võ nghệ mà
giới du đãng ở Huế biết tiếng. Hai anh đã chạy theo lính Nghĩa Quân xã
rút lui khi Việt Cộng vào nhà thờ! Những người bị bắt đến đây đều là dân
lành vô tội).
Họ
dẫn chúng tôi đi vào đường bên trái Đàn Nam Giao, vòng qua Dòng Thiên
An, đến lăng Khải Định, vòng phía sau trụ sở Quận Nam Hòa, ra đến bờ
sông Tả Trạch (Thượng nguồn sông Hương)… Đến bờ sông, Việt Cộng cho chặt
cây lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua sông (khu vực lăng
Gia Long), thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc (vùng núi tranh). Từ đó,
chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, ban đêm, trời lạnh lắm, khi lên đồi,
lúc xuống lũng, lúc lội qua khe… Khoảng 30 bộ đội miền Bắc dẫn chúng tôi
đi, họ dùng đèn pin hay đuốc để soi đường, chúng tôi đi trong rừng tre
nứa và cây cổ thụ dày đặc… Khoảng nửa đêm, chúng tôi được dừng lại để
nghỉ và mỗi người nhận được một vắt cơm. Chúng tôi đoán đã đi được trên
10 cây số rồi! Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng ngủ một chút
để lấy sức còn phải đi tiếp… Bỗng như có linh tính báo trước, người tôi
run lên bần bật… Tôi nghe hai tên bộ đội nói nhỏ với nhau:
– Trong vòng 15-20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn nầy!
Tôi liền ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước mặt:
– Tụi mình ráng mở dây trốn đi! Mười lăm phút nữa là bị bắn chết hết đó!
Trời mưa, dây điện trơn trợt, lát sau, chúng tôi mở được giây nhưng vẫn ngồi yên sợ chúng biết. Tôi nói nhỏ:
– Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!
Bọn Việt Cộng đánh thức chúng tôi dậy, một tên nói lớn cho mọi người nghe:
–
Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Ai có vàng, tiền, đồng hồ, bật lửa…
thì đem nộp, không được giữ trong người… Học tập xong sẽ được trả lại…”
Thế
là bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Tên bộ đội
đứng gần chúng tôi còn mang trên vai cả chục cái radio mà chúng đã cướp
được của dân ở thành phố… Một tay mang súng, một tay mang các thứ vừa
cướp được, hắn đi chậm lại cách xa mấy tên kia một quãng… Chúng tôi bắt
đầu xuống dốc, nghe tiếng nước chảy róc rách… Tôi vỗ nhẹ vai thằng bạn
và cả hai chúng tôi vung tay và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Tôi đá
mạnh và tên bộ đội mang nhiều radio… Hắn ngã nhào! Hai chúng tôi lao vào
rừng…
Trời
tối, rừng già chúng không giám đuổi theo… Khi nghe tiếng đoàn người đi
khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi chỗ ẩn núp và đi ngược trở lại… Chừng
15-20 phút sau, chúng tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng lên tiếng súng AK,
rồi lựu đạn nổ vang rền… Một góc rừng rực sáng! Chen vào đó tiếng khóc
la khủng khiếp… không hiểu sao lúc đó, tai tôi nghe rất rõ ràng… Lúc đó
khoảng 12-12 giờ 30 khuya… đầu ngày 8 Tết(6/2/1968). Về sau tôi mới biết
chỗ đó là Khe Đá Mài…” (Bài thuyết trình của cựu Dân biểu VNCH Nguyễn
Lý Tưởng tại cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam
Center (Lubbock, Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008).
NHÂN CHỨNG CỦA SỰ THẬT
Ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Cải táng Nạn nhân Cộng sản Tết Mậu Thân nói với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008:
“Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các
hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi
đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạc trói
lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô
vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do
bắn, vỡ là do cuốc xẻng…”
Vẫn
theio RFA thì Nhà báo Vũ Ánh (đã qúa cố), nguyên phóng viên mặt trận hệ
thống Truyền thanh quốc gia VNCH, đã có mặt tại Huế từ ngày 5 đến 29
Mậu Thân và đi theo nhiều nhóm tìm hầm chôn tập thể kể lại cảm giác của
ông: “Vùng nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng có nhiều hầm
chôn xác tập thể. Cảm giác của tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi
nhìn các hình ảnh đó…
“Ngay
ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1.000 người. Khui lên, đầu của họ phía
sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có
những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống”. (RFA online
ngày 1-2-2008)
Trong
bài nói chuyện tại buổi 40 năm Tưởng niệm Tết Mậu Thân, Việt Báo
Gallery, thứ Bảy 29-3-2008, Nhà văn Nhã Ca tác giả “Giải Khăn Sô Cho
Huế” nói:
“Bốn
mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai Tết, tại Cửa Đông Ba
Huế, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập, cộng sản khai diễn cuộc tàn
sát. Toán nạn nhân đầu tiên gồm 5 thường dân-không hề có người lính
Cộng Hòa nào. Tất cả bị trói, bắt đứng quay lưng vào tường thành. Dân
chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng người gục chết. Sau cuộc hành hình,
thân nhân những người bị bắn nhào ra muốn ôm xác. Họ bị đánh, bị đá, bị
đuổi. Xác người bị phơi ngày phơi đêm.. Nắng. Máu. Ròi bọ…
“Và
cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng cách chôn sống.
Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên hố. Một
vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên
nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng ngàn
người. Bạn tôi, chị Tâm Túy cũng đã bị chôn sống. Khi xác đào lên, thấy
hai tay chị vói lên như đang cố cào bới đất. Móng tay, móng chân mọc dài
hơn. Tóc mọc dài hơn…Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống”.
“Huế Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống như thế”. (Việt Báo ngày 31-3-2008)
Cư sĩ Trí Lực, người đã chôn cất những xác chết nằm lại sau biến cố Mậu Thân kể lại với RFA về nỗi kinh hoàng của ông:
“Hai
mươi sáu ngày sau, sau khi Cố đô Huế bình định trở lại thì tôi tận mắt
chứng kiến những hầm chôn tập thể được khai quật lên từ vùng Bãi Dâu Gia
Hội, những người xấu số đã bị trói quật lại sau lưng và có những mảnh
xương sọ bị vỡ nát.Cảnh kinh hoàng là cộng sản đã chon sống bao nhiêu
người dân vô tội.”
“Nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, cũng là chứng nhân của biến cố Mậu Thân kể:
“Gia
đình của tôi vùng Phủ Cam là một, vùng An Vân Thượng là hai, Gia Hội là
ba. Bà con xa bà con gần của bên họ ngoại của tôi gồm cả thảy 12 người.
Trong 12 người đó, có người bị chôn sống, có người bị bắn tại chỗ, có
người bị chặt đầu, có người bị mổ bụng”. (RFA online ngày 7-2-2012)
Ông
Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên Huế kể lại trong“cuộc
hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam Center (Lubbock,
Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008”: “Mồ chôn tập thể: Các nạn nhân bị
thảm sát tại Huế và Thừa Thiên được tìm thấy tại trường tiểu học Gia
Hội, chùa Therevada, Bãi dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng Viện, khu vực phía Tây
Huế gần lăng Tự Đức và lăng Đồng Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa Đông
Ba, trường An Ninh Hạ, trường Văn Chí, Chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần lăng
Gia Long, gần chùa Tường Vân, Đông Gi (Di), Vinh Thái, Thủy Thanh, Lương
Viện, Phù Lương, Phú Xuân (Phú Thứ), Thượng Hòa, Vinh Hưng, Khe Đá Mài…
tất cả 23 địa điểm tại tổng cộng 2326 xác chết (sọ người). Còn khoảng
trên 3,000 nạn nhân thuộc tỉnh Thừa Thiên và Huế đã được thân nhân xác
nhận là chết hoặc bị bắt đi thủ tiêu, mất tích… không biết họ đã bị giết
chết và chôn xác ở đâu?!
Dã man nhất là tại Khe Đá Mài
(thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên) Việt
Cộng đã dùng súng trung liên, đại liên, lựu đạn và mìn giết tập thể các
nạn nhân, vất xác xuống dưới khe, lâu ngày thịt thối rữa bị nước cuốn
đi, chỉ còn 428 sọ người, xương người dồn lại một đống. Người ta đã dựa
vào các dấu vết còn lại của nạn nhân như áo len, tượng ảnh, giấy căn
cước bọc nhựa(ID)… để biết được thân nhân của mình đã chết ở trong đống
sọ và xương lẫn lộn đó. Đa số những nạn nhân nầy là giáo dân bị bắt ở
nhà thờ Phủ Cam vào đêm mùng 5 Tết (3 tháng 2/1968) Người ta cũng tìm
thấy vết tích của hai ông Lê Hữu Bôi (chủ tịch sinh viên Phật tử năm
1963) và Lê Hữu Bá (sĩ quan Quân Cảnh) tại Khe Đá Mài. Các em học sinh
như Bùi Kha (16 tuổi), Phan Minh (16 tuổi), Nguyễn Duyệt(17 tuổi) và
nhiều bạn trẻ khác thuộc giáo xứ Phủ Cam cũng bị VC giết hại tại đây…”
LÊ PHONG LAN CÓ NÓI THẬT?
Trái
với những lời kể này, nhà làm phim tuyên truyền cho đảng, Bà Lê Phong
Lan cho biết bà đã phỏng vấn ông Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư đảng khoá
VIII – người từng là chỉ huy một trung đội trong sự kiện Mậu Thân 1968
tại Huế; lãnh đạo Thanh niên phật tử tranh đấu ở Huế theo Cộng sản nhà
nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân; nhà báo Mỹ Stanley Karnow, cựu phóng viên tờ
Washington Post Don Lux; GS sử học Larry Berman, và cả những người lính
từ hai phía.
Bà nói:
“Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin bị làm méo mó. Vào thời
điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã tìm
hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như phía Việt Nam
Cộng hòa đưa ra. Câu chuyện của những nhân chứng có thẩm quyền đã làm
sáng rõ: cái gọi là “cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến mà
Mỹ dựng lên, thực tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân chết
cùng với quân giải phóng và lính Mỹ.”
Nhưng,
theo ông Trương Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng hòa miền Nam Việt
Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở Pháp),
thì: “ Trong cuộc chiếm đóng Huế, một số lớn người đã bị xử tử vì
thuộc thành phần phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa (viên chức,
cảnh sát, sĩ quan, chính trị gia, địa phương quân…) nhưng cũng có người
bị giết mặc dù không tham gia chiến trận.” Ông dẫn lời một người bạn rằng: “ Do
kỷ luật kém ở một số đơn vị, một số thường dân cũng nhân dịp hỗn loạn
để trả thù nhau nên đã có những vụ giết hại vô cớ. Một bản báo cáo của
Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25 tháng 4 năm 1968 ghi nhận,
họ đã “diệt 1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, 790 tên ác ôn, sáu
đại uý, 1 trung uý, 20 thiếu uý và nhiều sĩ quan trừ bị…” trong cuộc
chiếm đóng Huế.” (Tài liệu trích theo Hồi ký của ông Trương Như Tảng trên Internet)
Ngòai ra, báo cáo chính thức sau Mậu Thân ở Huế còn cho biết : “Một
vụ thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người Đức
sang giảng dạy và làm việc tại trường Đại Học Y Khoa Huế. Trong bài viết
“The Vietcong Massacre at Hue,” xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên
Elje Vannema, kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ
Raymund Discher cùng Alterkoster đã bị giết trong tháng Hai năm 1968
tại chùa Tường Vân hoặc một vùng đất nhiều cây cối cách chùa chừng nửa
dặm, nơi người ta tìm thấy thi hài của các nạn nhân. Bác sĩ người Pháp,
có tên Le Hir khám nghiệm tử thi các nạn nhân cho biết có dấu vết đạn
xuyên qua đầu và ót..”
GIẾT NGƯỜI GIỮA ĐÊM GIAO THỪA
Hồi
tưởng lại biến cố Mậu Thân đẫm máu do người Cộng sản gây ta cho nhân
dân miền Nam 50 năm trước, không một người Việt Nam nào có thể quên ngày
ấy. Giữa đêm Giao thừa thiêng liêng của dân tộc Tết Mậu Thân (1968),
Quân đội Cộng sàn miền Bắc và lực lượng võ tranh tay sai Việt Cộng (của
MTGPMN) đã tung quân tấn công 41 thành phố, thị xã và 72 Quận lỵ, kể cả
Thủ đô Sài Gòn và cố đô Huế của Việt Nam Cộng hòa.
Ít
người Việt nào muốn gợi lại những đau thương, đổ vỡ của chiến tranh,
nhất là cuộc thảm sát trên 3,000 trong số gần 6000 thường dân bị thiệt
mạng trong 25 ngày Cộng sản chiếm đóng thành phố Huế của binh lính Cộng
sản. (có tài liệu nói 26 ngày).
Nhưng
đảng và nhà nước CSVN lại coi biến cố đau thương này là một “chiến
công” phải ăn mừng và tổ chức lễ hội như đã diễn ra trừ dạo kỷ niệm 40
năm.
Bằng chứng như ta thấy báo Công an Thành phố Sài Gòn loan tin ngày 13-11-2007: “Ban
Bí thư TW Đảng có thông báo về việc tổ chức kỷ niệm trọng thể 40 năm
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân – 1968. Bộ Quốc phòng được
giao nhiệm vụ phối hợp với Tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế tổ chức hội thảo
khoa học cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân-1968. Thành phố Hồ
Chí Minh phối hợp với Bộ Quốc phòng tổ chức mít tinh trọng thể cấp Nhà
nước tại thành phố. Các tỉnh từ Quảng Trị trở vào tổ chức gặp mặt truyền
thống, tọa đàm về chiến thắng này. Tổ chức các hoạt động văn hóa, du
lịch, giúp đỡ cá nhân có thành tích trong cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu
Thân hiện còn khó khăn.”
Nguyễn Đình Ước, Trung tướng Cộng sản viết trên báo Nhân Dân ngày 8-1- (2008): “Cuộc
tiến công Tết Mậu Thân đi vào lịch sử là một sáng tạo độc đáo của cuộc
chiến tranh cách mạng Việt Nam thể hiện một đỉnh cao ý chí và trí tuệ
của Việt Nam trong cuộc chiến tranh nhỏ thắng lớn. Dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quân và dân ta đã đánh thắng oanh
liệt một cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất của một tên đế quốc lớn nhất
trong thế kỷ thứ 20”.
Có
“độc đáo”, “oanh liệt” hay không thì Ước cần đọc lại những lời tuyên bố
nhìn nhận Bộ chỉ huy Cộng sản đã tính tóan sai lầm trong vụ tấn công
quâns ự Mậu Thân của Trần Văn Trà, Trung tướng.
Ước
cũng nên tự vấn lương tâm tại sao đảng CSVN đã lên án, tuyền truyền rùm
beng vụ Quân đội Mỹ can tội thảm sát người dân vô tội tại ấp Mỹ Lai mà
không dám nhìn nhận cuộc tàn sát đẫm máu dân thường và các viên chức
VNCH của lính Cộng sản ở Huế.
Ông Douglas Pike, một chuyên viên về Cộng sản Việt Nam nổi tiếng của Mỹ viết: “Một
cách tự nhiên, những điều xảy ra ở Huế là vài sự thống kê mau lẹ và
nhạy cảm. Cuối cùng, lực lượng quân sự Cộng sản lên tới 12 ngàn người đã
tấn công Huế ngay đêm mồng một tết (30 tháng 1 năm 1968), chiếm thành
phố 25 ngày và cuối cùng bằng hành động quân sự họ bị đánh bật ra khỏi
nơi họ chiếm đóng..”
“Trong
trận tấn công nầy, 5 ngàn 8 trăm người dân thường bị giết và mất tích.
Đến bây giờ tất cả họ coi như đã chết. Từ đó, thi hài họ được tìm thấy
lẻ tẻ hay trong những ngôi mộ tập thể ở những vùng chung quanh Huế –
Trung tâm văn hóa Việt Nam – thuộc tỉnh Thừa Thiên.”
“Đó
chỉ là những dữ kiện chính yếu, những thống kê quan trọng, chẳng vui gì
khi nói về Huế, là điều được viết xuống bằng thứ ngôn ngữ bình thường
của báo chí, rõ ràng chẳng gây được ấn tượng gì cho tinh thần và lương
tâm của nhân loại. Chẳng có tiếng thét đầy uất hận nào! Và các tòa đại
sứ của Cộng sản Bắc Việt Nam trên thế giới đều im hơi lặng tiếng.” (Tuệ Chương dịch).
Như
vậy, dù muốn che cho bằng được để lãng quên, nhưng lịch sử và sự thật
của máu đổ thịt rơi ở Thành phố Huế 50 năm trước vẫn còn tươi rói. Lời
kể của các nhân chứng đã nói lê sự thật không thể chối cãi.
Vì
vậy, dù có mồm loa mép giải đến đâu thì 50 năm sau thảm họa Mậu Thân,
người Cộng sản vẫn không thể xóa đi tội ác họ đã gây ra cho nhân dân
miền Nam, vì những dòng máu oan khiên của hàng ngàn đồng bào vẫn chưa
khô trên thành phố Huế.
Source: https://baotiengdan.co m/2017/12/31/50-nam-mau-van-ch ua-kho-tren-thanh-pho-hue-1968 -2018/