Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chánh Pháp. Ngày 11/3/1945 vua Bảo Đại xé hòa ước
1884 và tuyên bố Việt Nam độc lập đồng thời chấp thuận cùng Nhật nằm trong
khối Đại Đông Á. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập 17/4/1945 gồm
những thành phần trí thức yêu nước. Chính phủ thực hiện những chương trình
đáng kể trong giai đoạn nắm quyền: sửa đổi hành chánh, hợp nhất hai
chính quyền bảo hộ và Nam triều, thay thế công chức Pháp bằng công chức
Việt, ra lệnh dạy tiếng Việt tại các trường trung tiểu học, dự định thống
nhất luật pháp ba kỳ để tránh lạm quyền về hành chánh và tư pháp, tổ chức
đoàn Thanh Niên Tiền Phong, chiến dịch chống nạn đói tại miền Bắc (Việt Sử
A/B, nxb Trường Thi, Saigon, 1974).
Sau vụ 2 trái bom nguyên tử Mỹ thả tại Hiroshima và Nagasaki vào đầu
8/1945, miền Bắc Việt Nam rơi vào một lỗ hổng chính trị (political
vacuum). Việt Minh lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh(HCM) lợi dụng tình thế và cướp
chính phủ Trần Trọng Kim vào 17/8/1945 và sau đó làm cuộc tập họp lớn hơn
vào 19/8/1945 tuyên bố cướp chính quyền.
Đại sứ Pháp Jean Sainteny được máy bay Mỹ đưa tới Hà Nội vào 22/8/1945
cùng với một số người trong cơ quan tình báo OSS của Hoa Kỳ, trong đó có
chỉ huy trưởng Archimedes Patti. Nước Pháp bị kiệt quệ sau vụ quân Đức
chiếm đóng. Sainteny phải dựa vào sự giúp đỡ của người Mỹ.
Captain Ray Grelecki kể lại những điều xảy ra khi vừa tới Hà Nội. Những
cán bộ Việt Minh đã vui mừng tiếp đón ông một cách thân mật. Đại diện cao
cấp OSS ở miền Bắc là Archimedes Patti, trong Nam ông Peter Dewey. Các ông
chỉ huy OSS thì được nhận xét là còn quá trẻ, thiếu kinh nghiệm, không
hiểu nhiều về tình hình Đông Dương nên đã có những hành động làm lợi cho
HCM. Tuy nhiên, sau này khi Patti viết cuốn Why Vietnam và trả lời phỏng
vấn ông đã đưa ra cách nhìn khá sáng tỏ mà trước đó ông rất ác cảm với
người Pháp.
Phe HCM đã vận động ráo riết, nhất là với Patti, để mong Hoa Kỳ công nhận
khi tập đoàn ra mắt “chính phủ”. Ngày 26/8/1945, một phái đoàn hướng dẫn
bởi Võ Nguyên Giáp kéo nhau tới tư thất ông Patti để níu kéo ông “hợp tác”
bằng cách trỗ cờ và quốc ca Hoa Kỳ. Những tấm hình được chụp tại hiện
tượng này được phổ biến choViệt Minh và người dân về một “thế lực ngoại
giao”, nhưng ít ai thấy ra mưu đồ trong việc sắp xếp đó. Hơn nữa, người
miền Bắc ngay lúc đó đang ngưỡng mộ Hoa Kỳ, một cường quốc giàu có thắng
thế chiến thứ 2, dẹp bọn phát xít Nhật.
Người Mỹ tới Hà Nội 1945 nhìn thấy nạn đói
(Uncle Ho Uncle Sam)
(Why Vietnam, page 234)
Đám đông vĩ đại ngày 2/9/1945 tại sân Ba Đình đa số họ không biết HCM là
ai, một tên họ rất xa lạ. Họ những tưởng có người Mỹ tham dự cùng đứng
trên kháng đài với HCM vì trước đó một tuần, tức 26/8/1945, có cuộc
meeting “hoan hô phái bộ đồng minh” mà Việt Minh kêu gọi dân chúng
ra thật đông để ủng hộ người Mỹ. Trong sách ông Patti có kể lại rằng ông
được lệnh không ra dự. Thế là, như hình trên, chúng ta thấy cả phái đoàn
trong ban tổ chức phải kéo tới tư thất của Patti để chụp hình. Patti còn
xác nhận là Hoa Kỳ không phải “đồng minh” với Việt Minh. Hai chữ “đồng
minh” này cũng được cán bộ mang vào Nam cùng hình ảnh để chiêu dụ thêm
người theo cộng sản.
Kiểm điểm kỹ thì chỉ có một nhóm nhỏ thuộc OSS đứng dưới cùng đám đông
ngày 2/9, trong đó có Patti và Grelecki. Máy bay Mỹ thì lượn qua lại để
quan sát mà thôi. Thật ra, một điều vô cùng quan trọng đối với HCM là được
Hoa Kỳ công nhận, nhưng không thể có chuyện đó vì Hoa Kỳ và phe Anh Pháp
đã thấy ra làn sóng đỏ, mà Nguyễn Ái Quốc đang đại diện tại Đông Dương.
Ngay vào 22/ 8/1945 khi Sainteny và Patti vừa tới Hà Nội thì đã thấy cờ đỏ
sao vàng, cùng nhiều biểu ngữ ủng hộ Đảng Lao Động núp danh. Trên lý
thuyết Đảng Lao Động ra đời 1951.
Vào 3/1945 khi HCM gặp viên chức OSS Charles Fenn để nhờ giới thiệu gặp
tướng Mỹ Claire Chennault để xin hình, ông Fenn đã nghe ngóng tin rằng HCM
là cộng sản nên hỏi HCM có phải là cộng sản không thì Hồ trả lời không, và
Hồ cũng từ chối nếu ai nói Hồ chống Pháp.
Tình báo Mỹ đã có những làm việc với HCM sau vụ trung úy phi công Mỹ,
Rudolph Shaw, đáp xuống vùng Việt Minh khi máy bay bị hỏng vào 11/11/1944.
Trước đó vào 8/1942 khi HCM bị phe Tưởng Giới Thạch bắt giam, ông Gauss là
đại sứ tại Chungking đã thông báo Bộ Ngoại Giao để điều tra về HCM.
The American also knew about Ho, and had done so since the autumn of 1942,
long before his release from the imprisonment – Người Mỹ cũng đã biết về
ông Hồ từ mùa thu năm 1942, thời gian dài trước khi ông ta được thả ra từ
trại giam (Britain in Vietnam, Peter Neville, 2007, page 49).
Tổng thống Truman nhận thấy rõ mối đe dọa cộng sản ở Âu Châu và Đông
Dương. Hội nghị Potsdam hồi tháng 7 đã cho thấy sự hỗ trợ ngầm của Hoa Kỳ
cho Pháp tái chiếm dù chưa hoàn toàn chính thức.
Ngày 2/9/1945, HCM đọc những lời của Thomas Jefferson trong Tuyên Ngôn Độc
Lập của Hoa Kỳ 1776, mà trước đó vài ngày Hồ đã nhờ ông Patti kiểm duyệt
xem có nên đọc hay không. Patti cảm thấy hơi bị xúc phạm vì đó là thuộc
quyền sở hữu của Hoa Kỳ, nhưng không có luật lệ gì cấm người khác dùng
những lời đó đọc trước công chúng. Có lẽ ông Hồ này ngu ngơ (inane, chữ
của Patti dùng).
Khi trên sân khấu khán đài diễn ra màn ca ngợi Mỹ thì dưới đám đông những
toán diễn hành trong sắc phục lần lượt lướt qua lướt lại trước mặt vài
người Mỹ này. Không những một vài lần mà nhiều lần như vậy, đến mức ông
Grelecki phải bực mình. Ông biết Việt Minh nhìn các ông như là biểu tượng
đại diện cho Hoa Kỳ nên đặc biệt gây sự chú ý cho người xem phim. Biểu ngữ
trưng tại gần khán đài ghi là “THE DOC LAP” nửa tiếng Anh, nửa tiếng Việt
– một loại ngôn ngữ ngoại lai mất gốc mà HCM sáng chế sau 30 năm lăng xăng
sống ở nước ngoài. Hồ còn ngạo mạn đổi chữ d thành z, chữ c thành k, chữ y
thành i, v.v..
(Uncle Ho, Uncle Sam)
Grelecki: People were coming from jungle, from country… Here we were
symbolically a few American. They went over and over… Who else would they
want reviewing the parade? I am American and captain Patti an American.
Symbolically I represented my country.
Hội nghị Potsdam xảy ra từ 17/7/1945 -2/8/1945 cho phép Pháp với con số 62
ngàn quân vào Đông Dương. Tướng Anh Douglas Gracey trách nhiệm giải giới
tàn quân Nhật tại miền Nam. Sau khi mở cỗng nhà tù cho quân Pháp ra (bị
Nhật nhốt) thì sau đó 23/9/1945 đã có một trận tấn công lớn của quân Pháp
đối với Việt cộng tại Saigon. Sự kiện này được cho thấy tướng Gracey đã
giúp Pháp thực hiện.
Đại Úy Grelecki chỉ là một viên sĩ quan tầm thường như ông đã nói. Kiến
thức về cộng sản nói chung thời đó người trẻ như Grelecki và Patti còn
giới hạn. Ông kể khi trở về Hoa Kỳ, ông có tới trình diện tại War
Department cùng với những tường trình (reports). Một viên chức tại đây gọi
ông là “con” (son) với ngụ ý là rất còn non kém – Son, you don’t
understand the big picture!
Grelecki được chỉ dẫn và nhìn thấy những tài liệu mà thế giới cộng sản
đang rao truyền: kế hoạch của cộng sản về sự tấn chiếm xâm lăng (communist
blueprint for conquest), những mạng lưới chằng chịt hăm dọa sẽ tiêu
diệt nước Hoa Kỳ ( Vast networks throughout the free world threatened
to destroy the United States)…
(Uncle Ho Uncle Sam)
The big picture! Hình ảnh bi thảm to lớn sau đó là cuộc chiến tranh lần
thứ nhất kéo dài 8 năm tại Đông Dương xảy ra tại miền Bắc Việt Nam, và
tiếp theo là 20 năm hai miền máu đổ anh em giết nhau chỉ vì Hồ thực hiện
công tác cho quốc tế cộng sản, rồi kéo dài cho tới ngày nay giai đoạn mất
nước vào tay đàn anh Trung Cộng.
Bùi Diễm: It was difficult for us to accept it. We never thought that the
French could come back parading on the street of Hanoi – Rất là khó cho
chúng tôi chấp nhận việc này. Chúng tôi đã không bao giờ nghĩ rằng người
Pháp có thể trở lại với đoàn quân phô trương trên đường phố Hà Nội.
Người dân ngỡ ngàng đứng trong nhà nhìn ra
đoàn quân Pháp trên đường phố Hà Nội
(Uncle Ho Uncle Sam)
Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp tiếp rước quân
Pháp về Hà Nội ngay sau khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946.
(HCM a Biography, documentary film, 1966, Walter Cronkite)
(Không biết ông Bùi Diễm có biết đoàn quân Pháp rần rộ trên phố Hà Nội lúc
đó vào 3/1946 là do HCM và Võ Nguyên Giáp tiếp rước mang về? Họ được lệnh
trở về Việt Nam tiếp tay với HCM sau khi quốc hội Pháp do Đảng Cộng Sản và
Xã Hội nắm quyền làm ra Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946. Dĩ nhiên, trong phim khi
được phỏng vấn, ông Bùi Diễm nói đúng vì không ai có thể chấp nhận chuyện
trở lại của người Pháp với tính cai trị sau khi vua Bảo Đại đã xé hòa ước
1884 vào 11/3/1945. Người dân Hà Nội gọi rằng “HCM bán nước!” Sỡ dĩ đặt
câu hỏi cho cựu đại sứ Bùi Diễm vì cách nay không lâu, vào 5/2013 trên tờ
Việt Tide có bài của ông Bùi với tựa đề “ Quan điểm của một người Việt
về sự tham chiến của Hoa Kỳ ở Việt Nam” trong đó ông cho rằng người
Pháp vì “tham lam” nên trở về tái chiếm.)
Trong phim có nói hơn 6 ngàn dận bị chết trong giai đoạn Pháp chiếm đóng
này. Nên ghi nhận rằng từ 3/1946 ít nhất cho tới 10/1946 Võ Nguyên Giáp
hợp tác với quân đội Pháp lãnh đạo về quân sự để tàn sát những phe cánh
quốc gia chống lại cộng sản.
Thời de Gaulle (1945) như kể trên đã có chương trình tái chiếm nhưng không
chính thức qua hội nghị Potsdam; nhưng tới 9/1946 thì ngòi nổ thực sự xảy
ra khi thủ tướng Georges Bidault thuộc khối bảo thủ nắm quyền nước Pháp
trong chính phủ lâm thời. 12/1946 cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh bắt
đầu xảy ra chính thức và tái chiếm Việt Nam dưới thời của Leon Blum, một
người có chiều hướng thiên tả.
Ngay lúc HCM ở Pháp vận động trong giai đoạn hội nghị Fontainebleau, nhiều
đảng viên cộng sản Pháp cũng đã xa lánh Hồ vì nhiều lý do: HCM không dám
nhận mình là cộng sản nên mới có “nghiên cứu Mác Lê”, “Đảng Lao Động”, và
nhất là họ khinh ghét khi Hồ gia nhập Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa làm thành
viên nằm trong khối Liên Hiệp Pháp thuộc nước Pháp mẹ mà khối thiên tả
đang nắm quyền. Trước đó họ nghĩ HCM là người quyết tâm giành độc lập cho
xứ của ông ta, nay lại nạp mình hoàn toàn lệ thuộc nước Pháp sau vụ ký
Hiệp Ước Sơ Bộ.
Đại úy Grelecki đã kết thúc ở đoạn cuối phim khi nhận thức ra một hình ảnh
lớn, một đại họa do cộng sản gây ra, mà thới đó, 1945, ông đã không đủ
kiến thức để biết, nhưng ít nhất là nhân chứng của ngày 2/9/1945 ông đã
nhận thấy một cái gì đó có vẻ tính toán với đầy âm mưu của phe cánh HCM
khi náo nức ca ngợi, đón tiếp chào mừng người Mỹ. Tất cả chỉ mong được
chính phủ Hoa Kỳ “công nhận”. Để rồi nhiều năm sau người ta mới thấy rõ
hơn bản chất cắc kè và xanh vỏ đỏ lòng của người quốc tế cộng sản sừng sỏ
HCM.
Grelecki: Who else? I think it is natural for him to go to uncle Sam -Còn
ai nữa? Tôi nghĩ là rất tự nhiên khi ông ta tìm đến chính phủ Hoa Kỳ.
(Uncle Sam, a nick name of the US federal government -Samuel Wilson, a
rich merchant in New York in 18th century).
Bác Hồ (uncle Hồ) được sử gia giáo sư Bernard Fall cho rằng HCM tự đặt cho
mình. Ông Fall nhận xét về HCM : một người rất giảo quyệt, khi ra lệnh
hành quyết (execution) những đồng chí của ông ta, ông ta đứng xa để tránh
tiếng; một người không có trái tim á đông mà với bộ óc sắt đá được huấn
luyện từ phương Tây; ông ta làm việc không ngừng nghỉ để đạt mục đích…(HCM
a Biography, 1966, Walter Cronkite)
Một uncle thì giàu có, hùng mạnh, đại diện cho khối tự do, một uncle thì
cứ lúc nào cũng van xin nài nỉ. Bộ phim cho thấy hình ảnh hai thái cực như
trắng với đen, như tự do với độc tài. Thời đó, ngoài việc HCM muốn Hoa Kỳ
công nhận, ông ta còn muốn được viện trợ về kinh tế nữa, nhất là giúp nạn
đói triền miên kéo dài tại miền Bắc nhiều năm. Có ít nhất 10 lá thư Hồ
viết gởi tổng thống Truman và các viên chức cao cấp Hoa Kỳ, nhưng tất cả
không được trả lời.
Tóm lại, vào giai đoạn vừa cướp chính quyền và thành lập chính phủ liên
hiệp, bề ngoài thì hợp tác với một vài thành phần thuộc các đảng phái quốc
gia, biểu ngữ hoan hô nghinh tiếp người Mỹ tại Ba Đình ngày 2/9/1945…Tất
cả chỉ là hợp tác giai đoạn để thực hiện kế hoạch lâu dài.
Bút Sử
Sources: Uncle Ho Uncle Sam, documentary film,1998, BBC; Ho Chi Minh A
Biography, documentary film, 1966, Walter Cronkite; Britain in Vietnam,
2007, Peter Neville; Why Vietnam, 1980, Archimedes Patti; Việt Sử 12A/B,
nxb Trường Thi, 1974, Saigon.
"... Không có ông Hồ Chí Minh du nhập
chủ nghĩa CS vào Việt Nam thì không có Hiệp Định Genève chia đôi đất
nước, không có "ta vào Nam nổ súng là đánh cho Liên xô, Trung Quốc" (Lê
Duẩn) với 20 năm cốt nhục tương tàn, gần 3 triệu người nằm xuống vô
nghĩa (so Nam Hàn với hàng trăm ngàn người Việt đang làm nô lệ hiện nay)
và quan trọng là không có hành vi tập thể "vô đạo"chưa từng có trong
lịch sử nhân loại là con tố cha, em tố anh, vợ tố chồng, trò tố thầy, để
CSVN trực tiếp giết chết cho 172.000 (tư liệu CCRĐ của CSVN) đồng bào vô
tội...".
Hiệp Định Genève 1954 - Như vết thương thầm
lặng, mãi vẫn "mưng mủ" chưa bao giờ lành trong tâm thức người dân Việt,cứ mỗi trung tuần tháng 7 hàng năm (20/7) như trái gió trở trời lại làm
nhói đau trái tim nhiều chục triệu đồng bào chúng ta trong một câu hỏi:
Tại sao Đông Nam Á hàng chục quốc gia chỉ duy nhất Việt Nam là phải có
Hiệp Định chia đôi đất nước gây ra đẫm máu và nước mắt ấy và nếu không
có cái hiệp định đó thì quốc gia chúng ta sẽ như thế nào? câu hỏi này
trăn trở trong tư duy những công dân trẻ từ 19 đến 29 tuổi (sinh sau
1975) chiếm 1/3 dân số hiện nay mà vì lý do "nhạy cảm" của chế độ CS khá
nhiều bạn trẻ trong số này chưa có điều kiện tiếp cận Iternet hay bị
nhồi nhét khẩu hiệu tuyên truyền duy nhất "Đảng ta anh hùng giải phóng
dân tộc" nên đôi khi chưa đối diện với chân lý, bản chất của sự thật.
Có hàng ngàn tư liệu, nhiều nguồn, nhiều
khuynh hướng khách và chủ quan tỉ mỉ khác nhau trong góc nhìn về Hiệp
Định Genève 1954 nhưng tựu trung nổi bật lên dễ nhận diện ra nhất đó là:
"...Không có ông Hồ Chí Minh du nhập
chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam thì không bao giờ có Hiệp Định Genève
chia đôi đất nước".Dù
hiện nay thứ chủ nghĩa CS ngoại lai không dị ứng với "máu" người này đã
sụp đổ, nhân loại nguyền rủa, nhưng di luỵ trầm luân của nó vẫn còn đeo
đẳng dân tộc VN đến tận ngày nay, nỗi thống khổ vẫn chưa chưa dứt được.
Đây là sự khẳng định tuyệt đối thách thức
mọi sự phản bác, bởi nó chứng minh từ tư liệu lưu trữ tàng thư trong văn
khố Nga, Trung, Pháp, Nhật và Hoa Kỳ với nhân chứng vật chứng cùng thời
điểm từ quá khứ tại Việt Nam còn tồn tại để không có chất "cường toan"
nào tẩy xoá nỗi một sự thật, mà CSVN cứ cố tình trắng trợn bịp bợm lừa
gạt nhân dân mình.
Mới đây, ngày 4/7/2014, Ban Tuyên giáo
Trung ương CSVN đã ban hành Hướng dẫn số 128-HD/BTGTW tuyên truyền kỷ
niệm 60 năm Ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam
(20/7/1954-20/7/2014)
MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU (của Ban Tuyên giáo Trung
ương CSVN)
"… Giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận
thức sâu sắc về vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và những thắng lợi vĩ đại của cách mạng
Việt Nam, đặc biệt là trên mặt trận ngoại giao… Qua việc đảng CSVN với
Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết Ngày 20
tháng 7 năm 1954 (!??) (*)
Chỉ có bản chất lưu manh bịp bợm vì vinh
hoa phú quí quyền lợi con cháu cá nhân đảng phái bầy đàn mới vô liêm sỉ
nói khác hơn một sự thật từ khách quan của lịch sử? Những dữ kiện sự
thật mà ai cũng biết trừ Chế độ CSVN là không muốn mọi đảng viên và nhân
dân công khai mổ xẻ để biết tường tận.
Chúng ta thử nghiệm suy xem "thắng lợi vĩ
đại" đó nó như thế nào??
Khi châu Âu, giữa đệ nhị thế chiến, đế quốc
thực dân Pháp bị đoàn quân phát xít Đức xâm lược đánh bại chiếm đóng,
kéo theo thực dân Pháp phải mất quyền kiểm soát tại Đông Dương (Việt
Miên Lào) và quyền này rơi vào tay quân Nhật, năm 1941.
Ngày 9/3 năm 1945, khi tình hình chiến tranh
Thái Bình Dương thay đổi bất lợi, Nhật đổi chính sách và đảo chính Pháp,
bắt giam các tướng lãnh và tước khí giới của quân đội Pháp ở Đông dương.
Đại sứ Nhật ở Đông Dương là Matsumoto
Shunichi giao trách nhiệm cho đại
diện Pháp là Toàn
quyền Đông DươngĐô
đốcJean
Decoux ra tối
hậu thư đòi người Pháp phải chấp
nhận vô điều kiện quyền chỉ huy của Nhật trên mọi phương diện.
Tại kinh đô Huế,
đại úy quân đội Nhật Kanebo
Noburu vào yết kiến trình báo cho vuaBảo
Đại biết quyền lực của thực dân
Pháp đã chấm dứt trên toàn cõi Đông Dương . Cùng chiều hướng đó Đế
quốc Nhật Bản thoả thuận trao trả
độc lập cho Việt Nam.
Hai ngày sau, 11
Tháng Ba năm 1945, vua Bảo Đại
triệu cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama
Masayuki vào điện
Kiến Trung để tuyên bố: Nước Việt
Nam độc lập. Cùng đi với Yokoyama là tổng lãnh sự Konagaya
Akira và lãnh sự Watanabe
Taizo. Bản tuyên ngôn đó có chữ ký
của sáu vị thượng
thư trong Cơ
mật Viện là Phạm
Quỳnh, Hồ
Đắc Khải, Ưng
Úy, Bùi
Bằng Đoàn, Trần
Thanh Đạt, và Trương
Như Đính, chiếu chỉ đề ngày 27
Tháng Giêng ta năm thứ 20 niên
hiệu Bảo Đại (nguyên văn):
"Cứ theo tình hình thế giới nói chung và
hiện tình Á Châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ ngày
hôm nay, Hoà
ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được huỷ bỏ và vô hiệu hoá.
Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia Độc lập".
Theo đó triều đình Huế hủy bỏ Hòa
ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 (vốn
áp đặt nền bảo
hộ thực dân lên toàn cõi nước
Việt). Tiếp theo Vua Bảo Đại ban hành Dụ số 1 ra ngày 17
tháng 3/1945 lấy khẩu hiệu "Dân Vi
Quý" ( 民爲貴)
làm phương châm trị quốc. Nhà sử học Trần
Trọng Kim được nhà vua triệu ra
Huế giao nhiệm vụ thành lập nội
các mới.
Đây là chính
phủ đầu tiên của nước Việt Nam
(không kể các triều đại phong kiến và chính phủ bảo hộ của Pháp trước
đó) và ông Trần Trọng Kim trở thành thủ
tướng đầu tiên của Việt Nam. Với
nội các tập hợp được những trí thức có danh tiếng trong nhân dân lúc bấy
giờ, thành phần nội các ra mắt quốc dân ngày 19 tháng 4/1945 trong đó
các vị trí quan trọng gồm có những nhân sĩ:
Bác sĩ Trần
Đình Nam - Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Luật sư Trịnh
Đình Thảo - Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Kỹ sư Lưu
Văn Lang - Bộ trưởng Công chính
Bác sĩ Hồ
Tá Khanh - Bộ trưởng Bộ Kinh tế
Luật sư Phan
Anh - Bộ trưởng Bộ Thanh niên
Thạc sĩ Hoàng
Xuân Hãn - Bộ trưởng Giáo dục và
Mỹ nghệ.
Chính phủ của Thủ tướng Trần Trọng Kim
Nội các Trần Trọng Kim với thành phần là
những trí thức có tên tuổi - trong số đó phải kể tới một số nhân vật
tiêu biểu của nước ta trước năm 1945, có uy tín đối với nhân dân, như
Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Trịnh Đình Thảo, Phan An ...v.v… họ đều
là những giáo sư, luật gia, nhà báo, khoa bảng, thực tài tốt nghiệm
trong và ngoài nước hiếm có lúc bấy giờ (mà những người CSVN không có
hay so sánh được ) - (Nhà sử học, giáo sư
Đinh
Xuân Lâm) (wikipedia)
(Chúng ta củng cần lưu ý) Bước đầu tiên của Bộ trưởng Tư pháp Trịnh
Đình Thảo trong tân chính phủ Hoàng Gia Việt Nam lúc bấy giờ
là ra lệnh trả tự do cho hàng ngàn tù
nhân chính trị bị Pháp giam giữ bao gồm tất cả đảng viên Đảng
cộng sản Đông Dương và các đảng phái khác).
(Xem thả tù chính trị) trong: (vi.wikipedia.org/wiki/Đế_quốc_Việt_Nam)
Tuy nhiên, chỉ 10 ngày sau của chính sách
nhân bản quang minh chính đại cho một Việt Nam đoàn kết vì Độc Lập của
tân CP Trần Trọng Kim đổi lại là: Hành vi như phường "cướp cạn" của tay
chân ông Hồ Chí Minh qua lời kể của nhạc sĩ Tô Hải (người tham dự mít
tinh) - năm nay gần 90 tuổi- tường thuật lại được viết trong trang
Blog của ông, nhân dịp nhớ lại ngày 19 tháng tám của hơn 60 năm trước.
Cho đến nay, ngày này vẫn được sách vở chính thống tuyên giáo CSVN gọi
là ngày tổng khởi nghĩa thành công, cướp chính quyền từ tay Pháp, hay từ
tay Pháp và Nhật, hoặc từ chính phủ Trần Trọng Kim. !??. Đây các bạn trẻ
Việt nam hãy xem một trong những "thắng lợi vĩ đại của đảng ta":
"Đúng ngày 17 tháng 8 năm 1945, chúng tôi
kéo nhau đến quảng trường Nhà Hát Lớn Hà Nội mít-tinh chào mừng chính
phủ mới Trần Trọng Kim của Việt Nam. Cuộc mít-tinh bắt đầu được mấy phút
bỗng hàng loạt cờ đỏ sao vàng được tung ra, cờ quẻ ly (cờ vàng 3 sọc đỏ)
treo trang trọng trên toà nhà bị giật xuống và trên bục diễn giả xuất
hiện một người đeo poọc-hoọc, (tay chân của ông Hồ Chí Minh) cướp diễn
đàn để diễn thuyết, kêu gọi đồng bào đi theo Việt Minh, đánh Pháp, đuổi
Nhật, đòi lại áo cơm, tự do, xoá bỏ gông xiềng"
Hình bìa báo LIFE của Pháp- Khởi đầu Buổi Mít-tinh của Tổng Đoàn Công
Chức Hà Nội chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim tại Hà Nội (cờ vàng 3 sọc
đỏ treo trang trọng trước tiền sảnh)
Một lúc sau tay chân CS của ông HCM cướp diễn đàn giật cờ 3 sọc xuống
trương lên cờ đỏ sao vàng giữa buổi mít tinh.
Họ - CSVN- lừa người dân nghèo khó thiếu
thông tin thế giới quan - Nhưng giới trí thức người có học thì biết rất
rõ rằng Nhật đã đảo chính Pháp từ ngày 9 tháng 3, rồi Nhật lại đã đầu
hàng Mỹ và Đồng Minh từ đầu tháng 8 cùng năm, thì cách nói "cướp chính
quyền từ tay Pháp và Nhật" là bịp bợm vì lẽ tại các thời điểm ấy thực
dân Pháp và phát xít Nhật có còn đâu chính quyền thuộc địa để mà cướp?
Vậy chỉ có thể nói là "cướp chính quyền Trần Trọng Kim" mà thôi.
Napoleon từng nói:
Lịch Sử thường được viết
lại bởi những kẻ thắng trận.
(" History was written by victors" )
Đúng là như vậy, sau khi cướp chính quyền
non trẻ Trần Trọng Kim của Việt Nam đang trền đà thành công giành lại
Độc Lập, thì Ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN chữa thẹn bằng cách nói với
nhân dân: "Cướp chính quyền Trần Trọng Kim tay sai, chính phủ bù nhìn
của phát xít Nhật" – Nhưng một lần nữa sự thật và lịch sử không đứng về
phía họ, bởi vì trước đó 2 ngày, ngày 15 tháng 8 Nhật hoàng Hirohito đã
đọc bài diễn văn trên đài phát thanh quốc gia tuyên bố Nhật Bản đầu hàng
Đồng Minh. Bài diễn văn được phát đi trên khắp lãnh thổ Đế quốc Nhật
Bản. Ngày 28 tháng 8, chỉ
huy Tối cao Lực lượng Đồng Minh bắt đầu chiếm
đóng Nhật Bản. Nghi lễ đầu hàng đã được thực hiện trên chiến
hạm USS
Missouri của Hải
quân Hoa Kỳ.(**)
Ngoại trưởng Nhật Bản Shigemitsu ký văn
kiện đầu hàng Mỹ và Đồng minh trên chiến hạm USS Missouri.
Thật là buồn cười cho một lối suy nghĩ ấu trĩ bịp
bợm không biết xấu hổ là gì cho đến tận ngày nay họ, CSVN, vẫn là não
trạng "đầu tôm" với lập luận ngu xuẩn biện minh cho hành vi cướp Chính
Phủ non trẻ của quốc gia Việt Nam là họ: "Cướp chính quyền tay sai
Trần Trọng Kim, chính phủ bù nhìn của phát xít Nhật". Có phi lý
không? Làm tay sai cho một Nhật Bản thảm bại, đầu hàng vô điều kiện bị
tước khí giới, không còn Chính Phủ, giao toàn bộ đất nước cho quân Mỹ
chiếm đóng !?.
Tóm lại, khái quát cục diện toàn cảnh, Việt
Nam, Đông Dương và Đông Nam Á, mọi chế độ thực dân tất yếu đã đến ngày
cáo chung không có bất cứ lý do nào sống lại để chúng ta nghiệm suy ra
rằng, từ năm 1945 nếu không có Hồ Chí Minh ăn phải "bả" CS khát máu, du
nhập một thứ chủ nghĩa tàn bạo, cướp chính quyền, áp đặt lên đầu dân tộc
Việt Nam một chủ nghĩa ngoại lai, thì ít nhất, nếu nhân dân còn suy tôn
hướng về một Gia Long Nguyễn Ánh thì chúng ta đã có một "Cộng Hoà thống
nhất Hoàng Gia Việt Nam" như Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, Campuchia hay
văn minh dân chủ như Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc đã hoàn thiện hội
nhập cất cánh với quốc hiệu đa nguyên: Việt Nam Cộng Hoà lâu rồi.
Và nếu vậy thì dân tộc Việt Nam đã tránh
được nghịch cảnh chia đôi đất nước như Hiệp Định Genève 1954 vì ý thức
hệ bởi chủ nghĩa CS – Một thứ chủ nghĩa đã làm dân tộc trải xương máu
suốt 2/3 thế kỷ nhưng đến nay chủ nghĩa ấy nó như ánh tà dương le lói
cuối ngày trên toàn thế giới nhưng Tuyên Giáo CSVN thì chỉ thị ra sức
tuyên truyền "cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc vai
trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam"-
Thật là cách mạng "vĩ đại" khi 190 quốc
gia trên thế giới chỉ còn sót lại 4 nước CS lẻ loi trong đó CH/XHCN/CSVN
là một!?? và là quốc gia có số dân nghèo nhiều nhất Khối ASEAN sau
Campuchia? Nhưng tham nhũng thì nằm ở hàng đầu trong danh sách của tổ
chức "minh bạch thế giới" !??
(Mến tặng các chiến hữu, đồng bào và những người bạn trẻ của tôi)
Phan Đức Minh
Hội Lực Lượng Biệt Kích Biên Phòng cùng Hội Hậu Duệ Quân Lực VNCH trong
nhạc cảnh “Chiến Sĩ Vô Danh” trong lễ kỷ niệm hai năm thành lập Hội Hậu
Duệ Quân Lực VNCH tổ chức tại Nam California. (Hình: Văn Lan)
Tôi viết bài này, muốn vinh danh các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH), và nói lên một vài nét để chứng minh rằng: nhiều kẻ, có cả
những nhân vật cỡ lớn của nhiều hệ thống truyền thông báo chí, đã thiếu
hiểu biết, hay cố tình với ác tâm, ác ý bôi nhọ Quân Ðội VNCH.
Họ đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ của những vụ xuống đường biểu tình chống
chiến tranh Việt Nam của giới sinh viên đại học, mà cái tổ phát xuất của
nó từ trường ðại học Kent State University, do một giáo sư, cán bộ cao
cấp của Ðảng Cộng Sản Mỹ hồi đó, lãnh đạo, chỉ huy theo kế hoạch của
Cộng Sản Quốc Tế. Bởi vì họ biết rằng đánh thắng Hoa Kỳ trên chiến
trường Việt Nam thì rất khó, nhưng đánh thắng Hoa Kỳ tại Quốc Hội, trên
đường phố, ở các trường đại học, trên mặt trận truyền thông thì chẳng
khó bao nhiêu. Bởi thế cho nên công cuộc lãnh đạo sinh viên biểu tình
chống chiến tranh Việt Nam, góp phần đập tan tinh thần chiến đấu, quyết
thắng của Quân Ðội Mỹ – vốn có từ xưa – trong cuộc chiến Việt Nam, phải
được giao cho một giáo sư đại học có uy tín và là cán bộ cao cấp của
Ðảng Cộng Sản Mỹ.
Sự việc này chỉ được người ta biết đến khi vị giáo sư lãnh đạo phong
trào sinh viên biểu tình chống chiến tranh Việt Nam này từ trần, có Tổng
Bí Thư Ðảng Cộng Sản Mỹ lúc đó, dự tang lễ, đọc điếu văn, nêu cao thành
tích của người quá cố, góp công sức vào việc chấm dứt chiến tranh Việt
Nam theo đường lối, kế hoạch của “Phong Trào Cách Mạng Vô Sản Thế Giới.”
Nhiều người đánh giá toàn thể Quân Ðội VNCH qua hành động xấu xa của
một vài sĩ quan cao cấp đích thân, hay cho vợ con, đệ tử lợi dụng hoàn
cảnh chiến tranh, nhất là giai đoạn Mỹ đổ quân tác chiến vào Việt Nam,
để buôn lậu, làm áp-phe tiền bạc bằng nhiều cách. Họ đánh giá Quân Ðội
VNCH qua hình ảnh tan rã của nhiều đơn vị quân đội vào những ngày cuối
cùng của cuộc chiến, khi Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I –
một tướng lãnh từng được kể vào hàng danh tướng – được lệnh của tổng
thống VNCH lúc đó, phải bỏ ngay Quân Khu I và Tướng Phạm Văn Phú, tư
lệnh Quân Khu 2 phải bỏ vị trí vào lúc chưa đánh nhau chi cả và các đơn
vị quân đội của hai tướng này đang sẵn sàng chờ địch tiến đánh, với tinh
thần rất cao, như họ đã từng đánh bại quân cộng sản trên lãnh thổ 2
quân khu này. Hai Tướng Trưởng và Phú đều biết rõ: đánh thì chưa chắc đã
chết, nhưng tự dưng bỏ chạy tán loạn thì cả quân lẫn dân sẽ chết thê
thảm, kinh hoàng… Vị tổng thống lúc đó ra lệnh bỏ hai Quân Khu này khi
chưa chạm địch để làm áp lực, hòng lôi kéo người bạn đồng minh khổng lồ
đang bỏ đi, hay đúng hơn: tháo chạy bằng mọi giá, phải quay trở lại cứu
Nam Việt Nam. Nếu không, “Tiền đồn chống cộng sản của Mỹ tại Ðông Nam Á
Châu sẽ sụp đổ.” Tại sao ông tổng thống lúc đó không nghĩ đến việc: “Hơn
nửa triệu quân Mỹ tham chiến với vũ khí tối tân nhất lúc đó, trừ vũ khí
nguyên tử mà rốt cuộc phải “tháo chạy” bằng mọi giá, thì làm sao mà
quay trở lại bây giờ, trong lúc một nửa lãnh thổ Nam Việt Nam đang rối
loạn, sụp đổ hãi hùng, quân cộng sản có cả một khối cộng sản quốc tế
đứng phía sau yểm trợ, thúc đẩy cộng sản Hà Nội giải quyết chiến trường
càng mau càng tốt, trong không khí quyết chiến, quyết thắng điên cuồng,
không thứ chi cản nổi.
Một đoạn băng trong số 150 giờ thu âm và 30 nghìn trang tài
liệu đã được Thư Viện Nixon công bố, có lời của Tổng Thống
Nixon nói với Cố Vấn An Ninh Henry A. Kissinger về Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu, là: để bắt tổng thống VNCH ký vào văn kiện
hòa đàm, ông sẵn sàng “cắt đầu y nếu cần thiết” (cut off his
head if necessary). Bài của Shaun Tandon trên AFP thì mô tả ông
Nixon đã yêu cầu Kissinger nói với tổng thống VNCH rằng Quốc
hội Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu Sài Gòn không đồng ý với kết
quả hòa đàm.
Tổng Thống Mỹ Richard Nixon từng hứa với nhân dân Mỹ là chấm dứt
chiến tranh Việt Nam, đem quân đội Mỹ trở về trong danh dự, trả người
thân về với gia đình của họ. Qua trung gian của tổng thống hồi quốc, ông
Nixon cho cố vấn Henry Kissinger (một nhân vật chính trị, ngoại giao
quỷ quyệt, độc ác và tàn nhẫn) dọn đường cho ông gặp Mao Trạch Ðông,
lãnh tụ cộng sản Trung Quốc. Họ Mao với sức mạnh của sư phụ, với uy thế
của ông thầy bao nhiêu năm trợ giúp cố vấn, vũ khí chiến tranh, lương
thực… đã ra lệnh cho cộng sản Hà Nội không được chơi trội, bắt bí phái
đoàn Mỹ tại Hội Nghị Paris, dọa đánh cho Mỹ phải chạy mà không có “Hiệp
Ðịnh ngưng bắn – Agreement of cease-fire” chi cả. Họ Mao cứu ông Nixon,
nhưng ông Nixon phải đền ơn xứng đáng:
1-Vận động để cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ngồi vào cái ghế “Hội
Viên Thường Trực -Permanent Member” của Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc
(với quyền phủ quyết) cuối năm 1971, trước khi ông Nixon gặp Họ Mao vào
đầu năm 1972, mặc dầu Họ Mao đã chiếm hết lục địa Trung Quốc, thiết lập
chính quyền, cai trị cả tỉ dân từ năm 1949. Còn ông Quốc Dân Ðảng Trung
Hoa thì vẫn là bạn của Mỹ,nhưng phải rời khỏi cái ghế đó, chạy ra đảo
Ðài Loan.
2-Ông Nixon phải bằng mọi cách, nhưng kín đáo, bán cho Họ Mao những
vũ khí, kỹ thuật chiến tranh tối tân hiện đại nhất lúc đó để Trung Quốc
đủ sức “đánh nhau tay đôi ” với Liên Xô khi cần, vì Liên Xô đã kết án,
và đe dọa trừng trị Họ Mao về nhiều tội:
-Bất phục tùng Trung Tâm Lãnh Ðạo phong trào cộng sản thế giới là Ðiện Kremlin ở Moscow.
-Dám thiết lập Tư Tưởng Mao Trạch Ðông, trái nghịch với Học Thuyết
Marx – Lenin, là: họ Mao thiết lập nền vô sản chuyên chính kiểu Trung
Quốc: lấy Nông Dân (đại đa số dân Trung Quốc) làm giai cấp lãnh đạo,
thay vì giai cấp công nhân lãnh đạo, như Học Thuyết Marx-Lenin, đã được
dùng làm phương châm đấu tranh cho phong trào cộng sản toàn cầu.
-Muốn thống trị Á Châu bằng sức mạnh của Trung Quốc và Tư Tưởng Mao
Trạch Ðông, tách ra khỏi sự lãnh đạo của điện Kremlin ở Moscow. Mao
không chấp nhận “Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Quốc Tế Vô
Sản,” theo luận điểm của Lenin về khả năng tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội
không qua giai đoạn phát triển Tư Bản Chủ Nghĩa (Lenin’s thesis on the
possibility of advancing to Socialism by passing the stage of capitalist
development ) vì Liên Xô đã có cơ sở công nghiệp trong khi Trung Quốc
chỉ có “Con trâu đi trước cái cầy.”
Như thế mới gọi là tư tưởng Mao Trạch Ðông, chớ Hồ Chí Minh, lãnh tụ
cộng sản Hà Nội chỉ có biết trò “đu dây” theo voi ăn bã mía cả hai phía
Liên Xô và Trung Quốc thì làm gì có cái gọi là Tư Tưởng Hồ Chí Minh như
cộng sản Hà Nội vẫn ồn ào, ba hoa!
Nhiều sĩ quan cao cấp của VNCH trông cảnh quân sĩ dưới quyền bị tan
rã một cách thê thảm, đau đớn, trông cảnh dân chúng cả triệu người trên
đường tháo chạy, phải làm bia lãnh đạn trọng pháo, hỏa tiễn của Liên Xô
và Trung Quốc tiêu diệt một cách tàn bạo, kinh hoàng, dã man mà thấy xót
xa trong tim, trong lòng, phát điên phát khùng lên vì sự sai lầm của
ông tổng thống, là tổng tư lệnh Quân Ðội mà không hiểu rằng: Những phòng
tuyến đầu tiên bị tan rã, quân đội chưa đánh mà bỏ chạy tán loạn cùng
với hàng triệu dân chúng thì hậu quả quân sự, chính trị, tâm lý của Nam
Việt Nam sẽ ra làm sao!
Những kẻ bôi nhọ Quân Lực VNCH cố tình quên đi tinh thần chiến đấu
của Quân Ðội này trong dịp Tết Mậu Thân -1968. Lúc đó quân cộng sản được
trang bị cá nhân, tất cả bằng súng tiểu liên xung kích AK- 47 của Liên
Xô, Tiệp Khắc, cùng với lực lượng võ trang của Mặt Trận Giải phóng miền
Nam – do Hà Nội lập ra cho hợp tình thế chính trị – lợi dụng yếu tố bất
ngờ khi phản bội thỏa hiệp ngừng bắn trong dịp Tết thiêng liêng cổ
truyền của dân tộc Việt Nam, thình lình mở cuộc “Tổng tấn công” vào hầu
hết các thành phố, thị trấn của Nam Việt Nam.
Trong khi đó Quân Ðội VNCH phần lớn chỉ được trang bị bằng súng
trường bán tự động Garant M-1, Carbin M-1 và tiểu liên loại nhẹ Carbin
M-2 của quân đội Mỹ sử dụng trong thời Ðệ Nhị Thế Chiến còn bỏ lại trong
kho, cần thanh toán cho hết. Và vì bất ngờ cho nên chúng đã kiểm soát
được một số lãnh thổ có tính cách chiến lược tại Quân Khu 2 và Quân Khu
I, đồng thời tấn công mưu toan đánh chiếm luôn Thủ Ðô Sài Gòn. Bộ Chính
Trị Trung Ương Ðảng tại Hà Nội ra lệnh phải giữ đất đã chiếm bằng mọi
giá để đưa dân chúng Nam Việt Nam vào cuộc tổng nổi dậy, cướp chính
quyền.
Do đó, khi chiến trường đã được quân đội VNCH giải tỏa, quân cộng sản
bị đánh bại, phải bỏ chạy, phóng viên báo chí, truyền thanh, truyền
hình đi theo quân đội mới thấy những xác chết của quân lính cộng sản bị
xiềng chân vào công sự chiến đấu, các ổ bích kích pháo, súng đại
liên. Cộng sản Hà Nội không bao giờ ngờ được rằng Quân Ðội VNCH có thể
đánh bật chúng ra khỏi thành phố Huế sau một thời gian cộng sản chiếm
đóng, toan tính thành lập chính quyền tại một thành phố giáp lưng với
hậu phương to lớn của chúng ở bên kia sông Thạch Hãn, Quảng Trị, hay vĩ
tuyến 17. Vậy mà cộng sản đã phải bỏ chạy khỏi thành phố Huế trong chiến
dịch lịch sử Tết Mậu Thân -1968, chỉ kịp lùa theo chúng hàng ngàn quân
sĩ, nhân viên chính quyền VNCH, đảng phái chính trị do chúng bắt được
tại Huế, để dẫn đi tàn sát, chôn sống tập thể theo kiểu Hitler giết
người Do Thái, Stalin giết người Ba Lan, nhưng ghê tởm hơn, vì chúng
giết bằng đạn AK, bằng dao găm, mã tấu, còn sống cũng đạp xuống hố chôn
luôn hàng chục, hàng trăm người 1 lúc.
Bốn năm sau, 1972, nắm được tinh thần “Bỏ cuộc, chạy làng” của “kẻ
dịch khổng lồ” nhưng đã quá mệt mỏi, chán chường với cuộc chiến tranh
không thể thắng ở tiền tuyến bằng súng đạn tối tân vì nó chẳng có mặt
trận, chiến tuyến nào rõ ràng để mình chủ động sử dụng “ưu thế hỏa lực-
Superiority of firepower” được cả. Chỉ gây chết chóc lây cho dân chúng
bao nhiêu thì căm hận của dân chúng nông thôn càng hừng hực bốc lên
chừng đó, qua các… đòn phép tuyên truyền hiểm độc của cộng sản. Trong
khi đó hậu phương tại Mỹ Quốc thì rối loạn, nát bấy vì biểu tình, phản
đối chiến tranh, đốt cờ, đốt thẻ trưng binh, Quốc Hội cãi nhau như mổ bò
về chuyện có hay không viện trợ chiến tranh cho người bạn đồng minh để
giữ vững cái “Tiền đồn chống cộng ở Á Châu.” Thế là cộng sản Hà Nội lại
áp dụng bài học cũ, 18 năm về trước, đã dùng chiến thắng Ðiện Biên Phủ
để đánh gục người Pháp tại Hòa Hội Geneva. Lịch sử và Quân Sử Hoa Kỳ đã
phải ghi “Lần đầu tiên trong lịch sử, quân đội bách chiến bách thắng của
Hoa Kỳ đã thua trận một cách đau đớn ê chề trên chiến trường Việt Nam –
The first time in the American History, the unvanquishable armed forces
of the United States lost ignominiously the war in Vietnam
battlefield…”
Năm 1972, Hà Nội tung vào miền Nam những sư đoàn tinh nhuệ, thiện
chiến nhất đã từng đánh tan hai Binh Ðoàn Lưu Ðộng (Groupements
mobililes) của Pháp tại chiến trường Bắc Kạn-Lạng Sơn hồi 1950, bắt sống
hai binh đoàn trưởng (Commandants de Groupements mobiles) là Ðại Tá Le
Page và Trung Tá Charton, đưa những sư đoàn lừng danh từng đánh thắng,
dứt điểm người Pháp tại chiến trường Ðiện Biên Phủ năm 1954 bằng những
trận đánh vũ bão theo lối “Chiến tranh quy ước-Conventional War” hẳn
hoi.
Hà Nội nhắm đánh vào Quân Khu I, lãnh thổ địa đầu của Nam Việt Nam,
cho 15 ngàn quân của Sư Ðoàn 304 Tràn qua vĩ tuyến 17, dưới sự yểm trợ
của pháo binh và hỏa lực phòng không trang bị hỏa tiễn địa-không SAM-2
của Liên Xô, sau ba ngày đêm đội những trận bão lửa pháo binh và hỏa
tiễn. Sư Ðoàn 3 Bộ Binh VNCH là sư đoàn mới thành lập, trong đó chỉ có
Trung Ðoàn 2 Bộ Binh nòng cốt là tương đối thiện chiến, còn hầu hết là
tân binh, lính mới, và vị tư lệnh sư đoàn là trung đoàn trưởng mới được
vinh thăng chuẩn tướng thì làm sao mà chịu cho nổi sức tiến quân của
cộng sản!
Tại sao ông tổng thống, tổng tư lệnh Quân Ðội VNCH, Ðại Tướng Cao Văn
Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, lại cho Sư Ðoàn 3 Bộ Binh mới thành lập
trấn giữ cái cửa ngõ ngăn chặn quân cộng sản Bắc Việt ngay sát vĩ tuyến
17 như thế này? Tại sao lại như vậy?
Cộng sản đánh chiếm Tỉnh Lỵ Quảng Trị, mở đường xuống Huế rồi phối
hợp với các đơn vị chính quy Bắc Việt, xâm nhập từ đường mòn Hồ Chí
Minh, cũng như các lực lượng vũ trang địa phương, bộ đội chủ lực của
tỉnh và huyện, dứt luôn Quân Khu 1. Ngoài mục tiêu quân sự, cộng sản còn
nhắm vào những mục tiêu chính trị và ngoại giao to lớn, quan trọng hơn:
trong cuộc Hòa Ðàm tại Paris để quân đội Mỹ ra đi trong danh dự, không
đến nỗi bị cộng sản quốc tế và Hà Nội đánh cho phải chạy mà không có
Hiệp Ðịnh ngừng bắn chi cả.
Tỉnh Lỵ Quảng Trị bị chiếm, cộng sản cho xe tăng T-54 của Liên Xô dẫn
đầu, bộ binh và cơ giới kéo xuống Huế theo Quốc Lộ I, được pháo binh và
hỏa tiễn 122 ly của Trung Quốc dọn đường. Quân cộng sản tiến về Huế như
đi vào chỗ không có người. Dân chúng Quảng Trị thoát chết khi qua khỏi
“Ðại lộ Kinh hoàng” tràn xuống Huế, trong khi dân chúng Huế cũng xô nhau
bỏ chạy vì dân ở đây làm sao quên được vụ tàn sát ghê gớm với những mồ
chôn tập thể trong dịp Tết Mậu Thân – 1968! Tướng 3 sao Hoàng Xuân Lãm,
Tư Lệnh Quân Ðoàn I- Quân Khu I (vị Tướng được nhiều nhân vật chính
trị cũng như quân sự trong và ngoài nước đánh giá : không thích hợp để
giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn I – Quân Khu I trong giai đoạn địch quân
tiến như vũ bão thế này) hoảng hốt, không biết phải đối phó ra sao, chỉ
biết cầu cứu liên tục về Dinh Ðộc Lập ở Sài Gòn. Tuyến đầu bị phá vỡ thì
địch quân sẽ thừa thắng xông lên dễ dàng với tinh thần quyết chiến,
quyết thắng. Còn phía ta đã rút lui, tan vỡ bỏ chạy tán loạn thì tinh
thần quân đội và dân chúng rối rắm ra sao, ai cũng biết rồi. Ai tạo nên
khung cảnh bi thảm như thế này? Chính là ông tổng thống, tổng tư lệnh
lúc đó!
Giới truyền thông ngoại quốc, nhất là ở Mỹ đã đánh giá Quân Ðội và
các cấp chỉ huy của Quân Lực VNCH qua những tướng lãnh như vậy đó. Cho
tới khi đài phát thanh loan báo: Tướng Ngô Quang Trưởng được điều động
từ Quân Khu 4 ở trong Nam ra, nắm chức tư lệnh Quân Ðoàn I và Vùng I
chiến thuật thay thế Tướng Lãm, dân chúng đang hỗn loạn bỏ chạy khỏi
thành phố Huế thì nhiều người đã la lên “Tướng Ngô Quang Trưởng về làm
Tư Lệnh Quân Ðoàn I, bảo vệ Huế và chiếm lại Quảng Trị thì bà con không
có chạy đi đâu nữa cả! “Lòng dân tin tưởng mãnh liệt là thế!
Tướng Ngô Quang Trưởng xuất thân Khóa 4 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, gốc
binh chủng “Thiên thần mũ đỏ nhẩy dù,” nhưng lúc này đã mang lon 3 sao
vì những chiến công ngoài mặt trận, và luôn luôn hòa đồng với các sư
đoàn Bộ Binh dưới quyền. Tướng Trưởng luôn mặc quân phục tác chiến của
Bộ Binh, thay vì quân phục Nhẩy Dù. Có lẽ Tướng Trưởng nghĩ “chiếc áo
không làm thành thầy tu,” tướng giỏi không cần phô trương bên ngoài mà
cần phải đánh thắng trên trận địa và được lòng kính phục của quân sĩ.
Tướng Trưởng về Huế, chỉnh đốn lại quân ngũ, tái phối trí lực lượng,
kêu gọi dân chúng an tâm, xin tăng phái lực lượng tổng trừ Bị: Nhẩy Dù,
Thủy Quân Lục Chiến từ Sài Gòn bay ra. Thế rồi trước sân cờ Phú Văn
Lâu, Cổ Thành Huế, ông thề trước ba quân “Sẽ chiếm lại thành phố Quảng
Trị trong thời gian ngắn nhất” như thời Nhà Trần, Hưng Ðạo Vương Trần
Quốc Tuấn, khi ra quân đã cầm gươm chỉ xuống sông Bạch Ðằng mà thề trước
Tướng Sĩ: “Nếu phen này không phá tan được quân Mông Cổ thì ta sẽ không
còn trông thấy con sông này nữa!”
Lịch sử dân tộc Việt Nam làm sao quên được những giờ phút bi hùng và
oanh liệt như thế! Dưới quyền tư lệnh của Danh Tướng Ngô Quang Trưởng,
Quân Ðội VNCH anh dũng chiến đấu, chặn đứng những sư đoàn thiện chiến,
lẫy lừng nhất của cộng sản Hà Nội, trước sự ngỡ ngàng của dư luận trong
và ngoài nước. Cổ Thành Quảng trị đã được chiếm lại. Quân cộng sản đành
tháo chạy trở ngược về bên kia vĩ tuyến 17. Tướng Trưởng và quân sĩ của
ông đã bảo vệ được Huế, chiếm lại cổ thành Quảng Trị đúng như lời thề
trước sân cờ Phú Văn Lâu bữa nào. Tinh thần chiến đấu của Quân Ðội VNCH
là như thế đấy! Tướng lãnh của Quân Ðội VNCH có những người như thế đó!
Tờ báo Time, tạp chí cỡ lớn của Hoa Kỳ, có lần đã đăng những dòng
cảm nghĩ của Ðại Tướng 4 sao Hoa Kỳ, Norman Schwarzkopf, Tư Lệnh Chiến
Dịch “Bão Sa mạc” (Desert storms), chinh phạt hung thần Saddam Hussein
của xứ Iraq, xâm lăng Kuwait, đầu thập niên 1990, đại ý như sau “Hồi còn
chiến đấu ở Khe Sanh thuộc lãnh thổ Quân Khu I Việt Nam Cộng Hòa, với
tư cách là trung tá tiểu ðoàn trưởng Nhẩy Dù của Hoa Kỳ, tôi đã học được
ở Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I – VNCH rất nhiều
kinh nghiệm quý báu trong nghệ thuật chỉ huy cũng như tác chiến… Những
kinh nghiệm đó đã giúp tôi rất nhiều trong binh nghiệp, kể cả trong
chiến dịch Desert storms ở Kuwait.”
Triển lãm quân trang quân dụng Quân Lực VNCH tại phòng sinh hoạt nhật
báo Người Việt, Thành Phố Westminster, Little Saigon Nam California.
(Hình: Thiện Lê)
Nhiều nhân vật chính trị, truyền thông tại sao không biết nhiều điều
khi nói về Quân Ðội VNCH. Chẳng lẽ nào họ không đủ khả năng, trình độ để
hiểu biết, hay mang đầy ác ý trong đầu. Rồi đến chiến trường An Lộc,
Tỉnh Bình Long. Ở Hòa Hội Paris, Lê Ðức Thọ và Xuân Thủy, Ủy Viên Bộ
Chính Trị Trung Ương Ðảng cộng sản, ra mặt lấn áp Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
Henry Kissinger trong các buổi mật đàm qua thế mạnh của quân cộng sản
tại Miền Nam, trong khi Hoa Kỳ muốn rút chân cho mau khỏi “vũng lầy kinh
khủng” này. Ðại Tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Quốc Phòng của cộng
sản, người hùng Ðiện Biên Phủ, tuyên bố trên đài phát thanh Hà Nội “Nhân
dân Việt Nam đã đánh gục 3 đời tổng thống Hoa Kỳ, và sẽ đập tan chính
quyền Nixon bằng một cuộc chiến thắng hoàn toàn.”
Với cái khí thế như vậy, xe tăng T-54 của cộng sản đã tràn ngập, làm
chủ tình hình thị xã An Lộc, dẫn theo sau những đơn vị bộ binh thiện
chiến, danh tiếng nhất của cộng sản Hà Nội, sau khi những trận bão lửa
pháo binh đã quét dọn sạch sẽ, không để lại những gì có thể sống
sót. Các chiến sĩ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh VNCH cùng một số đơn vị bạn còn lại
của địa phương Bình Long đã chiến đấu vô cùng anh dũng, ác liệt, giữ
từng tấc đất, từng góc phố, ngõ hẻm để có chỗ đứng hay nằm mà chiến đấu
vì ngưng chiến đấu tức là chết.
Mặt trận An Lộc làm rung động thế giới, làm rối loạn không khí hòa
đàm tại Paris vốn đã nghiêng hẳn thế thuận lợi về phía cộng sản. Mạc Tư
Khoa, Bắc Kinh cũng như Hà Nội muốn An Lộc phải thất thủ kinh hoàng như
Ðiện Biên Phủ ngày nào. Những tay cá độ quốc tế đã dám đánh 100 ăn 1 là
An Lộc sẽ thất thủ để cho cộng sản tiến quân về Sài Gòn, đập tan chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu ngay trong năm 1972. Tướng ba sao Vanuxem, tư
lệnh quân đội Pháp tại Bắc Phi, người đã từng là Tư lệnh quân khu miền
Nam Bắc Việt “đóng tại Nam Định hồi năm 1954, trả lời phỏng vấn của
phóng viên báo chí: Quân Đội VNCH không thể nào giữ nổi An Lộc.”
Chắc là ông tướng ba sao của Pháp Vanuxem không quên nổi cái cảnh
pháo binh các loại của cộng sản đã dội xuống Điện Biên Phủ như mưa bão
suốt ngày đêm, làm tê liệt hoàn toàn các giàn trọng pháo hùng hậu của
Pháp cho đến nỗi Ðại Tá Pirotti, chỉ huy trưởng pháo binh của Pháp tại
chiến trường này quá thất vọng và khủng khiếp, phải mở chốt lựu đạn mà
tự sát.
Có lẽ Tướng Vanuxem chưa quên được cái cảnh những sư đoàn cộng sản
cuồng tín, đông như kiến cỏ, theo chiến thuật “Biển Người” của Thống Chế
Lâm Bưu, nguyên soái Hồng Quân Trung Quốc, tràn qua các bãi mìn, đạp
nát các công sự phòng thủ, các hàng rào kẽm gai chằng chịt, tràn xuống
các giao thông hào, đạp lên xác chết của lính Pháp, Bắc Phi và cả quân
cộng sản, phối hợp với quân cộng sản từ dưới đất chui lên từ các đường
hầm đã được máy móc, cơ giới của Trung Quốc đào bới ngày đêm trong lúc
pháo binh hỏa tiễn Trung Cộng liên tục nổ rầm trời.
Chắc Tướng Vanuxem liên tưởng đến cái cảnh Tư Lệnh chiến trường Ðiện
Biên Phủ, Tướng De Castries, mặt mũi hốc hác, bị quân cộng sản bắt sống
ngay tại căn hầm Chỉ huy, cùng với toàn thể Sĩ Quan Bộ Tham Mưu của Ông
để rồi chiến tranh Việt-Pháp kể như chấm dứt từ chỗ này, mà phần thất
bại tất nhiên thuộc về phía người Pháp.
Tướng Vanuxem tin chắc là Quân Ðội VNCH không thể nào giữ nổi An Lộc
một khi Hà Nội đã quyết định biến An Lộc thành một thứ Ðiện Biên Phủ thứ
2, để giành thế chủ động trên bàn Hội Nghị tại Paris, một khi cộng sản
Hà Nội có Liên Xô và Trung Quốc đứng sau lưng, nhất định bắt người Mỹ
phải “nhắm mắt lại mà ký vào Hiệp Ðịnh Paris” như cộng sản đã bắt người
Pháp phải làm như thế ở Hội Nghị Geneva 1954.
An Lộc đã bị thế giới coi như đã bị mất vào tay cộng sản. Thế mà, khi
Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù, hợp lực với Biệt Ðộng Quân và một số đơn vị
Bộ Binh VNCH kéo tới đánh những trận phản công sấm chớp, lở đất long
trời thì xe tăng T-54 Xô Viết, cũng như Bộ Binh cộng sản từng làm mưa
làm gió trước đó trên vùng đất An Lộc tan hoang, trơ trụi, đành phải mở
đường máu mà tháo chạy mặc dù lệnh của Hà Nội phải giữ An Lộc đã chiếm
bằng mọi giá.
An Lộc vẫn còn đó, không thất thủ như Ðiện Biên Phủ năm 1954. Cả thế
giới kinh ngạc. Tướng ba sao của Pháp Vanuxem cùng dân cá độ quốc tế đã
thua đậm trong keo này. Tướng Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống Ðệ Nhị VNCH,
bỗng dưng có được giờ phút vinh quang và oai hùng nhất trong cuộc đời
binh nghiệp cũng như chính trị của ông: đáp trực thăng xuống ngay chiến
trường An Lộc giữa tiếng hoan hô vang dậy không ngớt của của các chiến
sĩ VNCH vừa chiếm lại An Lộc, trong khi tiếng đại bác của hai bên, tiếng
hỏa tiễn 122 ly của Trung Cộng vẫn còn nổ vang quanh vùng, và An Lộc
vẫn còn mù mịt, khét lẹt mùi lửa đạn .
Ðó! Tinh thần chiến đấu của Quân Ðội VNCH là như thế đấy! Và còn biết
bao nhiêu trận đánh lẫy lừng khác trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Một bài
báo có hạn, làm sao kể hết! Năm 1975, cộng sản đánh chiếm Ban Mê Thuột,
cũng chẳng khác gì cộng sản đánh chiếm Huế năm 1968, đánh chiếm Quảng
Trị, kiểm soát An Lộc năm 1972 bao nhiêu. Vậy thì khi Ban Mê Thuột mới
rơi vào tay giặc trong sự bất ngờ, tại sao ông tổng thống của phe ta lại
hạ lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú phải bỏ ngay Quân Khu 2, cho Tướng Ngô
Quang Trưởng phải bỏ Quân Khu I, trong khi hai tướng tư lệnh này đang có
trong tay 6 Sư Ðoàn Bộ Binh, hầu hết đều thiện chiến, chưa kể đến các
Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, mấy chục Tiểu Ðoàn Ðịa
Phương Quân, bao nhiêu là đơn vị yểm trợ chiến đấu, đó là chưa kể đến
hỏa lực yểm trợ của Hải Quân, Không Quân, lực lượng tổng trừ bị của Nhẩy
Dù và Thủy Quân Lục Chiến, tất cả đều đang sẵn sàng chiến đấu vì chỉ có
chiến đấu hay là chết mà thôi.
Ông tổng thống của phe ta hạ lệnh rút bỏ hai Quân Khu cửa ngõ, địa
đầu của Nam Việt Nam như vậy để làm gì? Có nhận lệnh từ đâu không? Hay
chỉ vì quá kinh hoàng trước thái độ “tháo chạy” của ông bạn đồng minh
khổng lồ, mà quyết định vội vã để tạo nên tình trạng… cũng tháo chạy
một cách hoảng loạn, khiến cho lính cũng chết mà dân cũng chết luôn,
trong cái thế để cho cộng sản tàn sát quân dân VNCH một cách thê thảm,
nhục nhã chưa từng thấy.
Nên nhớ rằng, khi gặp sự quyết chiến của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VNCH, với
sự tăng cường của một số đơn vị bạn, mà Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Tướng
cộng sản Văn Tiến Dũng đã phải tung ra hai sư đoàn thiện chiến để hòng
lấy số đông và nhân đà thắng lợi, đánh tan sư đoàn 18 Bộ Binh, dưới sự
chỉ huy của tướng trẻ Lê Minh Ðảo, nhưng không thắng nổi. Sau cùng Văn
Tiến Dũng phải tung thêm hai Sư Ðoàn nữa vào mặt trận này, là bốn sư
đoàn tất cả, lấy bốn đánh một, trong thế thuận lợi về quân sự cũng như
tinh thần quân sĩ đang lên. Vậy mà Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VNCH chỉ chịu rời
bỏ trận tuyến khi có lệnh của tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 kiêm Vùng 3
Chiến Thuật. Vị Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 của VNCH không muốn trông
thấy Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VNCH anh dũng, kiên cường bị tiêu diệt trước thế
trận bất quân bình, địch đông gấp bốn và có thể tăng gấp năm, gấp sáu
nếu cần, vũ khí đạn được, xe tăng, pháo binh được cộng sản quốc tế đổ
vào như mưa bão, quyết đánh chiếm Sài Gòn như đã định.
Tướng Homer Smith, tùy viên Quốc Phòng Mỹ tại Sài Gòn, ngày 13 Tháng
Tư 1975, gửi một điện văn cho Tướng George S. Brown, tham mưu trưởng Bộ
Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ tại Hoa Thịnh Đốn, ca ngợi ý chí và tinh thần chiến
đấu dũng cảm tuyệt vời của Quân Ðội VNCH dù những bất lợi đang đè nặng
trên vai họ. Sau năm ngày theo dõi cuộc chiến An Lộc, Tướng Smith đã
nói: “Sự chiến đấu anh hùng và dũng cảm của quân đội Nam Việt Nam, đã
cho người ta thấy rõ tinh thần và khả năng chiến đấu của những người
lính VNCH này giỏi hơn đối phương của họ rất nhiều…” Trong lúc đó tại
Quân Khu 4, ở miền Tây, Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam, một Tướng giỏi,
với Tướng Tư Lệnh Phó Lê Văn Hưng, người hùng tử thủ An Lộc mấy năm
trước, có trong tay ba sư đoàn Bộ Binh thiện chiến và các lực lượng Biệt
Ðộng Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, Ðịa phương quân yểm trợ chiến đấu
hùng hậu, tinh thần rất cao, sẵn sàng chờ địch tiến đánh quân khu này.
Khi Tổng Thống cuối mùa Dương Văn Minh, với tư cách tổng tư lệnh lúc
đó, bị chỉ huy trực tiếp bởi Sư Phụ Thích Trí Quang và ngay cả từ Hà Nội
qua trung gian của người em ruột Dương Văn Minh là sĩ quan cao cấp cộng
sản Dương Văn Nhựt (đã liên lạc với Dương Văn Minh từ hồi 1956 ) hạ
lệnh cho Quân Ðội VNCH buông súng đầu hàng cộng sản vô điều kiện, để bàn
giao cho cộng sản, hi vọng kiếm cho bản thân và bè lũ, phe phái, chỗ
đứng chỗ ngồi mà cộng sản sẽ dành cho trong chính quyền “Cách Mạng giải
phóng,” thì Tướng Nguyễn Khoa Nam đã họp các sĩ quan có trách nhiệm chỉ
huy dưới quyền, và ra lệnh: anh em tùy nghi lo liệu về phần mình, trước
tình thế chúng ta bị bắt buộc phải đầu hàng. Kế hoạch chiến đấu để tự
cứu mình và bảo vệ vùng lãnh thổ trách nhiệm của chúng ta đã không thi
hành được như anh em đã biết. Sau đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam, trong bộ
quân phục tác chiến mũ sắt hai lớp, vào Văn Phòng Tư Lệnh, ngồi xuống
ghế của mình, chắc là để nhìn lại lần cuối tấm bản đồ Tổ Quốc trên
tường, nhìn lá cờ nhỏ nền đỏ với hai ngôi sao trắng, tượng trưng cho uy
quyền của một tướng lãnh chỉ huy, để trên bàn rồi rút súng bắn vào đầu
tự sát. Chắc chắn là trước khi bóp cò cho viên đạn xuyên qua đầu, vị
tướng đáng kính phục này đã nói những gì với Tổ Quốc, với đồng bào, với
chiến hữu của ông.
Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Ðoàn, anh hùng tử thủ An Lộc mấy
năm trước, trước đó một lúc, trở về căn cứ chỉ huy phụ, nói với người vợ
thân yêu: “Em ở lại nuôi con, anh phải ra đi vì thân làm tướng không
thể sống nhục như thế này…” Người vợ thân yêu nói với ông “Anh Hưng! Cho
em chết theo với! Tất cả chúng ta và các con cùng chết với nhau!” thì
Tướng Hưng đã thuyết phục người vợ: “Không được! Cha mẹ không có quyền
giết con. Em phải sống để nuôi dạy con nên người để trả thù nhà và cùng
với thế hệ mai sau lấy lại Ðất Nước này! Em phải sống, dù phải chấp nhận
hi sinh, khó khăn, gian khổ.” Người vợ thương yêu và can trường của vị
tướng anh hùng này nói trong nước mắt: “Em nghe lời mình với hai điều
kiện: “Nếu cộng sản bắt em phải xa lìa các con hay chúng làm nhục em thì
em có quyền tự sát?” Tướng Hưng bằng lòng, nắm lấy tay vợ rồi chào từ
biệt vợ con cùng một vài sĩ quan, binh sĩ đã có mặt từ trước tại đây để
dự định liên lạc với các đơn vị thi hành kế hoạch chiến đấu cứu mình,
cứu Quân Khu 4, của hai Tướng Nam và Hưng, rồi vào phòng riêng, gạt đi
lời yêu cầu của người vợ xin được chứng kiến tận mắt sự ra đi của chồng.
Tướng Hưng đóng cửa lại, và một phát súng nổ. Tướng Lê Văn Hưng đã ra
đi vĩnh viễn cùng với Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam, để lại cho lịch sử
dân tộc Việt Nam những tấm gương bất khuất sáng ngời, như những tấm
gương bất khuất của cha ông ngày trước, của những thời đại Lý Thường
Kiệt phá quân ngoại xâm Nhà Tống, Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đại phá
quân Mông Cổ…
Hai Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng đã cùng một số tướng lãnh
khác như Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ và nhiều sĩ quan cao
cấp khác của Quân Ðội VNCH đã chết theo vận nước, chớ không chịu đầu
hàng hay để giặc bắt. Quân đội của quốc gia nào có những tướng lãnh anh
hùng và can đảm như thế hay không?
Một số sĩ quan cao cấp, cả những cựu quân nhân bình thường của Hoa
Kỳ, từng tham chiến tại Việt Nam, không muốn dư luận cũng coi mình như
những kẻ khác không biết gì về cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến kỳ lạ
này, về sau đã lên tiếng trên các phương tiện truyền thông đa dạng ngày
nay, nói ra sự thật là: Quân Ðội VNCH nói chung, đã chiến đấu rất anh
dũng và kiên cường, mặc dầu họ luôn luôn phải chiến đấu trong hoàn cảnh
khó khăn, thiếu thốn, không được chiến đấu trong những điều kiện đầy đủ,
dễ dàng như quân đội Hoa Kỳ chúng ta tại Việt Nam. Ðúng như thế! Họ còn
nêu rõ những điều cần thiết để cho dư luận hiểu cuộc chiến một cách đơn
giản nhưng rõ ràng đúng với tinh thần trong sáng, ngay thẳng, minh bạch
của những quân nhân của đất nước Hoa Kỳ luôn được coi là vĩ đại trong
con mắt của thế giới loài người:
-Quân Ðội Hoa Kỳ chỉ chiến đấu khi nắm chắc được yếu tố “vượt trội về
hỏa lực.” Quân Đội VNCH phải chiến đấu trong mọi trường hợp cần thiết.
-Quân đội Hoa Kỳ chỉ chiến đấu tại Việt Nam trong thời gian ngắn hạn
rồi thay nhau về nước. Như thế không bị dồn vào cái thế mệt mỏi căng
thẳng quá độ, thường trực về thể chất cũng như tinh thần. Còn Quân đội
VNCH thì ngược lại, phải chiến đấu liên tục, không ngừng nghỉ. Sức chịu
đựng của người chiến binh VNCH nó khủng khiếp đến thế nào?
-Trong khi chiến đấu cũng như lúc đóng quân trong đồn lũy, người
chiến binh Hoa Kỳ luôn luôn được bảo vệ bằng những phương tiện chiến
tranh dồi dào, tối tân, hiện đại nhất, cả về tấn công, phòng thủ cũng
như yểm trợ. Còn người chiến binh VNCH làm sao có được như vậy! Cái mạng
sống của người chiến binh Việt Nam cũng vô cùng mỏng manh, hay nói rõ
hơn là dễ chết lắm.
Ðiểm nữa, cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần, thể chất, tâm lý
của người chiến binh Việt Nam, là trong khi mình xả thân chiến đấu bảo
vệ đất nước, bảo vệ mạng sống của chính mình thì lúc đó gia đình, những
người thân yêu phải sống ra sao? Liệu có đang kẹt trong vùng lửa đạn,
chết chóc hay không? Về điểm này, người chiến binh Hoa Kỳ khỏe hơn là
cái chắc, tinh thần ổn định, thoải mái hơn rõ ràng.
Bây giờ, nếu đặt người chiến binh của các cường quốc Âu-Mỹ vào vị
trí, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn, thiếu thốn, khắc nghiệt của người
chiến binh VNCH, thử hỏi liệu những người chiến binh ấy có thể chiến đấu
được như họ hay không? Chịu được bao lâu? Chính Phủ, Quốc Hội và nhân
dân các quốc gia đó chịu được mấy tháng, mấy năm?
Câu trả lời xin dành cho những nhà viết sử chân chính, cho những sĩ
quan và quân nhân Hoa Kỳ từng chiến đấu anh dũng, can trường bên cạnh
những người bạn chiến binh VNCH của họ từ các chiến trường Khe Sanh,
Ðắc-Tô, Pleiku, Kontum, Ðồng Xoài, Bình Giả, Củ Chi, cho đến các chiến
trường vùng đồng bằng sông Cửu Long, điểm tận cùng của Ðất Nước Việt
Nam.
-HẾT-
***
Tài liệu tham khảo:
-The Death of a Nation. – John A. Stormer. – Liberty Bell Press. – Missouri – 1978.
-The World Almanac of The Vietnam War -John S. Bowman (General Editor). – Bison Books Corp, NewYork.-1985.
-Vietnam – The History & The Tactics.- Ashley Brown & Adrian Gilbert.- Orbis Publishing Limited, London –1982.
-Kennedy. – Theodore Sorensen. – Harper & Row . New York – 1965.
-Henry Kissinger’s Diplomacy. – Simon & Schuster .- New York, 1994.
-A Book of U.S. Presidents – George Sullivan – Scholastic Incorporation, New York – 1984.