Thursday, October 16, 2025

HỒ CHÍ MINH DẠY NÓI LÁO LÀ THẬT!

    Bút Sử 

“Hồ Chí Minh – tuyển tập văn học- Văn Hóa Nghệ Thuật cũ ButSu_HoChiMinhDayNoiLaoLaThat là Một Mặt Trận”.” Tác giả Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Văn Học, 1999, có đọan Hồ Chí Minh viết gửi báo Cứu Quốc đề nghị viết láo, tạo anh hùng rơm như sau: 

GỬI BÁO CỨU QUỐC 

“Đề nghị:

- Mỗi ngày nên đăng một cái “bảng vàng,” kể một việc oanh liệt trong cuộc kháng chiến.

Nói vắn tắt, nhưng rõ và ít theo lối tiểu thuyết, chừng 15, 20 dòng. Mục đích cốt để nâng cao chí kháng chiến của dân, tuy dùng cách “sùng bái anh hùng.” Chớ nói tếu quá.

Tên người và địa điểm không nói rõ v.v…

Thí dụ:

BẢNG VÀNG

Những người dũng cảm phi thường

Anh hùng kháng chiến bảng vàng thơm danh.

Anh L.V. tiểu đội trưởng VQĐ số X, được mệnh lệnh cùng đồng chí K., đi dọ thám mặt trận địch. Tuy giờ tối đêm, hai anh phải cẩn thận bò gần 1 cây số đến gần, địch bắn ra. Anh L.V. bị thương ở gần cánh tay. Anh vẫn cố gắng bò gần nữa, liệng một quả lựu đạn chùy, năm tên địch ngã ra. Anh L.V. mới bò về.

          Vết thương khá nặng, nhưng anh L.V. nhất định không chịu đi nhà thương. Anh nói rằng: “Tay trái bị thương, nhưng tay phải của tôi vẫn bắn được.”

          Như anh L.V. thật là một chiến sĩ xứng đáng”. 

Trên là nguyên văn bài viết của Hồ Chí Minh gửi báo “Cứu Quốc” sau ngày Việt Minh cướp chính quyền. Với cộng sản, như ông Hồ xác nhận trên, văn học, văn hóa, nghệ thuật đều là mặt trận dùng để tuyên truyền. Ở đây, chúng ta nên ghi nhận là lối tuyên truyền nhắm vào báo chí mục đích là gì và “đối tượng” là ai? Tờ báo “Cứu Quốc” này hoạt động  mạnh vào những năm 1945, 1946… và không bao lâu thì ngừng hẳn. Địch đây có phải là người Pháp (Việt Minh đang đánh với Pháp, và trước đó thì thân Pháp, rước 15 ngàn quân Pháp về để chia chác quyền lợi và dùng bàn tay Pháp để tiêu diệt người quốc gia, hay người bị nghe tuyên truyền chính là lực lượng dân chúng và kẻ thù của ông Hồ chính là các đảng phái quốc gia, các lực lượng tôn giáo như Thiên Chúa, Cao Đài, Hòa Hảo?… 

Chính sách của cộng sản là viết láo, nói láo để chiêu dụ lòng dân. Hồ Chí Minh viết bài đề nghị báo “Cứu Quốc” mỗi ngày hãy tự đặt ra một câu chuyện “sùng bái anh hùng” đăng trên báo để nung đúc lòng hăng say quả cảm trong dân chúng. Qua bao nhiêu năm của chế độ, chính sách “viết láo” này xét ra có kết quả vô cùng. Thời đó, không ít người đã tin như tin vào thuyết cộng sản vậy. Người dân vì kém hiểu biết, ai viết sao thì hiểu vậy, ít khi phán đoán đúng sai, nhất là theo nguyên tắc của cộng sản thì trên ra lệnh dưới phải thừa hành triệt để. Do vậy mà Hồ Chí Minh viết láo đến mỏi tay mà chưa ai có câu thắc mắc. Chỉ có cấp trên mới được quyền “sáng tạo” như câu chuyện quái dị trên.

Du kích quân bò (không đi) gần một cây số về hướng địch để tấn công địch. Chắc lúc đó không cần địch bắn lại cũng nát cả hai đầu gối rồi! Cộng thêm L.V. bị thương tay, tiếp tục bò nữa. Vừa đau đầu gối, vừa tay bị thương mà liệng thêm một quả lựu đạn làm chết năm tên địch. Vậy thì lúc L.V. bò, năm tên địch đứng chờ cả buổi để được thấy kẻ thù quăng lựu đạn? Khiếp thật! Đúng là chuyện phim! ( Hồ Chí Minh có dấu đâu, ông ta nghĩ dân mình ngu lắm, cứ viết bừa đi, thiên hạ cứ tin!) Dù sao cũng nhờ những câu chuyện như vậy mà các nhà in của cộng sản thêm cộng trạng đóng góp cho Đảng.

Thêm một chuyện thật về một người bạn. Hai vợ chồng là giáo viên. Một hôm chồng đi làm về mệt mỏi, đói bụng, hỏi vợ: Hôm nay em cho anh ăn gì vậy? Vợ đáp: Thức ăn ngon lắm, trong lồng bàn em dọn sẵn cho anh. Em và con đang đói, nhưng nhường hết cho anh ăn đó…Ông chồng cảm động ôm hôn vợ, hôm nay sao vợ mình chăm sóc chồng kỹ lưỡng đến thế, chắc phải là món ăn đặc biệt lắm. Anh ta vội tới vỡ lồng bàn thì… thấy một đống bằng ban khen đủ màu đủ sắc! 

“Bảng Vàng” của ông Hồ “sáng tạo” trên đây ý nghĩa cũng không khác những bảng vàng ghi công “liệt sĩ,” “mẹ liệt sĩ,” “mẹ anh hùng” v.v..mà nhiều bảng vàng đó người ta vẫn còn thấy nhan nhãn treo trên những miếng ván trong những mái nhà đơn sơ. Thậm chí những bảng vàng này còn được những “mẹ liệt sĩ” mang theo tận Hà Nội và Sài Gòn để trước ngực cho công an thấy như “bảo hiểm” mong khỏi bị đánh đập vì tội dám biểu tình đòi nhà nước trả nhà, trả đất bị cướp đoạt nhiều năm. Bài học dạy nói láo của Hồ Chí Minh phải chăng xâm nhập vào từng làn da sớ thịt của đảng viên nên trong vấn đề dân oan biểu tình, mọi hứa hẹn này nọ của nhà nước, người dân đều không tin tưởng. Họ quyết chí tiếp tục xuống đường đòi công lý, dù cực khổ nằm sương dãi nắng, thiếu ăn thiếu mặc, bị công an hành hạ đánh đập…

Chuyện cộng sản nói phét thì nhiều lắm. Vô số văn thơ viết về cái láo của cộng sản. Ngục sĩ nguyễn Chí Thiện có thơ rằng: …”Bác cười, Bác hỏi li chi ngọn ngành…Việc ăn ở, việc học hành…Lao động Bác dặn chấp hành tốt nhanh…Kẹo bánh Bác hứa để dành…Chủ nghĩa xã hội hoàn thành sẽ cho!” Có ai nghĩ là: cái gì cũng có thể xảy ra tại xã hội Việt Nam trừ chủ nghĩa cộng sản – một thứ bánh vẽ mà vì người ta muốn ăn quá nên người vẽ ra bánh đó đã phải dùng búa, lưỡi liềm bên cạnh bánh để cho cảm tưởng một sự sắc máu xảy ra trước khi ăn bánh vẽ. Muốn ăn bánh vẽ phải hy sinh, phải đổ máu. Thứ bánh này chưa xuất hiện ở trần gian, cũng như kẹo của “Bác Hồ” chỉ phải để dành dụ khị trẻ thơ mơ tưởng ngày bánh kia xuất hiện. Chỉ là một thứ bánh vẽ mà nhân loại đã bị bỏ thây trên 100 triệu rồi. 

Riêng tại Việt Nam phải nói ít nhất là 5 triệu kể từ ngày ông Hồ trở về Việt Nam sau 30 năm tìm bánh. “Bạo lực về rất vội!…Chết trận, chết tù, hỡi ôi xã hội!…Biết bao là vợ góa con côi…Bán thân rồi lại bán cả mồ hôi…Mà đói rét vẫn quần sớm tối…” (Nguyễn Chí Thiện). Có người sống lay lất nhờ biết thi vị hóa cuộc đời. Ôi, có phải thật là lãng mạn mới sống cho qua cơn ác  mộng dưới thời cộng sản, sống như “đêm giữa ban ngày,” như trong cõi âm u tù lao mà có “hoa địa ngục!”

 Nhà văn Xuân Vũ, một nhân vật miền Nam tập kết ra Bắc. Ông kể trong trong quyển  “Đồng Bằng Gai Gốc”: Có một lần, Đảng tổ chức ngày liên hoan, trong đó có tiếp đón một nữ chiến sĩ từ miền Nam ra Bắc. Khi được giới thiệu “Tạ Thị Kiều” thì ngay lập tức có một phụ nữ trẻ khoảng trên 20 tuổi bước lên khán đài tự xưng là Tạ Thị Kiều. Kiều được nổi tiếng ngoài Bắc vì được kể trong các bài báo, cô có chiến thuật dùng con khỉ dụ địch chiếm 3 lô cốt một lúc. Xuân Vũ mừng quá. Qua bao nhiêu sách báo tin tức nói về người nữ cán bộ “cực kỳ can đảm và thông minh” này Xuân Vũ đã đọc qua và thán phục. Người này lại cùng quê Bến Tre với Xuân Vũ thì còn gì hãnh diện hơn! Xuân Vũ vội chạy lên khán đài bắt tay ôm chầm mừng rỡ. Xuân Vũ kể trong sách, lúc ấy mọi người ở dưới vỗ tay rần rộ, nhà báo chụp hình lia. Thật là những giây phút xúc động! Nhưng, phải chăng, ”xúc động” này riêng của Xuân Vũ không phải chỉ là “biểu diễn”?  

Chỉ có vài tháng sau khi ra Bắc 1954, Xuân Vũ đã thấy chán ngán chế độ, biết mình bị lường gạt, nên có đệ đơn xin Đảng cho về Nam lại, nhưng đơn không được chấp thuận. Trên đường đi gia nhập Đảng, trong tinh thần phấn khởi ông đã làm hai câu thơ “ Mười năm dồn lại một ngày…Là ngày tay mẹ cầm tay Bác Hồ!” Nghĩ rằng ông sẽ ở Bắc mười năm để chiến đấu và sau đó rước mẹ ra gặp “Bác Hồ.” Nhưng rồi một thời gian sau, hai câu thơ trên ông lại đổi thành “Mười năm rõ mặt Bác Hồ…Là con quái vật miệng hô mắt lồi!” 

Để thấy sự gian dối và hung tàn của Hồ Chí Minh đến độ Xuân Vũ, một chiến sĩ văn hóa có lý tưởng phụng sự chân chính, phải thốt ra những lời thơ trên. Xuân Vũ âm thầm theo kế hoạch vào Nam công tác, nhưng thật ra là đi trốn. Dọc đường trường sơn (đường mòn HCM) ông đã chứng kiến bao nhiêu là hiện tượng kinh hoàng, tội ác của cái gọi là “chống Mỹ cứu nước” của Hồ Chí Minh. Khi về tới miền Nam, ông vẫn không quên người phụ nữ họ Tạ mà ông quyết lòng muốn gặp. Xuân Vũ đến gặp cô Hai, là em của cha. Bà này là Huyện Ủy của một huyện tỉnh Bến Tre. Ông nghĩ rằng cô Hai biết Tạ Thị Kiều và sẽ tìm cách cho ông đi thăm để tìm hiểu thêm. Nhưng bà Huyện Ủy trả lời là làm gì có tên Tạ Thị Kiều ở vùng này, cũng như công trạng của Kiều mà Xuân Vũ vừa kể,  bà cũng chưa bao giờ nghe hay biết đến. Thế là chiến sĩ gái Tạ Thị Kiều, người ở Bến Tre lập thành tích hiển hách nhờ dùng con khỉ chiếm đồn bót địch cũng là chuyện “sáng tạo” của Ban Tuyên Huấn Hà Nội, mà chỉ có người miền Bắc biết thôi. Chỉ còn lại trong tâm tưởng một người phụ nữ miền Nam cùng quê can đảm, có lòng yêu nước, ít nhất cũng có tâm tư thật sự đi “làm cách mạng” như ông nay đã tan rã. Hồi chánh viên Xuân Vũ  bị thêm một cái gạt nữa trong giờ phút cuối cùng thoát khỏi vòng kiềm hãm của xã hội chủ nghĩa!

Lê Văn Tám cũng là một nhân vật tưởng tượng mà mãi đến sau này ông Trần Huy Liệu mới tiết lộ. Thế mà Đảng dám ngang nhiên cuốc mồ xới mả nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi tại Sài Gòn để đặt thành “công viên Lê Văn Tám”, một người trong tiểu thuyết tuyên truyền của Đảng. Còn nhiều nữa những nhân vật “anh hùng” mà Đảng đã “sáng tạo.” Nhưng không có cái sáng tạo nào kỳ quái và vô liêm sỉ cho bằng ông Hồ đã tự đặt cho mình hai bút hiệu Trần Dân Tiên và T Lan trong hai quyển sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện một mình.” Trong đó tự ông ca tụng mình, đủ trò đủ chuyện. Hai cuốn ông viết láo chưa đủ. Ông đã viết rất nhiều bài với nhiều bút hiệu khác nhau, mà “Viện Bảo Tàng Hồ Chí Minh” cũng tuyên bố có lần ông lấy 5 bút danh khác nhau để viết báo Thanh Niên vì tờ báo đó chỉ có một mình ông, không có người tiếp tay. Như ta biết Đảng cũng công khai ông Hồ có trên 174 tên họ, bút danh, bí danh. Còn trên 30 bí danh, bút danh nữa đang còn trong vòng kiểm chứng. Đó, một phần “phong cách” của ông Hồ. 

Người cộng sản xem sự thật không là gì cả. Họ dùng tất cả mọi phương tiện để đạt mục đích, và cho đó là đường lối bất di dịch nên không ngại nói láo, viết láo, dạy người khác láo giống mình. Bởi vậy mà dân chúng có câu “nói láo như vẹm.” Chữ vẹm ở đây có lẽ là cách đọc của VM (Việt Minh), nói nhanh thành vẹm.  

     Người ta cũng hay nói là người cộng sản nói láo mãi rồi tới lúc cái láo đó thấm vào tim vào óc và cứ tưởng là thật. Bởi vậy cho tới ngày nay có thể nói hằng triệu cuốn sách do sự chỉ huy của Đảng in ra từ các nhà xuất bản (kiểm soát bởi Đảng) có cuốn sách nào là trung thực? Đảng viên, cán bộ, sinh viên, học sinh, tất cả đều bị nhồi nhét những điều không thực. Thế nên có lắm lần những nhân vật ly khai (cựu đảng viên) phát biểu trên các đài phát thanh trong cuộc phỏng vấn, các ông đều không nhiều thì ít còn “ảnh hưởng” cái bị nhồi sọ chưa thể tẩy hết, mặc dù đã chán ghét, đã khinh khi chế độ, và coi tởm Hồ Chí Minh đến tận xương tủy.

Ông Mai Văn Bộ, một cán bộ cao cấp của Đảng, người miền Nam, tỉnh Hậu Giang. Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong thời gian phục vụ  Đảng Cộng Sản: giám đốc Sở Báo Chí Nam Bộ, phó giám đốc Đại Học Y Dược Sài Gòn v.v..Trong quyển “Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh,” trang 47, nhà xuất bản Trẻ, tác giả Mai Văn Bộ viết: “Đồng bào Cao Lãnh nhớ mãi ông thầy Huế giỏi nghề thuốc, nhưng vì hoạt động yêu nước phải xa xứ.” Không biết rằng ông Mai Văn Bộ biết mà cố tình bẻ cong ngòi bút để viết sai,  hay không biết vì bị nhồi nhét bởi sách ca tụng Hồ Chí Minh nên mới cùng Đảng viết lại lịch sử. Ông có biết rằng sau ngày cộng sản Liên-Sô và Đông Âu sụp đổ, rất nhiều tài liệu về nhân vật họ Hồ đã được tung ra cho người ta nghiên cứu. 

Nhà nữ sử học Hoa Kỳ biết nói và đọc tiếng Việt, Sophie Quinn Judge, ở Liên-Sô liền trong sáu năm. Hai  năm cuối bà bỏ thời gian nghiên cứu về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tài liệu tham khảo từ kho lưu trữ mật của quốc tế cộng sản và sau được mang tên “Trung tâm của nước Nga lưu trữ và nghiên cứu tài liệu lịch sử hiện đại.” Tài liệu đáng tin cậy của bà Sophie sau này được nhiều người dựa vào để biết thêm về Hồ Chí Minh về các bà vợ Tàu, Việt, Nga của ông Hồ.   

Ông Bùi Tín, một cựu đảng viên, hiện sống tại Pháp, đã từng nắm chức Phó Tổng Biên Tập báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đã đưa ra một số tài liệu, nhân chứng về ông Hồ. ”Về Ba Ông Thánh,” tác giả Thành Tín (Bùi Tín), 1996, trang 135: “Thật ra anh thanh niên Nguyễn Tất Thành lên tàu sang Pháp năm 1911 không phải là để tìm đường cứu nước, mà là sau một bi kịch của gia đình. Bố anh, ông tri huyện Nguyễn Sinh Huy (Sắc), đầu năm 1910 bị một án kỷ luật nặng, mất chức tri huyện Bình Khê (Bình Định), bị hạ 4 cấp trong ngạch quan lại, bị đuổi khỏi ngạch này vì tội say rượu, đánh chết một nông dân Tạ Đức Quang. Ông huyện Huy vừa mất nguồn sinh sống, phải làm nghề thầy lang bốc thuốc, vừa mất thể diện, không bao giờ trở về Huế về làng Kim Liên (Nghệ An) nữa. Anh Thành đang học Trung học phải bỏ học, tìm đường tự cứu mình và cứu gia đình. Anh làm bồi bếp ở tàu thủy, ở Luân Đôn, xin vào học trường thuộc địa…”  

 Ông Bùi Tín không thể bừa bãi viết sao thì viết. Ông ly khai khỏi Đảng vì đã chán ghét cái nói láo suốt ngày, biết bộ mặt thật của những con người cộng sản, và vì còn lương tri con người nên cuộc đời còn lại ông đã đóng góp thêm về sự thật cuộc đời Hồ và Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Người cộng sản hay lạm dụng từ ngữ. Cái gì hay đẹp trên đời có lẽ họ cướp lấy hết để trên sách báo, dán trên môi. Thế nào là “vì hoạt động yêu nước phải xa xứ?” Ông Sắc “họat động yêu nước” chỗ nào? Trong sách sử người ta chưa hề biết tới một hành động nào gọi là “yêu nước” của ông ta. Nếu có sao ông Bộ không nêu ra một bằng chứng điển hình? Chuyện hiển nhiên ông Sắc bị đuổi ra khỏi chức tri huyện vì phạm tội liên hệ giết người, mà nhiều sách đã ghi cùng tên nhân chứng, thế mà ông Mai Văn Bộ ”sáng tạo” từ tội phạm lên đến “yêu nước.” Cũng như chính ông Hồ và Đảng đã và đang tôn vinh Hồ Chí Minh như độc đáo tốt đẹp về mọi phương diện, trong khi trên thực tế với đầy đủ chứng minh, ông ta chỉ là một cán bộ quốc tế phục vụ quyền lợi quốc tế cộng sản, lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân để tròng lên đầu lên cổ dân một chủ nghĩa ngoại lai vô nhân bản. Từ một kẻ bán nước, hại dân lên thành một anh hùng dân tộc. Ôi, đau đớn nhất phải nói là thành phần tuổi trẻ đã và đang bị nhồi nhét những điều bịa đặt của đảng cộng sản bày ra, gọi là “lịch sử.” Bao nhiêu gian dối lọc lừa đã bị bao phủ, bị giấu diếm, có chăng một thiểu số dùng internet truy tầm tài liệu mới biết ra sự thật. 

Ông Hoàng Hữu Quýnh, một cựu đảng viên hiện đang sống bên Nga, tác giả “Tôi Bỏ Đảng” trang 251: “Chủ tịch vĩ đại Hồ Chí Minh đã dạy cán bộ rằng: “Cứ nói láo mãi rồi cũng có người tin là như vậy!”“ Bởi vậy, có người than rằng Cộng sản nói láo riết, đến khi có một chuyện nào đó thật thì cũng không biết đâu mà tin. Nhưng bạn đọc hãy tin rằng những gì ông Hồ dạy, như trên, là thật đó. Hồ Chí Minh dạy nói láo là thật!

     

Bút Sử

Monday, October 6, 2025

KHI NGƯỜI TRONG CUỘC NÓI VỀ PHIM MƯA ĐỎ. HƯ CẤU VÀ SỰ THẬT LỊCH SỬ…



Xin nói trước một điều: là đồng nghiệp của những người làm phim Mưa Đỏ, tôi hết sức ủng hộ tác phẩm này, và trong một stt viết về Mưa Đỏ dưới góc nhìn Ký hiệu học, tôi có kết: “Nhưng nói gì thì nói, bộ phim Mưa Đỏ vẫn là một bước tiến lớn của điện ảnh Việt Nam…”, thì đó không phải là một lời đãi bôi, khen để mà khen – như có người “ném đá nhẹ, yêu”, mà là một lời hứa danh dự khi tôi có thời gian xem lại những phim có liên quan tới chiến tranh CM (trong đó có phim của tôi) để chứng minh cho nhận định đó!
Nhưng mấy hôm nay, xuất hiện một tình huống rất kỳ lạ, khá đặc biệt, và hiếm thấy, là để bênh vực phim Mưa Đỏ “bằng mọi giá”, người ta đã vô tình xúc phạm đến các cựu chiến binh chiến trường Quảng Trị 1972 chủ yếu bằng “lý luận”: Khán giả hôm nay- nhất là các CCB đã không phân biệt được phim truyện hư cấu (fiction) và phim tài liệu (document)! Thậm chí có đôi ba bình luận mỉa mai đầy ác ý rằng: các bác (các anh) ấy có khi chỉ có mặt ở mặt trận đó đôi ba ngày, chỉ như “thầy bói xem voi” hoặc nghe đồng đội kể lại, rồi cứ khăng khăng đòi phim truyện hư cấu phải đảm bảo y như lịch sử đã diễn ra!
Xin thưa, đối với những người làm điện ảnh tử tế, những khán giả như các CCB đang bị chê bôi và lên án một cách bất công đó lại chính là “Khán giả Vàng” đấy ạ! Các bác (các anh) ấy cũng có trình độ thưởng thức phim ảnh chẳng kém thậm chí còn là bậc thầy mấy vị đương bĩu môi kênh kiệu kia!
Nếu như nữ đạo diễn trẻ tuổi thanh minh trên báo chí rằng: mình chỉ làm phim truyện dựa theo một số tình tiết của tiểu thuyết và không có tham vọng “ôm” hết lịch sử cuộc chiến ở Quảng Trị, thì đã đành và cũng dễ thông cảm, bởi ít kinh nghiệm nghề nghiệp, nhưng có không ít vị mang hàng đống tri thức quân sự, lịch sử, văn học, văn hóa… ra để bênh vực cho lý lẽ ngây thơ kia thì thực đáng buồn!
Các vị ấy chắc đã biết trong VHNT, có loại nghệ thuật chỉ mượn lịch sử như một “cái đinh” để treo quan sát & suy ngẫm của người sáng tạo (như tuyên bố của A. Duma), nhưng cũng có tác phẩm mà nhà văn – người nghệ sĩ đã dày công nghiên cứu sử liệu và sự thật đời sống cách xa họ hàng trăm năm một cách chính xác và chi tiết,– như Flaubert khi viết tiểu thuyết lịch sử Xalambô, như A. Tolstoy khi viết tiểu thuyết lịch sử Pie đại đế, hoặc các đạo diễn điện ảnh nổi tiếng thế giới về thể loại phim lịch sử như Ridley Scott, Steven Spielberg, Oliver Stone, David Lean, Kurosawa Akira, John Ford, v.v. Chắc chắn là các nhà văn – nghệ sĩ lớn đó đã nhào nặn sự thật lịch sử, đúc tìm sự thật lịch sử từ chất liệu đời sống để tạo ra những hình tượng nghệ thật chứa đụng sự thật mạnh hơn, chói sáng hơn sự thật vốn có – và dĩ nhiên, họ cần đến hư cấu nghệ thuật- nhưng đó là sự hư cấu tôn trọng tối đa xương sống & hồn cốt của Lịch sử!
Nhà nghiên cứu & lý luận văn học Nguyễn Văn Dân vừa rồi, nhân vụ tiểu thuyết và phim "Mưa đỏ", đã phải đăng lại bài viết trong Hội thảo về Tiểu thuyết Lịch sử cách đây hơn 10 năm, mà ta có thể dùng soi chiếu vào vấn đề Phim lịch sử (chính các nhà làm phim Mưa Đỏ và các nhà Cố vấn lịch sử của phim đã xác định đó là “phim lịch sử, phim sử thi”, với các con số - sự kiện – nhân vật lịch sử được ghi trong chính sử, với tham vọng rõ rệt là tái hiện chiến trường Quảng Trị trong giai đoạn máu lửa, khốc liệt của cuộc chiến giai đoạn 1972):
"Hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử có một nét đặc thù riêng, không giống với hư cấu của tiểu thuyết nói chung. Tiểu thuyết lịch sử phải căn cứ vào sự kiện và nhân vật lịch sử có thật, cho nên dù có hư cấu thì cũng chỉ có thể tạo ra các sự kiện giống như “chất phụ gia” cho lịch sử chứ không thể làm sai lệch lịch sử".
Còn nhà văn Phạm Viết Đào bức xúc:
“Phim hay tác phẩm văn học nghệ thuật dù là thể loại gì nhưng khi cậu chuyện, sự kiện hay nhân vật có liên quan tới sự thật được coi là lịch sử được tái hiện thì nhà nghệ thuật tuy được quyền hưu cấu, nhưng sự hư cấu đó không được phép làm sai lạc bản chất của sự thật hay nhân vật lịch sử được mượn danh.
Luật Xuất bản đã ban hành điều cấm “ Xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, danh nhân, anh hùng dân tộc”...
…Theo dõi, đọc nhiều tài liệu lịch sử, hồi ức của các CCB của hai phía thì giao tranh tại Chiến trường Quảng Trị xảy ra chủ yếu xung quanh tỉnh lỵ Quảng Trị chứ không phải ở trong địa bàn thành cổ Quảng Trị. Bộ binh của hai phía có xung đột giao tranh, hạ sát nhau nhưng chủ yếu là phi pháo và không quân. Quân Việt Cộng bị sát thương và quân Việt Nam Cộng hòa bị sát thương không phải do các trận chạm súng AK, AR 15, bằng lưỡi lê báng súng hay võ thuật… được lạm phô trên Mưa đỏ… các CCB từng tham gia đánh nhau ở Quảng Trị suốt ngày chui hầm tránh pháo, ăn đói sức đâu mà hú hét tung quyền cước…”
Hoặc tác giả Tiểu Vũ trao đổi với tác giả tiểu thuyết và đạo diễn Mưa Đỏ:
“…Phim lịch sử có được quyền hư cấu không? Câu trả lời là có, nhưng đi kèm với trách nhiệm. Trách nhiệm ấy là phải cân nhắc giữa nghệ thuật và sự thật, giữa ấn tượng thị giác và ký ức của những người từng sống trong cuộc chiến. Một chi tiết thêm vào có thể khiến tác phẩm kịch tính hơn, nhưng cũng có thể biến nó thành điểm yếu khi đối diện với sự phản biện của lịch sử...
Ở đây, phản ứng từ cựu binh không phải là phủ nhận giá trị nghệ thuật của bộ phim. Họ chỉ đòi hỏi một sự công bằng cho ký ức, rằng những gì không có thật thì đừng nên nhân danh lịch sử để kể lại. Một bộ phim có thể tạo nên dư âm mạnh mẽ, nhưng cũng có thể để lại vết xước khó lành trong lòng những người từng trải..."
Khi nữ đạo diễn Thái Huyền trả lời vui với báo chí rằng: nếu làm phim tài liệu lịch sử mà chị sai lệch một chi tiết, thì chị sẽ mất sao ngay, thì ta cần thấy hàm chứa trong đó sự thật cay đắng này: Cái sự thật trong phim truyện hư cấu Mưa Đỏ cần tuân thủ yêu cầu về nội dung – tư tưởng của Ban cố vấn Lịch sử - mà sự hư cấu đó là cần thiết, dù có sai lệch lịch sử một cách ghê người – như xác nhận của nhiều CCB, trong đó có sĩ quan cao cấp của chiến dịch, vì nhiệm vụ Chính trị tối thượng!
Nhưng đã thế thì đừng nỡ trách oan các CCB là người trong cuộc đã có phản ứng về sự xuyên tạc, bóp méo sự thực lịch sử trong phim! Còn nói như nhà văn quân đội Chu Lai đang ăn khách hàng đầu giới văn chương là: cần có Hội thảo khoa học về chuyện thiêu sống tù nhân của bên đối phương, thì chúng ta chỉ có thể chờ đợi một kiểu Hội thảo tôn vinh ông Phạm Xuân Thệ đã nổi danh nhiều năm qua về việc cướp công đồng đội!
Đạo diễn MA NAT

Tuesday, September 23, 2025

SỰ THẬT CUỘC CHIẾN BẢO VỆ QUẢNG TRỊ TỪ GÓC ĐỘ CHỈ HUY CAO NHẤT CỦA MẶT TRẬN

 Lưu Trọng Văn

Bên sông Nhật Lệ sáng ấy tôi uống cafe với Hoàng Ba. Ba giới thiệu mình là con trai của đại tá Hoàng Thiện, chính uỷ kiêm bí thư đảng uỷ Ban chỉ huy Mặt trận bảo vệ thị xã Quảng Trị những ngày ác liệt nhất năm 1972.
Chính uỷ Hoàng Thiện.
Tôi hỏi cuộc chiến 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị à? Hoàng Ba đáp: Ba em bảo không có cái gọi là “81 ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị”, mà chỉ có “81 ngày đêm bảo vệ thị xã Quảng Trị” thôi. Em hỏi vì sao? Ba em bảo vì thành cổ rất nhỏ nằm trong thị xã Quảng Trị, không có đánh nhau trong thành cổ mà chỉ đánh nhau ở thị xã.

Em có gặp một số bạn chiến đấu của ba em bảo vệ thị xã Quảng Trị, họ đều ca ngợi ba em là vị chỉ huy có quyết định sáng suốt nhất khi ra lệnh quân ta rút lui khỏi thị xã. Nếu không có lệnh quyết đoán, trái với chủ trương tiếp tục tấn công thì có thể sẽ không còn ai sống sót ở thị xã Quảng Trị.
Tôi lúc đó muốn gặp đại tá Hoàng Thiện, Ba bảo, ba em sắp 100 tuổi rồi, cụ lúc này sức khoẻ yếu lắm.
Thế rồi những ngày này dư luận nổi sóng về bộ phim Mưa Đỏ. Sự kiện cuộc chiến thị xã Quảng Trị được nhiều cựu chiến binh trao đổi. Hoàng Ba cho gã xem bức thư viết tay của đại tá Hoàng Thiện gửi ban viết sử về cuộc chiến này.
Tôi xin tóm tắt vài đoạn quan trọng của bức thư:
“Trước hết tôi xin mạnh dạn và thẳng thắn mà nói rằng chủ trương giữ Thị xã Quảng Trị là một sai lầm lớn về chiến lược: Duy ý chí không khoa học, không tuân thủ những nguyên lý, nguyên tắc, tư tưởng quân sự mà cha ông đã đúc kết. Nhất là trong điều kiện "Mỹ hoá chiến trường", chủ yếu là bằng hoả lực, nó thừa hoả lực và đầy đủ các yếu tố để sử dụng tối đa hoả lực!
Tôi thấy có những đoạn của cuốn sử như là hư cấu, ví dụ các trận vận động tấn công giữa ban ngày dưới phi pháo của địch… diệt bao nhiêu địch… nghe rất chính quy, rất bài bản, như là diễn tập thực binh vậy! Ta thử tưởng tượng xem, với địa hình trơ trụi như vậy, máy bay trinh sát liên tục trên đầu, toạ độ nó đã chuẩn bị sẵn, nó thừa bom đạn, máy bay đã cài bom, đạn pháo đã lên nòng, ta tập kết quân, tổ chức chiến đấu, tổ chức hiệp đồng thế vào đây mà dám thoát ly công sự đánh vào mũi này mũi nọ. Quân ta vận động chiến đấu dưới sự yểm trợ của hoả lực cấp trên (thử xem được mấy quả pháo, mấy quả cối).
Còn tập kích ban đêm. Phải nói địa hình quân ta không thành thạo, địch ta nắm không chắc, chúng luôn né tránh, nghi binh, nó thừa biết ta là tập kích ban đêm, nó dại gì ở một chỗ cho ta tiêu diệt. Chưa nói chuyện ta tổ chức chiến đấu, tổ chức hiệp đồng xong thì trời gần sáng. Thường trong đánh Mỹ ta phải dùng bí mật bất ngờ, khéo nghi binh bám sát thắt lưng địch mà đánh mới diệt được chúng… Tình tiết thì còn nhiều vấn đề nữa”.
Tôi xin cắt khúc đoạn này để nói về lý do nào ngày 22.7.1972 trung đoàn 95 do ông Hoàng Thiện là chính uỷ được điều động vượt sông Thạch Hãn tham gia cùng trung đoàn 48 bảo vệ thị xã Quảng Trị.
Tháng 3 năm 1972 quân giải phóng tấn công và giải phóng thị xã Quảng Trị. Đây là chiến thắng của quân giải phóng tạo thế mạnh cho đàm phán hoà bình ở Paris. Quân đội VNCH đã tổ chức phản công nhưng thất bại.
Tài liệu của phía VNCH cho biết:
“Mất tỉnh Quảng Trị vào tay bộ đội Bắc Việt, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ngay sau đó đã thay thế hai viên tướng: Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh Quân đoàn 1) và Lê Nguyên Khang (Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến) bằng tướng Ngô Quang Trưởng và tướng Bùi Thế Lân, và tăng cường thêm lực lượng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù, Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân rồi sau đó thêm Lữ đoàn 3 Nhảy Dù và Trung đoàn 4 thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh để phản công tái chiếm các vùng đất đã mất.
Từ ngày 11 tháng 7, dưới sự chỉ huy của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Quân đoàn 1 được tăng cường Lực lượng Tổng trừ bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và được yểm trợ từ xa bởi Đệ thất Hạm đội của Mỹ ở ngoài khơi và Không quân Mỹ đã bắt đầu cuộc phản công tái chiếm Quảng Trị.
Các kế hoạch phản công của quân đội Việt Nam Cộng hoà đã hình thành nhanh chóng, tái chiếm được một số căn cứ cũ như Bastogne, Checkmate và chợ Quảng Trị, Ty Y tế, Ngân Khố, Tòa Án… để cuối cùng đánh bật bộ đội Bắc Việt ra khỏi thành cổ Đinh Công Tráng ở Quảng Trị (ngày 16 tháng 9) sau 81 ngày đêm họ cố thủ tại đây”.
Chính vì cục diện chiến trường thay đổi ban chỉ huy Mặt trận B5 do tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy đã tăng cường trung đoàn 95 của sư đoàn chủ lực 325 vượt sông Thạch Hãn chi viện cho bộ đội bảo vệ thị xã Quảng Trị.
Dinh tỉnh trưởng – nơi ông Hoàng Thiện ra lệnh rút lui.
Đại tá Hoàng Thiện tường thuật tiếp trong thư:
“Sau khi tôi vào Thị xã được khoảng một tuần, thì xảy ra mâu thuẫn chủ yếu giữa tôi và đồng chí Thuý( trong ban chỉ huy). Tôi thì cho rằng tình hình này chủ yếu là phải giữ chốt, còn phản kích thì chỉ khi cần thiết và có điều kiện. Đồng chí Thuý thì lại thiên về vận động tấn công ban ngày và tổ chức tập kích ban đêm. Nhưng bộ đội càng thoát ly công sự thì càng bị tổn thất và mất dần trận địa (thực ra tôi đã từng quần với địch ở đồng bằng QK5), tiếp xúc với nhiều loại đối tượng địch (tôi ở E21 QK5) rất thấm thía là bộ binh địch không mạnh, nhưng nó luôn dựa vào hoả lực để diệt ta, bộ binh luôn né tránh và lừa ta. Suốt thời gian ở Thị xã, tôi chưa thấy được 1 trận vận động tấn công và tập kích nào có hiệu quả, có chăng chỉ dựng lên mà thôi.
Nhưng khốn nỗi trên lại nghe một chiều báo cáo của đồng chí Thuý, còn tôi luôn bị lép vế. Tôi suy nghĩ là Chính uỷ, là Bí thư Ban cán sự phải làm gì đây? Tôi đã ba lần gửi ba bức thư về sư đoàn, nói rõ thực trạng tình hình địch, ta (mỗi lá thư tôi viết cả một tờ giấy liền), lá thư thứ ba tôi có nói: Cần phải quý trọng tính mạng của người chiến sĩ: “hành quân chết, vượt sông chết, tập kết chưa có công sự chết, lạc vào địch chết v.v...”. Thế là tôi được mang bản án đầu tiên là sợ địch, hữu khuynh, không dám tấn công, sợ chết!
Quá bức xúc, ngày 13/9 trước tình thế hiểm nghèo, tôi qua sông đến Nhan biểu để báo cáo thực trạng với đồng chí Việt, tham mưu trưởng sư đoàn. Nào ngờ tôi lại được mang bản án thứ hai là “dao động, lui về sau, bỏ nhiệm vụ”.
Tôi viết thế này là để mong các đồng chí trong Tổng kết phải rút ra được kết luận về sắp xếp tổ chức, chỉ huy, lãnh đạo làm sao cho khoa học, có lý có tình để phát huy được sức mạnh. Người chỉ huy phải luôn bám thực tiễn, dám quyết đoán trước biến động mới. Vấn đề báo cáo phải trung thực và người phải tỉnh táo, phải từ nhiều phía. Hết sức lắng nghe những ý kiến trái với mình".
Về tư tưởng chỉ đạo tác chiến:
"Trong bản Dự thảo nhiều đoạn các đồng chí viết về tổ chức phòng ngự và càng về sau càng có liên hoàn và có chiều sâu. Tôi cho rằng các đồng chí không bám thực tiễn lúc đó. Và tư liệu cung cấp có thể là do các đồng chí ở E48. Rõ ràng là không đúng sự thật. Tôi xin nói ở Thị xã Quảng Trị lúc bấy giờ không có khái niệm về phòng ngự. Từ "phòng ngự" là một từ huý, không ai được phát ra lời. Đụng đến từ ấy sẽ mất đầu như chơi, thì làm gì có tổ chức phòng ngự. Quảng Trị chỉ được nói tấn công, liên tục tấn công, vận động tấn công mà thôi. Trên thực tế thì có hình thành những điểm chốt, cụm chốt. Và chốt cũng để làm cơ sở cho tấn công thì làm gì có liên hoàn và chiều sâu.
Khi ra khỏi Thị xã Quảng Trị, tôi đã mang đầy đủ các tư liệu có mệnh lệnh, chỉ thị về chỉ đạo tác chiến ở Thị xã Quảng Trị để sau này tổng kết sẽ có chứng minh, nhưng tiếc thay đến khi tổng kết từ dưới lên trên tôi không được dự (không hiểu có phải có ai đó sợ tôi nói lên sự thật chăng?!).
Nếu có ý đồ phòng ngự thì với đặc điểm Thị xã như vậy, làm gì phải đem vào trên 10d bộ binh, một số đơn vị binh chủng kỹ thuật làm mồi cho bom đạn địch. Do đó tổn thất lớn cũng là từ đây, thua địch từng bước cũng là từ đây!
Trong dự thảo có nhiều đoạn mô tả ra vẻ rất bài bản, rất chính quy và bộ đội ta luôn sung sức. Thực tế luôn có nhiều loạc choạc và không có Tiểu đoàn nào trụ nổi 10 ngày đâu. Như các đồng bí biết thương vong bình quân mỗi ngày 100…! Tiểu đoàn 4E95, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, đến khi quân số còn 7, d5 còn 15, tôi cho ra sau để thu lượm anh em để củng cố lại, thế là tôi lại được thêm một cái tội là “tự tiện và vô nguyên tắc”.
Tôi muốn nói thêm việc vận dụng lý luận quân sự Đông Tây, kim cổ và lý luận quân sự Việt Nam đã được tổng kết.
- Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng.
- Những nguyên tắc để hạ quyết tâm: Địa hình, địch - ta (và ý định cấp trên).
Thực ra ba yếu tố đó cũng luôn biến động:
- Địa hình bị bom đạn địch cày xới như vậy cũng luôn biến dạng, tang hoang có gì để che khuất, che đỡ?
- Địch "Mỹ hoá chiến tranh" đến cao độ chủ yếu là hoả lực và phương tiện kỹ thuật. Chúng thực hiện huỷ diệt để lấn chiếm. Bộ binh địch luôn dựa vào hoả lực và đi sau hoả lực. Nó làm nát các ổ đề kháng của ta rồi mới cho bộ binh vào.
Trong tình hình như vậy mà ta tổ chức lực lượng, đánh vận động tấn công để tiêu diệt 1, 2 B của địch thì thật là ảo tưởng.
- Ta cũng luôn có biến động cả lượng và chất.
Quân số liên tục hao hụt, cán bộ chỉ huy luôn bị xáo trộn, có khi cán bộ Tiểu đoàn phải chỉ huy 1B, thậm chí 1A, có khi cán bộ Trung đội lại chỉ huy Tiểu đoàn v.v...
Lính lúc đầu vào thì sung sức, được huấn luyện tốt, càng về sau chất lượng giảm dần, có những lứa 16, 17 tuổi, vào bộ đội huấn luyện gấp được 1 tháng vào chiến trường ngơ ngơ ngác ngác, lại vào ban đêm hỏi ở đơn vị nào không biết, hỏi cán bộ Đại đội là ai… không biết. Thế mà lúc nào cũng cứ quân ta anh dũng kiên cường, quân địch tang hoang mang giao động!
Súng, pháo bị tiêu hao dần, đạn không có đủ. Cao xạ gần như bị tê liệt, pháo binh chi viện được tích từng quả, phương tiện thông tin v.v.. Trước thực trạng đó lãnh đạo chỉ huy phải xử trí thế nào? Hay là cứ trước sao, sau vậy.
Đề nghị với các đồng chí cũng nên đem vào Tổng kết.
Phải dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói đúng sự thật.
Tôi cho rằng trong chiến tranh, trong chiến đấu đặc biệt là ở Thị xã Quảng Trị thì sự tổn thất hy sinh là không thể tránh khỏi. Nhưng người lãnh đạo, người chỉ huy phải tìm đủ mọi cách để tránh được tổn thất hy sinh không đáng có. Không nên xây lầu vinh quang trên xương máu của chiến sĩ - Đây là một tội ác.
Tôi thấy cũng cần phải tổng kết để rút kinh nghiệm cho đời sau.
Là một cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chủ chốt trong Thị xã Quảng Trị, tôi luôn tự vấn mình -trước vong linh chiến sĩ, tôi tự thấy mình luôn là người có lỗi.
Tiếc rằng nhiều người còn né tránh, đổ tội cho người khác.
Đau đớn cho tôi, khi ra khỏi Quảng Trị, cấp trên coi tôi như là một phạm nhân chưa được xét xử, nhanh chóng tách tôi ra khỏi đơn vị, đến nỗi tổng kết ở E, bình công khen thưởng, nhận xét cán bộ tôi cũng không được dự. Thậm chí ra đi không kèn, không trống, không được chào hỏi, từ biệt anh em! May thay tôi vẫn luôn được cán bộ, chiến sĩ thông cảm và thương mến. Biểu hiện rõ nhất là hôm gặp ở Thành cổ vừa rồi, đã qua 32 năm nhưng họ vẫn mang một tình cảm sâu đậm.
Kiểm điểm thi hành kỷ luật tôi thì ở E không biết. Chỉ có một cuộc hội nghị Đảng uỷ F, gồm những người ngoài cuộc ngồi đằng sau đồng chí Nguyễn Công Trang Bí thư Đảng uỷ F đọc một bản tội trạng 5, 6 điểm gì đó. Sau đó phân tích phê phán (không rõ tư liệu đó lấy đâu rõ), sau đó có một vài ý kiến vụn vặt, số đông thì ẫm ờ, vì họ cũng không biết nói gì, không cho tôi trình bày gì. Sau đó đề nghị cách chức - mọi người dơ tay. Và sau đó điều tôi lên mặt trận bộ. Khi công bố kỷ luật đồng chí Hoàng Minh Thi phó chính uỷ Mặt trận gặp tôi nói xuê xoa mấy lời rồi giao quyết định”.
Đọc bức thư này, có thể hiểu hơn sự thật không chỉ từ phía những người lính mà từ các chỉ huy. Cuộc chiến giải phóng thị xã Quảng Trị là cột mốc lịch sử của quân đội VNDCCH, nhưng cuộc chiến bảo vệ thị xã này lại là cột mốc lịch sử khác. Nó đặt ra những bài học xương máu giữa duy ý chí tiến công và thực tiễn chiến hào. Đại tá Hoàng Thiện đã bị kỷ luật, bị cho ra ngoài các cuộc bình công, đúc kết lịch sử chỉ vì ông dám nói lên sự thật về những sai lầm duy ý chí của cấp trên, vì ông trước hy sinh của lính và thực tế chiến trường đã dũng cảm quyết định rút lui, chấp nhận cuộc bảo vệ thị xã Quảng Trị thất bại.
Khi gã viết những dòng này, Hoàng Ba - con trai của đại tá Hoàng Thiện - gửi cho gã một tài liệu. Tài liệu này cho biết:
“Ban chỉ huy B5 lúc 13h ngày 13-9-1972 điện thoại yêu cầu trung đoàn phó trung đoàn 48 ra nhận lệnh. Nhưng đến 1h ngày 14-9-1972 lại gọi Hoàng Thiện chính uỷ trung đoàn 95, chỉ huy mặt trận ra Nhan Biểu để cùng sư đoàn phó sư đoàn 325 “tổ chức tiến công”.
Nhưng khi gặp lãnh đạo mặt trận B5 ông Thiện không nghe cấp trên, ông đề nghị rút quân ra khỏi Thành cổ… (Chính vì vậy sau này B5 báo lại ông mới bị kỷ luật). Ông Thiện chống lệnh rồi lập tức tự mình quay lại sở chỉ huy mặt trận chiều 15.9.1972. Tối 15.9.1972 ông Thiện triệu tập cuộc họp với 5 chỉ huy của mặt trận cùng ra quyết định rút quân trong đêm 15.9.1972.
Hai giờ sớm 16.9.1972 bộ đội ở thị xã bơi qua sông Thạch Hãn vì không có thuyền.

Ảnh: Ông Hoàng Thiện (gần 100 tuổi) gặp người cần vụ đã dìu mình vượt sông Thạch Hãn. Nguồn: Đào Xuân Kính

Lưu Trọng Văn
(Nguồn Fb tác giả)

Friday, September 5, 2025

ĐẠI ÚY OSS RAY GRELECKI KỂ VỀ NGÀY 02 THÁNG 9 NĂM 1945

Bút Sử

  

Bối cảnh trước 8/1945.

 

Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chánh Pháp. Ngày 11/3/1945 vua Bảo Đại xé hòa ước 1884 và tuyên bố Việt Nam độc lập đồng thời chấp thuận cùng Nhật nằm trong khối Đại Đông Á. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập 17/4/1945 gồm những thành phần trí thức yêu nước. Chính phủ thực hiện những chương trình đáng kể trong giai đoạn nắm quyền: sửa đổi hành chánh, hợp nhất hai chính quyền bảo hộ và Nam triều, thay thế công chức Pháp bằng công chức Việt, ra lệnh dạy tiếng Việt tại các trường trung tiểu học, dự định thống nhất luật pháp ba kỳ để tránh lạm quyền về hành chánh và tư pháp, tổ chức đoàn Thanh Niên Tiền Phong, chiến dịch chống nạn đói tại miền Bắc (Việt Sử A/B, nxb Trường Thi, Saigon, 1974).

 

Sau vụ 2 trái bom nguyên tử Mỹ thả tại Hiroshima và Nagasaki vào đầu 8/1945, miền Bắc Việt Nam rơi vào một lỗ hổng chính trị (political vacuum). Việt Minh lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh(HCM) lợi dụng tình thế và cướp chính phủ Trần Trọng Kim vào 17/8/1945 và sau đó làm cuộc tập họp lớn hơn vào 19/8/1945 tuyên bố cướp chính quyền.

 

Đại sứ Pháp Jean Sainteny được máy bay Mỹ đưa tới Hà Nội vào 22/8/1945 cùng với một số người trong cơ quan tình báo OSS của Hoa Kỳ, trong đó có chỉ huy trưởng Archimedes Patti. Nước Pháp bị kiệt quệ sau vụ quân Đức chiếm đóng. Sainteny phải dựa vào sự giúp đỡ của người Mỹ.

 

Captain Ray Grelecki kể lại những điều xảy ra khi vừa tới Hà Nội. Những cán bộ Việt Minh đã vui mừng tiếp đón ông một cách thân mật. Đại diện cao cấp OSS ở miền Bắc là Archimedes Patti, trong Nam ông Peter Dewey. Các ông chỉ huy OSS thì được nhận xét là còn quá trẻ, thiếu kinh nghiệm, không hiểu nhiều về tình hình Đông Dương nên đã có những hành động làm lợi cho HCM. Tuy nhiên, sau này khi Patti viết cuốn Why Vietnam và trả lời phỏng vấn ông đã đưa ra cách nhìn khá sáng tỏ mà trước đó ông rất ác cảm với người Pháp.

 

 

Phe HCM đã vận động ráo riết, nhất là với Patti, để mong Hoa Kỳ công nhận khi tập đoàn ra mắt “chính phủ”. Ngày 26/8/1945, một phái đoàn hướng dẫn bởi Võ Nguyên Giáp kéo nhau tới tư thất ông Patti để níu kéo ông “hợp tác” bằng cách trỗ cờ và quốc ca Hoa Kỳ. Những tấm hình được chụp tại hiện tượng này được phổ biến choViệt Minh và người dân về một “thế lực ngoại giao”, nhưng ít ai thấy ra mưu đồ trong việc sắp xếp đó. Hơn nữa, người miền Bắc ngay lúc đó đang ngưỡng mộ Hoa Kỳ, một cường quốc giàu có thắng thế chiến thứ 2, dẹp bọn phát xít Nhật.

 

Người Mỹ tới Hà Nội 1945 nhìn thấy nạn đói (Uncle Ho Uncle Sam)

 

(Why Vietnam, page 234)

 

Đám đông vĩ đại ngày 2/9/1945 tại sân Ba Đình đa số họ không biết HCM là ai, một tên họ rất xa lạ. Họ những tưởng có người Mỹ tham dự cùng đứng trên kháng đài với HCM vì trước đó một tuần, tức 26/8/1945, có cuộc meeting “hoan hô phái bộ đồng minh” mà Việt Minh kêu gọi dân chúng ra thật đông để ủng hộ người Mỹ. Trong sách ông Patti có kể lại rằng ông được lệnh không ra dự. Thế là, như hình trên, chúng ta thấy cả phái đoàn trong ban tổ chức phải kéo tới tư thất của Patti để chụp hình. Patti còn xác nhận là Hoa Kỳ không phải “đồng minh” với Việt Minh. Hai chữ “đồng minh” này cũng được cán bộ mang vào Nam cùng hình ảnh để chiêu dụ thêm người theo cộng sản.

 

Kiểm điểm kỹ thì chỉ có một nhóm nhỏ thuộc OSS đứng dưới cùng đám đông ngày  2/9, trong đó có Patti và Grelecki. Máy bay Mỹ thì lượn qua lại để quan sát mà thôi. Thật ra, một điều vô cùng quan trọng đối với HCM là được Hoa Kỳ công nhận, nhưng không thể có chuyện đó vì Hoa Kỳ và phe Anh Pháp đã thấy ra làn sóng đỏ, mà Nguyễn Ái Quốc đang đại diện tại Đông Dương. Ngay vào 22/ 8/1945 khi Sainteny và Patti vừa tới Hà Nội thì đã thấy cờ đỏ sao vàng, cùng nhiều biểu ngữ ủng hộ Đảng Lao Động núp danh. Trên lý thuyết Đảng Lao Động ra đời 1951.

 

Vào 3/1945 khi HCM gặp viên chức OSS Charles Fenn để nhờ giới thiệu gặp tướng Mỹ Claire Chennault để xin hình, ông Fenn đã nghe ngóng tin rằng HCM là cộng sản nên hỏi HCM có phải là cộng sản không thì Hồ trả lời không, và Hồ cũng từ chối nếu ai nói Hồ chống Pháp.

 

Tình báo Mỹ đã có những làm việc với HCM sau vụ trung úy phi công Mỹ, Rudolph Shaw, đáp xuống vùng Việt Minh khi máy bay bị hỏng vào 11/11/1944. Trước đó vào 8/1942 khi HCM bị phe Tưởng Giới Thạch bắt giam, ông Gauss là đại sứ tại Chungking đã thông báo Bộ Ngoại Giao để điều tra về HCM.

 

The American also knew about Ho, and had done so since the autumn of 1942, long before his release from the imprisonment – Người Mỹ cũng đã biết về ông Hồ từ mùa thu năm 1942, thời gian dài trước khi ông ta được thả ra từ trại giam (Britain in Vietnam, Peter Neville, 2007, page 49).

 

Tổng thống Truman nhận thấy rõ mối đe dọa cộng sản ở Âu Châu và Đông Dương. Hội nghị Potsdam hồi tháng 7 đã cho thấy sự hỗ trợ ngầm của Hoa Kỳ cho Pháp tái chiếm dù chưa hoàn toàn chính thức.

 

Ngày 2/9/1945, HCM đọc những lời của Thomas Jefferson trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ 1776, mà trước đó vài ngày Hồ đã nhờ ông Patti kiểm duyệt xem có nên đọc hay không. Patti cảm thấy hơi bị xúc phạm vì đó là thuộc quyền sở hữu của Hoa Kỳ, nhưng không có luật lệ gì cấm người khác dùng những lời đó đọc trước công chúng. Có lẽ ông Hồ này ngu ngơ (inane, chữ của Patti dùng).

 

Khi trên sân khấu khán đài diễn ra màn ca ngợi Mỹ thì dưới đám đông những toán diễn hành trong sắc phục lần lượt lướt qua lướt lại trước mặt vài người Mỹ này. Không những một vài lần mà nhiều lần như vậy, đến mức ông Grelecki phải bực mình. Ông biết Việt Minh nhìn các ông như là biểu tượng đại diện cho Hoa Kỳ nên đặc biệt gây sự chú ý cho người xem phim. Biểu ngữ trưng tại gần khán đài ghi là “THE DOC LAP” nửa tiếng Anh, nửa tiếng Việt – một loại ngôn ngữ ngoại lai mất gốc mà HCM sáng chế sau 30 năm lăng xăng sống ở nước ngoài. Hồ còn ngạo mạn đổi chữ d thành z, chữ c thành k, chữ y thành i, v.v..

 

(Uncle Ho, Uncle Sam)

Grelecki: People were coming from jungle, from country… Here we were symbolically a few American. They went over and over… Who else would they want reviewing the parade? I am American and captain Patti an American. Symbolically I represented my country.

 

Hội nghị Potsdam xảy ra từ 17/7/1945 -2/8/1945 cho phép Pháp với con số 62 ngàn quân vào Đông Dương. Tướng Anh Douglas Gracey trách nhiệm giải giới tàn quân Nhật tại miền Nam. Sau khi mở cỗng nhà tù cho quân Pháp ra (bị Nhật nhốt) thì sau đó 23/9/1945 đã có một trận tấn công lớn của quân Pháp đối với Việt cộng tại Saigon. Sự kiện này được cho thấy tướng Gracey đã giúp Pháp thực hiện.

 

Đại Úy Grelecki chỉ là một viên sĩ quan tầm thường như ông đã nói. Kiến thức về cộng sản nói chung thời đó người trẻ như Grelecki và Patti còn giới hạn. Ông kể khi trở về Hoa Kỳ, ông có tới trình diện tại War Department cùng với những tường trình (reports). Một viên chức tại đây gọi ông là “con” (son) với ngụ ý là rất còn non kém – Son, you don’t understand the big picture!

 

Grelecki được chỉ dẫn và nhìn thấy những tài liệu mà thế giới cộng sản đang rao truyền: kế hoạch của cộng sản về sự tấn chiếm xâm lăng (communist blueprint for conquest), những mạng lưới chằng chịt hăm dọa sẽ tiêu diệt nước Hoa Kỳ ( Vast networks throughout the free world threatened to destroy the United States)…

 

 

(Uncle Ho Uncle Sam)

 

The big picture! Hình ảnh bi thảm to lớn sau đó là cuộc chiến tranh lần thứ nhất kéo dài 8 năm tại Đông Dương xảy ra tại miền Bắc Việt Nam, và tiếp theo là 20 năm hai miền máu đổ anh em giết nhau chỉ vì Hồ thực hiện công tác cho quốc tế cộng sản, rồi kéo dài cho tới ngày nay giai đoạn mất nước vào tay đàn anh Trung Cộng.

 

Bùi Diễm: It was difficult for us to accept it. We never thought that the French could come back parading on the street of Hanoi – Rất là khó cho chúng tôi chấp nhận việc này. Chúng tôi đã không bao giờ nghĩ rằng người Pháp có thể trở lại với đoàn quân phô trương trên đường phố Hà Nội.

 


Người dân  ngỡ ngàng đứng trong nhà nhìn ra đoàn quân Pháp trên đường phố Hà Nội (Uncle Ho Uncle Sam)

 

Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp tiếp rước quân Pháp về Hà Nội ngay sau khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946. (HCM a Biography, documentary film, 1966, Walter Cronkite)

 

(Không biết ông Bùi Diễm có biết đoàn quân Pháp rần rộ trên phố Hà Nội lúc đó vào 3/1946 là do HCM và Võ Nguyên Giáp tiếp rước mang về? Họ được lệnh trở về Việt Nam tiếp tay với HCM sau khi quốc hội Pháp do Đảng Cộng Sản và Xã Hội nắm quyền làm ra Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946. Dĩ nhiên, trong phim khi được phỏng vấn, ông Bùi Diễm nói đúng vì không ai có thể chấp nhận chuyện trở lại của người Pháp với tính cai trị sau khi vua Bảo Đại đã xé hòa ước 1884 vào 11/3/1945. Người dân Hà Nội gọi rằng “HCM bán nước!” Sỡ dĩ đặt câu hỏi cho cựu đại sứ Bùi Diễm vì cách nay không lâu, vào 5/2013 trên tờ Việt Tide có bài của ông Bùi với tựa đề “ Quan điểm của một người Việt về sự tham chiến của Hoa Kỳ ở Việt Nam” trong đó ông cho rằng người Pháp vì “tham lam” nên trở về tái chiếm.)

 

Trong phim có nói hơn 6 ngàn dận bị chết trong giai đoạn Pháp chiếm đóng này. Nên ghi nhận rằng từ 3/1946 ít nhất cho tới 10/1946 Võ Nguyên Giáp hợp tác với quân đội Pháp lãnh đạo về quân sự để tàn sát những phe cánh quốc gia chống lại cộng sản.

 

Thời de Gaulle (1945) như kể trên đã có chương trình tái chiếm nhưng không chính thức qua hội nghị Potsdam; nhưng tới 9/1946 thì ngòi nổ thực sự xảy ra khi thủ tướng Georges Bidault thuộc khối bảo thủ nắm quyền nước Pháp trong chính phủ lâm thời. 12/1946 cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh bắt đầu xảy ra chính thức và tái chiếm Việt Nam dưới thời của Leon Blum, một người có chiều hướng thiên tả.

 

Ngay lúc HCM ở Pháp vận động trong giai đoạn hội nghị Fontainebleau, nhiều đảng viên cộng sản Pháp cũng đã xa lánh Hồ vì nhiều lý do: HCM không dám nhận mình là cộng sản nên mới có “nghiên cứu Mác Lê”, “Đảng Lao Động”, và nhất là họ khinh ghét khi Hồ gia nhập Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa làm thành viên nằm trong khối Liên Hiệp Pháp thuộc nước Pháp mẹ mà khối thiên tả đang nắm quyền. Trước đó họ nghĩ HCM là người quyết tâm giành độc lập cho xứ của ông ta, nay lại nạp mình hoàn toàn lệ thuộc nước Pháp sau vụ ký Hiệp Ước Sơ Bộ.

 

Đại úy Grelecki đã kết thúc ở đoạn cuối phim khi nhận thức ra một hình ảnh lớn, một đại họa do cộng sản gây ra, mà thới đó, 1945, ông đã không đủ kiến thức để biết, nhưng ít nhất là nhân chứng của ngày 2/9/1945 ông đã nhận thấy một cái gì đó có vẻ tính toán với đầy âm mưu của phe cánh HCM khi náo nức ca ngợi, đón tiếp chào mừng người Mỹ. Tất cả chỉ mong được chính phủ Hoa Kỳ “công nhận”. Để rồi nhiều năm sau người ta mới thấy rõ hơn bản chất cắc kè và xanh vỏ đỏ lòng của người quốc tế cộng sản sừng sỏ HCM.

 

Grelecki: Who else? I think it is natural for him to go to uncle Sam -Còn ai nữa? Tôi nghĩ là rất tự nhiên khi ông ta tìm đến chính phủ Hoa Kỳ. (Uncle Sam, a nick name of the US federal government -Samuel Wilson, a rich merchant in New York in 18th century).

 

Bác Hồ (uncle Hồ) được sử gia giáo sư Bernard Fall cho rằng HCM tự đặt cho mình. Ông Fall nhận xét về HCM : một người rất giảo quyệt, khi ra lệnh hành quyết (execution) những đồng chí của ông ta, ông ta đứng xa để tránh tiếng; một người không có trái tim á đông mà với bộ óc sắt đá được huấn luyện từ phương Tây; ông ta làm việc không ngừng nghỉ để đạt mục đích…(HCM a Biography, 1966, Walter Cronkite)

 

Một uncle thì giàu có, hùng mạnh, đại diện cho khối tự do, một uncle thì cứ lúc nào cũng van xin nài nỉ. Bộ phim cho thấy hình ảnh hai thái cực như trắng với đen, như tự do với độc tài. Thời đó, ngoài việc HCM muốn Hoa Kỳ công nhận, ông ta còn muốn được viện trợ về kinh tế nữa, nhất là giúp nạn đói triền miên kéo dài tại miền Bắc nhiều năm. Có ít nhất 10 lá thư Hồ viết gởi tổng thống Truman và các viên chức cao cấp Hoa Kỳ, nhưng tất cả không được trả lời.

 

Tóm lại, vào giai đoạn vừa cướp chính quyền và thành lập chính phủ liên hiệp, bề ngoài thì hợp tác với một vài thành phần thuộc các đảng phái quốc gia, biểu ngữ hoan hô nghinh tiếp người Mỹ tại Ba Đình ngày 2/9/1945…Tất cả chỉ là hợp tác giai đoạn để thực hiện kế hoạch lâu dài.

 

 

Bút Sử

 

Sources: Uncle Ho Uncle Sam, documentary film,1998, BBC; Ho Chi Minh A Biography, documentary film, 1966, Walter Cronkite; Britain in Vietnam, 2007, Peter Neville; Why Vietnam, 1980, Archimedes Patti; Việt Sử 12A/B, nxb Trường Thi, 1974, Saigon.

         

Saturday, July 26, 2025

HIỆP ĐỊNH GENÈVE: TUỔI TRẺ VIỆT NAM CẦN MỘT SỰ THẬT

 Hoàng Thanh Trúc

 

alt

"... Không có ông Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa CS vào Việt Nam thì không có Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, không có "ta vào Nam nổ súng là đánh cho Liên xô, Trung Quốc" (Lê Duẩn) với 20 năm cốt nhục tương tàn, gần 3 triệu người nằm xuống vô nghĩa (so Nam Hàn với hàng trăm ngàn người Việt đang làm nô lệ hiện nay) và quan trọng là không có hành vi tập thể "vô đạo"chưa từng có trong lịch sử nhân loại là con tố cha, em tố anh, vợ tố chồng, trò tố thầy, để CSVN trực tiếp giết chết cho 172.000 (tư liệu CCRĐ của CSVN) đồng bào vô tội...". 


Hiệp Định Genève 1954 - Như vết thương thầm lặng, mãi vẫn "mưng mủ" chưa bao giờ lành trong tâm thức người dân Việt, cứ mỗi trung tuần tháng 7 hàng năm (20/7) như trái gió trở trời lại làm nhói đau trái tim nhiều chục triệu đồng bào chúng ta trong một câu hỏi: Tại sao Đông Nam Á hàng chục quốc gia chỉ duy nhất Việt Nam là phải có Hiệp Định chia đôi đất nước gây ra đẫm máu và nước mắt ấy và nếu không có cái hiệp định đó thì quốc gia chúng ta sẽ như thế nào? câu hỏi này trăn trở trong tư duy những công dân trẻ từ 19 đến 29 tuổi (sinh sau 1975) chiếm 1/3 dân số hiện nay mà vì lý do "nhạy cảm" của chế độ CS khá nhiều bạn trẻ trong số này chưa có điều kiện tiếp cận Iternet hay bị nhồi nhét khẩu hiệu tuyên truyền duy nhất "Đảng ta anh hùng giải phóng dân tộc" nên đôi khi chưa đối diện với chân lý, bản chất của sự thật.


Có hàng ngàn tư liệu, nhiều nguồn, nhiều khuynh hướng khách và chủ quan tỉ mỉ khác nhau trong góc nhìn về Hiệp Định Genève 1954 nhưng tựu trung nổi bật lên dễ nhận diện ra nhất đó là:


"...Không có ông Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam thì không bao giờ có Hiệp Định Genève chia đôi đất nước". Dù hiện nay thứ chủ nghĩa CS ngoại lai không dị ứng với "máu" người này đã sụp đổ, nhân loại nguyền rủa, nhưng di luỵ trầm luân của nó vẫn còn đeo đẳng dân tộc VN đến tận ngày nay, nỗi thống khổ vẫn chưa chưa dứt được. 


Đây là sự khẳng định tuyệt đối thách thức mọi sự phản bác, bởi nó chứng minh từ tư liệu lưu trữ tàng thư trong văn khố Nga, Trung, Pháp, Nhật và Hoa Kỳ với nhân chứng vật chứng cùng thời điểm từ quá khứ tại Việt Nam còn tồn tại để không có chất "cường toan" nào tẩy xoá nỗi một sự thật, mà CSVN cứ cố tình trắng trợn bịp bợm lừa gạt nhân dân mình. 


Mới đây, ngày 4/7/2014, Ban Tuyên giáo Trung ương CSVN đã ban hành Hướng dẫn số 128-HD/BTGTW tuyên truyền kỷ niệm 60 năm Ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (20/7/1954-20/7/2014)


MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU (của Ban Tuyên giáo Trung ương CSVN)


"… Giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc về vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trên mặt trận ngoại giao… Qua việc đảng CSVN với Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết Ngày 20 tháng 7 năm 1954 (!??) (*)


Chỉ có bản chất lưu manh bịp bợm vì vinh hoa phú quí quyền lợi con cháu cá nhân đảng phái bầy đàn mới vô liêm sỉ nói khác hơn một sự thật từ khách quan của lịch sử? Những dữ kiện sự thật mà ai cũng biết trừ Chế độ CSVN là không muốn mọi đảng viên và nhân dân công khai mổ xẻ để biết tường tận. 


Chúng ta thử nghiệm suy xem "thắng lợi vĩ đại" đó nó như thế nào??


Khi châu Âu, giữa đệ nhị thế chiến, đế quốc thực dân Pháp bị đoàn quân phát xít Đức xâm lược đánh bại chiếm đóng, kéo theo thực dân Pháp phải mất quyền kiểm soát tại Đông Dương (Việt Miên Lào) và quyền này rơi vào tay quân Nhật, năm 1941. 


Ngày 9/3 năm 1945, khi tình hình chiến tranh Thái Bình Dương thay đổi bất lợi, Nhật đổi chính sách và đảo chính Pháp, bắt giam các tướng lãnh và tước khí giới của quân đội Pháp ở Đông dương. Đại sứ Nhật ở Đông Dương là Matsumoto Shunichi giao trách nhiệm cho đại diện Pháp là Toàn quyền Đông Dương Đô đốc Jean Decoux ra tối hậu thư đòi người Pháp phải chấp nhận vô điều kiện quyền chỉ huy của Nhật trên mọi phương diện. 

Tại kinh đô Huế, đại úy quân đội Nhật Kanebo Noburu vào yết kiến trình báo cho vua Bảo Đại biết quyền lực của thực dân Pháp đã chấm dứt trên toàn cõi Đông Dương . Cùng chiều hướng đó Đế quốc Nhật Bản thoả thuận trao trả độc lập cho Việt Nam.

Hai ngày sau, 11 Tháng Ba năm 1945, vua Bảo Đại triệu cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama Masayuki vào điện Kiến Trung để tuyên bố: Nước Việt Nam độc lập. Cùng đi với Yokoyama là tổng lãnh sự Konagaya Akira và lãnh sự Watanabe Taizo. Bản tuyên ngôn đó có chữ ký của sáu vị thượng thư trong Cơ mật Viện là Phạm QuỳnhHồ Đắc KhảiƯng ÚyBùi Bằng ĐoànTrần Thanh Đạt, và Trương Như Đính, chiếu chỉ đề ngày 27 Tháng Giêng ta năm thứ 20 niên hiệu Bảo Đại (nguyên văn): 


"Cứ theo tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á Châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ ngày hôm nay, Hoà ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được huỷ bỏ và vô hiệu hoá. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia Độc lập". 


Theo đó triều đình Huế hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 (vốn áp đặt nền bảo hộ thực dân lên toàn cõi nước Việt). Tiếp theo Vua Bảo Đại ban hành Dụ số 1 ra ngày 17 tháng 3/1945 lấy khẩu hiệu "Dân Vi Quý" (
民爲貴) làm phương châm trị quốc. Nhà sử học Trần Trọng Kim được nhà vua triệu ra Huế giao nhiệm vụ thành lập nội các mới.


Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam (không kể các triều đại phong kiến và chính phủ bảo hộ của Pháp trước đó) và ông Trần Trọng Kim trở thành thủ tướng đầu tiên của Việt Nam. Với nội các tập hợp được những trí thức có danh tiếng trong nhân dân lúc bấy giờ, thành phần nội các ra mắt quốc dân ngày 19 tháng 4/1945 trong đó các vị trí quan trọng gồm có những nhân sĩ:


Bác sĩ Trần Đình Nam - Bộ trưởng Bộ Nội vụ

Luật sư Trịnh Đình Thảo - Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Kỹ sư Lưu Văn Lang - Bộ trưởng Công chính

Bác sĩ Hồ Tá Khanh - Bộ trưởng Bộ Kinh tế

Luật sư Phan Anh - Bộ trưởng Bộ Thanh niên

Thạc sĩ Hoàng Xuân Hãn - Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ nghệ.


alt Chính phủ của Thủ tướng Trần Trọng Kim


Nội các Trần Trọng Kim với thành phần là những trí thức có tên tuổi - trong số đó phải kể tới một số nhân vật tiêu biểu của nước ta trước năm 1945, có uy tín đối với nhân dân, như Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Trịnh Đình Thảo, Phan An ...v.v… họ đều là những giáo sư, luật gia, nhà báo, khoa bảng, thực tài tốt nghiệm trong và ngoài nước hiếm có lúc bấy giờ (mà những người CSVN không có hay so sánh được ) - (Nhà sử học, giáo sư Đinh Xuân Lâm) (wikipedia)

(Chúng ta củng cần lưu ý) Bước đầu tiên của Bộ trưởng Tư pháp 
Trịnh Đình Thảo trong tân chính phủ Hoàng Gia Việt Nam lúc bấy giờ là ra lệnh trả tự do cho hàng ngàn tù nhân chính trị bị Pháp giam giữ bao gồm tất cả đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương và các đảng phái khác).


(Xem thả tù chính trị) trong: (vi.wikipedia.org/wiki/Đế_quốc_Việt_Nam)


Tuy nhiên, chỉ 10 ngày sau của chính sách nhân bản quang minh chính đại cho một Việt Nam đoàn kết vì Độc Lập của tân CP Trần Trọng Kim đổi lại là: Hành vi như phường "cướp cạn" của tay chân ông Hồ Chí Minh qua lời kể của nhạc sĩ Tô Hải (người tham dự mít tinh) - năm nay gần 90 tuổi- tường thuật lại được viết trong trang Blog của ông, nhân dịp nhớ lại ngày 19 tháng tám của hơn 60 năm trước. Cho đến nay, ngày này vẫn được sách vở chính thống tuyên giáo CSVN gọi là ngày tổng khởi nghĩa thành công, cướp chính quyền từ tay Pháp, hay từ tay Pháp và Nhật, hoặc từ chính phủ Trần Trọng Kim. !??. Đây các bạn trẻ Việt nam hãy xem một trong những "thắng lợi vĩ đại của đảng ta":


"Đúng ngày 17 tháng 8 năm 1945, chúng tôi kéo nhau đến quảng trường Nhà Hát Lớn Hà Nội mít-tinh chào mừng chính phủ mới Trần Trọng Kim của Việt Nam. Cuộc mít-tinh bắt đầu được mấy phút bỗng hàng loạt cờ đỏ sao vàng được tung ra, cờ quẻ ly (cờ vàng 3 sọc đỏ) treo trang trọng trên toà nhà bị giật xuống và trên bục diễn giả xuất hiện một người đeo poọc-hoọc, (tay chân của ông Hồ Chí Minh) cướp diễn đàn để diễn thuyết, kêu gọi đồng bào đi theo Việt Minh, đánh Pháp, đuổi Nhật, đòi lại áo cơm, tự do, xoá bỏ gông xiềng"

 

alt

     Hình bìa báo LIFE của Pháp- Khởi đầu Buổi Mít-tinh của Tổng Đoàn Công Chức Hà Nội chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim tại Hà Nội (cờ vàng 3 sọc đỏ treo trang trọng trước tiền sảnh)

 

alt

     Một lúc sau tay chân CS của ông HCM cướp diễn đàn giật cờ 3 sọc xuống trương lên cờ đỏ sao vàng giữa buổi mít tinh.


Họ - CSVN- lừa người dân nghèo khó thiếu thông tin thế giới quan - Nhưng giới trí thức người có học thì biết rất rõ rằng Nhật đã đảo chính Pháp từ ngày 9 tháng 3, rồi Nhật lại đã đầu hàng Mỹ và Đồng Minh từ đầu tháng 8 cùng năm, thì cách nói "cướp chính quyền từ tay Pháp và Nhật" là bịp bợm vì lẽ tại các thời điểm ấy thực dân Pháp và phát xít Nhật có còn đâu chính quyền thuộc địa để mà cướp? Vậy chỉ có thể nói là "cướp chính quyền Trần Trọng Kim" mà thôi.


Napoleon từng nói: Lịch Sử thường được viết lại bởi những kẻ thắng trận. 

(" History was written by victors" ) 


Đúng là như vậy, sau khi cướp chính quyền non trẻ Trần Trọng Kim của Việt Nam đang trền đà thành công giành lại Độc Lập, thì Ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN chữa thẹn bằng cách nói với nhân dân: "Cướp chính quyền Trần Trọng Kim tay sai, chính phủ bù nhìn của phát xít Nhật" – Nhưng một lần nữa sự thật và lịch sử không đứng về phía họ, bởi vì trước đó 2 ngày, ngày 15 tháng 8 Nhật hoàng Hirohito đã đọc bài diễn văn trên đài phát thanh quốc gia tuyên bố Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh. Bài diễn văn được phát đi trên khắp lãnh thổ Đế quốc Nhật Bản. Ngày 28 tháng 8, chỉ huy Tối cao Lực lượng Đồng Minh bắt đầu chiếm đóng Nhật Bản. Nghi lễ đầu hàng đã được thực hiện trên chiến hạm USS Missouri của Hải quân Hoa Kỳ.(**) 

 

alt

Ngoại trưởng Nhật Bản Shigemitsu ký văn kiện đầu hàng Mỹ và Đồng minh trên chiến hạm USS Missouri.


Thật là buồn cười cho một lối suy nghĩ ấu trĩ bịp bợm không biết xấu hổ là gì cho đến tận ngày nay họ, CSVN, vẫn là não trạng "đầu tôm" với lập luận ngu xuẩn biện minh cho hành vi cướp Chính Phủ non trẻ của quốc gia Việt Nam là họ: "Cướp chính quyền tay sai Trần Trọng Kim, chính phủ bù nhìn của phát xít Nhật". Có phi lý không? Làm tay sai cho một Nhật Bản thảm bại, đầu hàng vô điều kiện bị tước khí giới, không còn Chính Phủ, giao toàn bộ đất nước cho quân Mỹ chiếm đóng !?.


Tóm lại, khái quát cục diện toàn cảnh, Việt Nam, Đông Dương và Đông Nam Á, mọi chế độ thực dân tất yếu đã đến ngày cáo chung không có bất cứ lý do nào sống lại để chúng ta nghiệm suy ra rằng, từ năm 1945 nếu không có Hồ Chí Minh ăn phải "bả" CS khát máu, du nhập một thứ chủ nghĩa tàn bạo, cướp chính quyền, áp đặt lên đầu dân tộc Việt Nam một chủ nghĩa ngoại lai, thì ít nhất, nếu nhân dân còn suy tôn hướng về một Gia Long Nguyễn Ánh thì chúng ta đã có một "Cộng Hoà thống nhất Hoàng Gia Việt Nam" như Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, Campuchia hay văn minh dân chủ như Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc đã hoàn thiện hội nhập cất cánh với quốc hiệu đa nguyên: Việt Nam Cộng Hoà lâu rồi. 


Và nếu vậy thì dân tộc Việt Nam đã tránh được nghịch cảnh chia đôi đất nước như Hiệp Định Genève 1954 vì ý thức hệ bởi chủ nghĩa CS – Một thứ chủ nghĩa đã làm dân tộc trải xương máu suốt 2/3 thế kỷ nhưng đến nay chủ nghĩa ấy nó như ánh tà dương le lói cuối ngày trên toàn thế giới nhưng Tuyên Giáo CSVN thì chỉ thị ra sức tuyên truyền "cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam"-


Thật là cách mạng "vĩ đại" khi 190 quốc gia trên thế giới chỉ còn sót lại 4 nước CS lẻ loi trong đó CH/XHCN/CSVN là một!?? và là quốc gia có số dân nghèo nhiều nhất Khối ASEAN sau Campuchia? Nhưng tham nhũng thì nằm ở hàng đầu trong danh sách của tổ chức "minh bạch thế giới" !??

 


Hoàng Thanh Trúc