Friday, June 20, 2025
19 THÁNG SÁU: KHÔNG QUÊN NHỮNG CHIẾN SĨ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA
(Mến tặng các chiến hữu, đồng bào và những người bạn trẻ của tôi)

Tôi viết bài này, muốn vinh danh các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), và nói lên một vài nét để chứng minh rằng: nhiều kẻ, có cả những nhân vật cỡ lớn của nhiều hệ thống truyền thông báo chí, đã thiếu hiểu biết, hay cố tình với ác tâm, ác ý bôi nhọ Quân Ðội VNCH.
Họ đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ của những vụ xuống đường biểu tình chống chiến tranh Việt Nam của giới sinh viên đại học, mà cái tổ phát xuất của nó từ trường ðại học Kent State University, do một giáo sư, cán bộ cao cấp của Ðảng Cộng Sản Mỹ hồi đó, lãnh đạo, chỉ huy theo kế hoạch của Cộng Sản Quốc Tế. Bởi vì họ biết rằng đánh thắng Hoa Kỳ trên chiến trường Việt Nam thì rất khó, nhưng đánh thắng Hoa Kỳ tại Quốc Hội, trên đường phố, ở các trường đại học, trên mặt trận truyền thông thì chẳng khó bao nhiêu. Bởi thế cho nên công cuộc lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, góp phần đập tan tinh thần chiến đấu, quyết thắng của Quân Ðội Mỹ – vốn có từ xưa – trong cuộc chiến Việt Nam, phải được giao cho một giáo sư đại học có uy tín và là cán bộ cao cấp của Ðảng Cộng Sản Mỹ.
Sự việc này chỉ được người ta biết đến khi vị giáo sư lãnh đạo phong trào sinh viên biểu tình chống chiến tranh Việt Nam này từ trần, có Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Mỹ lúc đó, dự tang lễ, đọc điếu văn, nêu cao thành tích của người quá cố, góp công sức vào việc chấm dứt chiến tranh Việt Nam theo đường lối, kế hoạch của “Phong Trào Cách Mạng Vô Sản Thế Giới.”
Nhiều người đánh giá toàn thể Quân Ðội VNCH qua hành động xấu xa của một vài sĩ quan cao cấp đích thân, hay cho vợ con, đệ tử lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, nhất là giai đoạn Mỹ đổ quân tác chiến vào Việt Nam, để buôn lậu, làm áp-phe tiền bạc bằng nhiều cách. Họ đánh giá Quân Ðội VNCH qua hình ảnh tan rã của nhiều đơn vị quân đội vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I – một tướng lãnh từng được kể vào hàng danh tướng – được lệnh của tổng thống VNCH lúc đó, phải bỏ ngay Quân Khu I và Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Khu 2 phải bỏ vị trí vào lúc chưa đánh nhau chi cả và các đơn vị quân đội của hai tướng này đang sẵn sàng chờ địch tiến đánh, với tinh thần rất cao, như họ đã từng đánh bại quân cộng sản trên lãnh thổ 2 quân khu này. Hai Tướng Trưởng và Phú đều biết rõ: đánh thì chưa chắc đã chết, nhưng tự dưng bỏ chạy tán loạn thì cả quân lẫn dân sẽ chết thê thảm, kinh hoàng… Vị tổng thống lúc đó ra lệnh bỏ hai Quân Khu này khi chưa chạm địch để làm áp lực, hòng lôi kéo người bạn đồng minh khổng lồ đang bỏ đi, hay đúng hơn: tháo chạy bằng mọi giá, phải quay trở lại cứu Nam Việt Nam. Nếu không, “Tiền đồn chống cộng sản của Mỹ tại Ðông Nam Á Châu sẽ sụp đổ.” Tại sao ông tổng thống lúc đó không nghĩ đến việc: “Hơn nửa triệu quân Mỹ tham chiến với vũ khí tối tân nhất lúc đó, trừ vũ khí nguyên tử mà rốt cuộc phải “tháo chạy” bằng mọi giá, thì làm sao mà quay trở lại bây giờ, trong lúc một nửa lãnh thổ Nam Việt Nam đang rối loạn, sụp đổ hãi hùng, quân cộng sản có cả một khối cộng sản quốc tế đứng phía sau yểm trợ, thúc đẩy cộng sản Hà Nội giải quyết chiến trường càng mau càng tốt, trong không khí quyết chiến, quyết thắng điên cuồng, không thứ chi cản nổi.
Một đoạn băng trong số 150 giờ thu âm và 30 nghìn trang tài liệu đã được Thư Viện Nixon công bố, có lời của Tổng Thống Nixon nói với Cố Vấn An Ninh Henry A. Kissinger về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, là: để bắt tổng thống VNCH ký vào văn kiện hòa đàm, ông sẵn sàng “cắt đầu y nếu cần thiết” (cut off his head if necessary). Bài của Shaun Tandon trên AFP thì mô tả ông Nixon đã yêu cầu Kissinger nói với tổng thống VNCH rằng Quốc hội Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu Sài Gòn không đồng ý với kết quả hòa đàm.
Tổng Thống Mỹ Richard Nixon từng hứa với nhân dân Mỹ là chấm dứt chiến tranh Việt Nam, đem quân đội Mỹ trở về trong danh dự, trả người thân về với gia đình của họ. Qua trung gian của tổng thống hồi quốc, ông Nixon cho cố vấn Henry Kissinger (một nhân vật chính trị, ngoại giao quỷ quyệt, độc ác và tàn nhẫn) dọn đường cho ông gặp Mao Trạch Ðông, lãnh tụ cộng sản Trung Quốc. Họ Mao với sức mạnh của sư phụ, với uy thế của ông thầy bao nhiêu năm trợ giúp cố vấn, vũ khí chiến tranh, lương thực… đã ra lệnh cho cộng sản Hà Nội không được chơi trội, bắt bí phái đoàn Mỹ tại Hội Nghị Paris, dọa đánh cho Mỹ phải chạy mà không có “Hiệp Ðịnh ngưng bắn – Agreement of cease-fire” chi cả. Họ Mao cứu ông Nixon, nhưng ông Nixon phải đền ơn xứng đáng:
1-Vận động để cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ngồi vào cái ghế “Hội Viên Thường Trực -Permanent Member” của Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (với quyền phủ quyết) cuối năm 1971, trước khi ông Nixon gặp Họ Mao vào đầu năm 1972, mặc dầu Họ Mao đã chiếm hết lục địa Trung Quốc, thiết lập chính quyền, cai trị cả tỉ dân từ năm 1949. Còn ông Quốc Dân Ðảng Trung Hoa thì vẫn là bạn của Mỹ,nhưng phải rời khỏi cái ghế đó, chạy ra đảo Ðài Loan.
2-Ông Nixon phải bằng mọi cách, nhưng kín đáo, bán cho Họ Mao những vũ khí, kỹ thuật chiến tranh tối tân hiện đại nhất lúc đó để Trung Quốc đủ sức “đánh nhau tay đôi ” với Liên Xô khi cần, vì Liên Xô đã kết án, và đe dọa trừng trị Họ Mao về nhiều tội:
-Bất phục tùng Trung Tâm Lãnh Ðạo phong trào cộng sản thế giới là Ðiện Kremlin ở Moscow.
-Dám thiết lập Tư Tưởng Mao Trạch Ðông, trái nghịch với Học Thuyết Marx – Lenin, là: họ Mao thiết lập nền vô sản chuyên chính kiểu Trung Quốc: lấy Nông Dân (đại đa số dân Trung Quốc) làm giai cấp lãnh đạo, thay vì giai cấp công nhân lãnh đạo, như Học Thuyết Marx-Lenin, đã được dùng làm phương châm đấu tranh cho phong trào cộng sản toàn cầu.
-Muốn thống trị Á Châu bằng sức mạnh của Trung Quốc và Tư Tưởng Mao Trạch Ðông, tách ra khỏi sự lãnh đạo của điện Kremlin ở Moscow. Mao không chấp nhận “Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản,” theo luận điểm của Lenin về khả năng tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội không qua giai đoạn phát triển Tư Bản Chủ Nghĩa (Lenin’s thesis on the possibility of advancing to Socialism by passing the stage of capitalist development ) vì Liên Xô đã có cơ sở công nghiệp trong khi Trung Quốc chỉ có “Con trâu đi trước cái cầy.”
Như thế mới gọi là tư tưởng Mao Trạch Ðông, chớ Hồ Chí Minh, lãnh tụ cộng sản Hà Nội chỉ có biết trò “đu dây” theo voi ăn bã mía cả hai phía Liên Xô và Trung Quốc thì làm gì có cái gọi là Tư Tưởng Hồ Chí Minh như cộng sản Hà Nội vẫn ồn ào, ba hoa!
Nhiều sĩ quan cao cấp của VNCH trông cảnh quân sĩ dưới quyền bị tan rã một cách thê thảm, đau đớn, trông cảnh dân chúng cả triệu người trên đường tháo chạy, phải làm bia lãnh đạn trọng pháo, hỏa tiễn của Liên Xô và Trung Quốc tiêu diệt một cách tàn bạo, kinh hoàng, dã man mà thấy xót xa trong tim, trong lòng, phát điên phát khùng lên vì sự sai lầm của ông tổng thống, là tổng tư lệnh Quân Ðội mà không hiểu rằng: Những phòng tuyến đầu tiên bị tan rã, quân đội chưa đánh mà bỏ chạy tán loạn cùng với hàng triệu dân chúng thì hậu quả quân sự, chính trị, tâm lý của Nam Việt Nam sẽ ra làm sao!
Những kẻ bôi nhọ Quân Lực VNCH cố tình quên đi tinh thần chiến đấu của Quân Ðội này trong dịp Tết Mậu Thân -1968. Lúc đó quân cộng sản được trang bị cá nhân, tất cả bằng súng tiểu liên xung kích AK- 47 của Liên Xô, Tiệp Khắc, cùng với lực lượng võ trang của Mặt Trận Giải phóng miền Nam – do Hà Nội lập ra cho hợp tình thế chính trị – lợi dụng yếu tố bất ngờ khi phản bội thỏa hiệp ngừng bắn trong dịp Tết thiêng liêng cổ truyền của dân tộc Việt Nam, thình lình mở cuộc “Tổng tấn công” vào hầu hết các thành phố, thị trấn của Nam Việt Nam.
Trong khi đó Quân Ðội VNCH phần lớn chỉ được trang bị bằng súng trường bán tự động Garant M-1, Carbin M-1 và tiểu liên loại nhẹ Carbin M-2 của quân đội Mỹ sử dụng trong thời Ðệ Nhị Thế Chiến còn bỏ lại trong kho, cần thanh toán cho hết. Và vì bất ngờ cho nên chúng đã kiểm soát được một số lãnh thổ có tính cách chiến lược tại Quân Khu 2 và Quân Khu I, đồng thời tấn công mưu toan đánh chiếm luôn Thủ Ðô Sài Gòn. Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng tại Hà Nội ra lệnh phải giữ đất đã chiếm bằng mọi giá để đưa dân chúng Nam Việt Nam vào cuộc tổng nổi dậy, cướp chính quyền.
Do đó, khi chiến trường đã được quân đội VNCH giải tỏa, quân cộng sản bị đánh bại, phải bỏ chạy, phóng viên báo chí, truyền thanh, truyền hình đi theo quân đội mới thấy những xác chết của quân lính cộng sản bị xiềng chân vào công sự chiến đấu, các ổ bích kích pháo, súng đại liên. Cộng sản Hà Nội không bao giờ ngờ được rằng Quân Ðội VNCH có thể đánh bật chúng ra khỏi thành phố Huế sau một thời gian cộng sản chiếm đóng, toan tính thành lập chính quyền tại một thành phố giáp lưng với hậu phương to lớn của chúng ở bên kia sông Thạch Hãn, Quảng Trị, hay vĩ tuyến 17. Vậy mà cộng sản đã phải bỏ chạy khỏi thành phố Huế trong chiến dịch lịch sử Tết Mậu Thân -1968, chỉ kịp lùa theo chúng hàng ngàn quân sĩ, nhân viên chính quyền VNCH, đảng phái chính trị do chúng bắt được tại Huế, để dẫn đi tàn sát, chôn sống tập thể theo kiểu Hitler giết người Do Thái, Stalin giết người Ba Lan, nhưng ghê tởm hơn, vì chúng giết bằng đạn AK, bằng dao găm, mã tấu, còn sống cũng đạp xuống hố chôn luôn hàng chục, hàng trăm người 1 lúc.
Bốn năm sau, 1972, nắm được tinh thần “Bỏ cuộc, chạy làng” của “kẻ dịch khổng lồ” nhưng đã quá mệt mỏi, chán chường với cuộc chiến tranh không thể thắng ở tiền tuyến bằng súng đạn tối tân vì nó chẳng có mặt trận, chiến tuyến nào rõ ràng để mình chủ động sử dụng “ưu thế hỏa lực- Superiority of firepower” được cả. Chỉ gây chết chóc lây cho dân chúng bao nhiêu thì căm hận của dân chúng nông thôn càng hừng hực bốc lên chừng đó, qua các… đòn phép tuyên truyền hiểm độc của cộng sản. Trong khi đó hậu phương tại Mỹ Quốc thì rối loạn, nát bấy vì biểu tình, phản đối chiến tranh, đốt cờ, đốt thẻ trưng binh, Quốc Hội cãi nhau như mổ bò về chuyện có hay không viện trợ chiến tranh cho người bạn đồng minh để giữ vững cái “Tiền đồn chống cộng ở Á Châu.” Thế là cộng sản Hà Nội lại áp dụng bài học cũ, 18 năm về trước, đã dùng chiến thắng Ðiện Biên Phủ để đánh gục người Pháp tại Hòa Hội Geneva. Lịch sử và Quân Sử Hoa Kỳ đã phải ghi “Lần đầu tiên trong lịch sử, quân đội bách chiến bách thắng của Hoa Kỳ đã thua trận một cách đau đớn ê chề trên chiến trường Việt Nam – The first time in the American History, the unvanquishable armed forces of the United States lost ignominiously the war in Vietnam battlefield…”
Năm 1972, Hà Nội tung vào miền Nam những sư đoàn tinh nhuệ, thiện chiến nhất đã từng đánh tan hai Binh Ðoàn Lưu Ðộng (Groupements mobililes) của Pháp tại chiến trường Bắc Kạn-Lạng Sơn hồi 1950, bắt sống hai binh đoàn trưởng (Commandants de Groupements mobiles) là Ðại Tá Le Page và Trung Tá Charton, đưa những sư đoàn lừng danh từng đánh thắng, dứt điểm người Pháp tại chiến trường Ðiện Biên Phủ năm 1954 bằng những trận đánh vũ bão theo lối “Chiến tranh quy ước-Conventional War” hẳn hoi.
Hà Nội nhắm đánh vào Quân Khu I, lãnh thổ địa đầu của Nam Việt Nam, cho 15 ngàn quân của Sư Ðoàn 304 Tràn qua vĩ tuyến 17, dưới sự yểm trợ của pháo binh và hỏa lực phòng không trang bị hỏa tiễn địa-không SAM-2 của Liên Xô, sau ba ngày đêm đội những trận bão lửa pháo binh và hỏa tiễn. Sư Ðoàn 3 Bộ Binh VNCH là sư đoàn mới thành lập, trong đó chỉ có Trung Ðoàn 2 Bộ Binh nòng cốt là tương đối thiện chiến, còn hầu hết là tân binh, lính mới, và vị tư lệnh sư đoàn là trung đoàn trưởng mới được vinh thăng chuẩn tướng thì làm sao mà chịu cho nổi sức tiến quân của cộng sản!
Tại sao ông tổng thống, tổng tư lệnh Quân Ðội VNCH, Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, lại cho Sư Ðoàn 3 Bộ Binh mới thành lập trấn giữ cái cửa ngõ ngăn chặn quân cộng sản Bắc Việt ngay sát vĩ tuyến 17 như thế này? Tại sao lại như vậy?
Cộng sản đánh chiếm Tỉnh Lỵ Quảng Trị, mở đường xuống Huế rồi phối hợp với các đơn vị chính quy Bắc Việt, xâm nhập từ đường mòn Hồ Chí Minh, cũng như các lực lượng vũ trang địa phương, bộ đội chủ lực của tỉnh và huyện, dứt luôn Quân Khu 1. Ngoài mục tiêu quân sự, cộng sản còn nhắm vào những mục tiêu chính trị và ngoại giao to lớn, quan trọng hơn: trong cuộc Hòa Ðàm tại Paris để quân đội Mỹ ra đi trong danh dự, không đến nỗi bị cộng sản quốc tế và Hà Nội đánh cho phải chạy mà không có Hiệp Ðịnh ngừng bắn chi cả.
Tỉnh Lỵ Quảng Trị bị chiếm, cộng sản cho xe tăng T-54 của Liên Xô dẫn đầu, bộ binh và cơ giới kéo xuống Huế theo Quốc Lộ I, được pháo binh và hỏa tiễn 122 ly của Trung Quốc dọn đường. Quân cộng sản tiến về Huế như đi vào chỗ không có người. Dân chúng Quảng Trị thoát chết khi qua khỏi “Ðại lộ Kinh hoàng” tràn xuống Huế, trong khi dân chúng Huế cũng xô nhau bỏ chạy vì dân ở đây làm sao quên được vụ tàn sát ghê gớm với những mồ chôn tập thể trong dịp Tết Mậu Thân – 1968! Tướng 3 sao Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Ðoàn I- Quân Khu I (vị Tướng được nhiều nhân vật chính trị cũng như quân sự trong và ngoài nước đánh giá : không thích hợp để giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn I – Quân Khu I trong giai đoạn địch quân tiến như vũ bão thế này) hoảng hốt, không biết phải đối phó ra sao, chỉ biết cầu cứu liên tục về Dinh Ðộc Lập ở Sài Gòn. Tuyến đầu bị phá vỡ thì địch quân sẽ thừa thắng xông lên dễ dàng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Còn phía ta đã rút lui, tan vỡ bỏ chạy tán loạn thì tinh thần quân đội và dân chúng rối rắm ra sao, ai cũng biết rồi. Ai tạo nên khung cảnh bi thảm như thế này? Chính là ông tổng thống, tổng tư lệnh lúc đó!
Giới truyền thông ngoại quốc, nhất là ở Mỹ đã đánh giá Quân Ðội và các cấp chỉ huy của Quân Lực VNCH qua những tướng lãnh như vậy đó. Cho tới khi đài phát thanh loan báo: Tướng Ngô Quang Trưởng được điều động từ Quân Khu 4 ở trong Nam ra, nắm chức tư lệnh Quân Ðoàn I và Vùng I chiến thuật thay thế Tướng Lãm, dân chúng đang hỗn loạn bỏ chạy khỏi thành phố Huế thì nhiều người đã la lên “Tướng Ngô Quang Trưởng về làm Tư Lệnh Quân Ðoàn I, bảo vệ Huế và chiếm lại Quảng Trị thì bà con không có chạy đi đâu nữa cả! “Lòng dân tin tưởng mãnh liệt là thế!
Tướng Ngô Quang Trưởng xuất thân Khóa 4 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, gốc binh chủng “Thiên thần mũ đỏ nhẩy dù,” nhưng lúc này đã mang lon 3 sao vì những chiến công ngoài mặt trận, và luôn luôn hòa đồng với các sư đoàn Bộ Binh dưới quyền. Tướng Trưởng luôn mặc quân phục tác chiến của Bộ Binh, thay vì quân phục Nhẩy Dù. Có lẽ Tướng Trưởng nghĩ “chiếc áo không làm thành thầy tu,” tướng giỏi không cần phô trương bên ngoài mà cần phải đánh thắng trên trận địa và được lòng kính phục của quân sĩ.

Tướng Trưởng về Huế, chỉnh đốn lại quân ngũ, tái phối trí lực lượng, kêu gọi dân chúng an tâm, xin tăng phái lực lượng tổng trừ Bị: Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến từ Sài Gòn bay ra. Thế rồi trước sân cờ Phú Văn Lâu, Cổ Thành Huế, ông thề trước ba quân “Sẽ chiếm lại thành phố Quảng Trị trong thời gian ngắn nhất” như thời Nhà Trần, Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn, khi ra quân đã cầm gươm chỉ xuống sông Bạch Ðằng mà thề trước Tướng Sĩ: “Nếu phen này không phá tan được quân Mông Cổ thì ta sẽ không còn trông thấy con sông này nữa!”
Lịch sử dân tộc Việt Nam làm sao quên được những giờ phút bi hùng và oanh liệt như thế! Dưới quyền tư lệnh của Danh Tướng Ngô Quang Trưởng, Quân Ðội VNCH anh dũng chiến đấu, chặn đứng những sư đoàn thiện chiến, lẫy lừng nhất của cộng sản Hà Nội, trước sự ngỡ ngàng của dư luận trong và ngoài nước. Cổ Thành Quảng trị đã được chiếm lại. Quân cộng sản đành tháo chạy trở ngược về bên kia vĩ tuyến 17. Tướng Trưởng và quân sĩ của ông đã bảo vệ được Huế, chiếm lại cổ thành Quảng Trị đúng như lời thề trước sân cờ Phú Văn Lâu bữa nào. Tinh thần chiến đấu của Quân Ðội VNCH là như thế đấy! Tướng lãnh của Quân Ðội VNCH có những người như thế đó!
Tờ báo Time, tạp chí cỡ lớn của Hoa Kỳ, có lần đã đăng những dòng cảm nghĩ của Ðại Tướng 4 sao Hoa Kỳ, Norman Schwarzkopf, Tư Lệnh Chiến Dịch “Bão Sa mạc” (Desert storms), chinh phạt hung thần Saddam Hussein của xứ Iraq, xâm lăng Kuwait, đầu thập niên 1990, đại ý như sau “Hồi còn chiến đấu ở Khe Sanh thuộc lãnh thổ Quân Khu I Việt Nam Cộng Hòa, với tư cách là trung tá tiểu ðoàn trưởng Nhẩy Dù của Hoa Kỳ, tôi đã học được ở Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I – VNCH rất nhiều kinh nghiệm quý báu trong nghệ thuật chỉ huy cũng như tác chiến… Những kinh nghiệm đó đã giúp tôi rất nhiều trong binh nghiệp, kể cả trong chiến dịch Desert storms ở Kuwait.”
https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/19-thang-sau-khong-quen-nhung-chien-si-quan-luc-vnch-1/

Nhiều nhân vật chính trị, truyền thông tại sao không biết nhiều điều khi nói về Quân Ðội VNCH. Chẳng lẽ nào họ không đủ khả năng, trình độ để hiểu biết, hay mang đầy ác ý trong đầu. Rồi đến chiến trường An Lộc, Tỉnh Bình Long. Ở Hòa Hội Paris, Lê Ðức Thọ và Xuân Thủy, Ủy Viên Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng cộng sản, ra mặt lấn áp Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger trong các buổi mật đàm qua thế mạnh của quân cộng sản tại Miền Nam, trong khi Hoa Kỳ muốn rút chân cho mau khỏi “vũng lầy kinh khủng” này. Ðại Tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Quốc Phòng của cộng sản, người hùng Ðiện Biên Phủ, tuyên bố trên đài phát thanh Hà Nội “Nhân dân Việt Nam đã đánh gục 3 đời tổng thống Hoa Kỳ, và sẽ đập tan chính quyền Nixon bằng một cuộc chiến thắng hoàn toàn.”
Với cái khí thế như vậy, xe tăng T-54 của cộng sản đã tràn ngập, làm chủ tình hình thị xã An Lộc, dẫn theo sau những đơn vị bộ binh thiện chiến, danh tiếng nhất của cộng sản Hà Nội, sau khi những trận bão lửa pháo binh đã quét dọn sạch sẽ, không để lại những gì có thể sống sót. Các chiến sĩ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh VNCH cùng một số đơn vị bạn còn lại của địa phương Bình Long đã chiến đấu vô cùng anh dũng, ác liệt, giữ từng tấc đất, từng góc phố, ngõ hẻm để có chỗ đứng hay nằm mà chiến đấu vì ngưng chiến đấu tức là chết.
Mặt trận An Lộc làm rung động thế giới, làm rối loạn không khí hòa đàm tại Paris vốn đã nghiêng hẳn thế thuận lợi về phía cộng sản. Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh cũng như Hà Nội muốn An Lộc phải thất thủ kinh hoàng như Ðiện Biên Phủ ngày nào. Những tay cá độ quốc tế đã dám đánh 100 ăn 1 là An Lộc sẽ thất thủ để cho cộng sản tiến quân về Sài Gòn, đập tan chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ngay trong năm 1972. Tướng ba sao Vanuxem, tư lệnh quân đội Pháp tại Bắc Phi, người đã từng là Tư lệnh quân khu miền Nam Bắc Việt “đóng tại Nam Định hồi năm 1954, trả lời phỏng vấn của phóng viên báo chí: Quân Đội VNCH không thể nào giữ nổi An Lộc.”
Chắc là ông tướng ba sao của Pháp Vanuxem không quên nổi cái cảnh pháo binh các loại của cộng sản đã dội xuống Điện Biên Phủ như mưa bão suốt ngày đêm, làm tê liệt hoàn toàn các giàn trọng pháo hùng hậu của Pháp cho đến nỗi Ðại Tá Pirotti, chỉ huy trưởng pháo binh của Pháp tại chiến trường này quá thất vọng và khủng khiếp, phải mở chốt lựu đạn mà tự sát.
Có lẽ Tướng Vanuxem chưa quên được cái cảnh những sư đoàn cộng sản cuồng tín, đông như kiến cỏ, theo chiến thuật “Biển Người” của Thống Chế Lâm Bưu, nguyên soái Hồng Quân Trung Quốc, tràn qua các bãi mìn, đạp nát các công sự phòng thủ, các hàng rào kẽm gai chằng chịt, tràn xuống các giao thông hào, đạp lên xác chết của lính Pháp, Bắc Phi và cả quân cộng sản, phối hợp với quân cộng sản từ dưới đất chui lên từ các đường hầm đã được máy móc, cơ giới của Trung Quốc đào bới ngày đêm trong lúc pháo binh hỏa tiễn Trung Cộng liên tục nổ rầm trời.
Chắc Tướng Vanuxem liên tưởng đến cái cảnh Tư Lệnh chiến trường Ðiện Biên Phủ, Tướng De Castries, mặt mũi hốc hác, bị quân cộng sản bắt sống ngay tại căn hầm Chỉ huy, cùng với toàn thể Sĩ Quan Bộ Tham Mưu của Ông để rồi chiến tranh Việt-Pháp kể như chấm dứt từ chỗ này, mà phần thất bại tất nhiên thuộc về phía người Pháp.
Tướng Vanuxem tin chắc là Quân Ðội VNCH không thể nào giữ nổi An Lộc một khi Hà Nội đã quyết định biến An Lộc thành một thứ Ðiện Biên Phủ thứ 2, để giành thế chủ động trên bàn Hội Nghị tại Paris, một khi cộng sản Hà Nội có Liên Xô và Trung Quốc đứng sau lưng, nhất định bắt người Mỹ phải “nhắm mắt lại mà ký vào Hiệp Ðịnh Paris” như cộng sản đã bắt người Pháp phải làm như thế ở Hội Nghị Geneva 1954.
An Lộc đã bị thế giới coi như đã bị mất vào tay cộng sản. Thế mà, khi Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù, hợp lực với Biệt Ðộng Quân và một số đơn vị Bộ Binh VNCH kéo tới đánh những trận phản công sấm chớp, lở đất long trời thì xe tăng T-54 Xô Viết, cũng như Bộ Binh cộng sản từng làm mưa làm gió trước đó trên vùng đất An Lộc tan hoang, trơ trụi, đành phải mở đường máu mà tháo chạy mặc dù lệnh của Hà Nội phải giữ An Lộc đã chiếm bằng mọi giá.
An Lộc vẫn còn đó, không thất thủ như Ðiện Biên Phủ năm 1954. Cả thế giới kinh ngạc. Tướng ba sao của Pháp Vanuxem cùng dân cá độ quốc tế đã thua đậm trong keo này. Tướng Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống Ðệ Nhị VNCH, bỗng dưng có được giờ phút vinh quang và oai hùng nhất trong cuộc đời binh nghiệp cũng như chính trị của ông: đáp trực thăng xuống ngay chiến trường An Lộc giữa tiếng hoan hô vang dậy không ngớt của của các chiến sĩ VNCH vừa chiếm lại An Lộc, trong khi tiếng đại bác của hai bên, tiếng hỏa tiễn 122 ly của Trung Cộng vẫn còn nổ vang quanh vùng, và An Lộc vẫn còn mù mịt, khét lẹt mùi lửa đạn .
Ðó! Tinh thần chiến đấu của Quân Ðội VNCH là như thế đấy! Và còn biết bao nhiêu trận đánh lẫy lừng khác trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Một bài báo có hạn, làm sao kể hết! Năm 1975, cộng sản đánh chiếm Ban Mê Thuột, cũng chẳng khác gì cộng sản đánh chiếm Huế năm 1968, đánh chiếm Quảng Trị, kiểm soát An Lộc năm 1972 bao nhiêu. Vậy thì khi Ban Mê Thuột mới rơi vào tay giặc trong sự bất ngờ, tại sao ông tổng thống của phe ta lại hạ lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú phải bỏ ngay Quân Khu 2, cho Tướng Ngô Quang Trưởng phải bỏ Quân Khu I, trong khi hai tướng tư lệnh này đang có trong tay 6 Sư Ðoàn Bộ Binh, hầu hết đều thiện chiến, chưa kể đến các Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, mấy chục Tiểu Ðoàn Ðịa Phương Quân, bao nhiêu là đơn vị yểm trợ chiến đấu, đó là chưa kể đến hỏa lực yểm trợ của Hải Quân, Không Quân, lực lượng tổng trừ bị của Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, tất cả đều đang sẵn sàng chiến đấu vì chỉ có chiến đấu hay là chết mà thôi.
Ông tổng thống của phe ta hạ lệnh rút bỏ hai Quân Khu cửa ngõ, địa đầu của Nam Việt Nam như vậy để làm gì? Có nhận lệnh từ đâu không? Hay chỉ vì quá kinh hoàng trước thái độ “tháo chạy” của ông bạn đồng minh khổng lồ, mà quyết định vội vã để tạo nên tình trạng… cũng tháo chạy một cách hoảng loạn, khiến cho lính cũng chết mà dân cũng chết luôn, trong cái thế để cho cộng sản tàn sát quân dân VNCH một cách thê thảm, nhục nhã chưa từng thấy.
Nên nhớ rằng, khi gặp sự quyết chiến của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VNCH, với sự tăng cường của một số đơn vị bạn, mà Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng đã phải tung ra hai sư đoàn thiện chiến để hòng lấy số đông và nhân đà thắng lợi, đánh tan sư đoàn 18 Bộ Binh, dưới sự chỉ huy của tướng trẻ Lê Minh Ðảo, nhưng không thắng nổi. Sau cùng Văn Tiến Dũng phải tung thêm hai Sư Ðoàn nữa vào mặt trận này, là bốn sư đoàn tất cả, lấy bốn đánh một, trong thế thuận lợi về quân sự cũng như tinh thần quân sĩ đang lên. Vậy mà Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VNCH chỉ chịu rời bỏ trận tuyến khi có lệnh của tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 kiêm Vùng 3 Chiến Thuật. Vị Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 của VNCH không muốn trông thấy Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VNCH anh dũng, kiên cường bị tiêu diệt trước thế trận bất quân bình, địch đông gấp bốn và có thể tăng gấp năm, gấp sáu nếu cần, vũ khí đạn được, xe tăng, pháo binh được cộng sản quốc tế đổ vào như mưa bão, quyết đánh chiếm Sài Gòn như đã định.
Tướng Homer Smith, tùy viên Quốc Phòng Mỹ tại Sài Gòn, ngày 13 Tháng Tư 1975, gửi một điện văn cho Tướng George S. Brown, tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ tại Hoa Thịnh Đốn, ca ngợi ý chí và tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của Quân Ðội VNCH dù những bất lợi đang đè nặng trên vai họ. Sau năm ngày theo dõi cuộc chiến An Lộc, Tướng Smith đã nói: “Sự chiến đấu anh hùng và dũng cảm của quân đội Nam Việt Nam, đã cho người ta thấy rõ tinh thần và khả năng chiến đấu của những người lính VNCH này giỏi hơn đối phương của họ rất nhiều…” Trong lúc đó tại Quân Khu 4, ở miền Tây, Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam, một Tướng giỏi, với Tướng Tư Lệnh Phó Lê Văn Hưng, người hùng tử thủ An Lộc mấy năm trước, có trong tay ba sư đoàn Bộ Binh thiện chiến và các lực lượng Biệt Ðộng Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, Ðịa phương quân yểm trợ chiến đấu hùng hậu, tinh thần rất cao, sẵn sàng chờ địch tiến đánh quân khu này.
Khi Tổng Thống cuối mùa Dương Văn Minh, với tư cách tổng tư lệnh lúc đó, bị chỉ huy trực tiếp bởi Sư Phụ Thích Trí Quang và ngay cả từ Hà Nội qua trung gian của người em ruột Dương Văn Minh là sĩ quan cao cấp cộng sản Dương Văn Nhựt (đã liên lạc với Dương Văn Minh từ hồi 1956 ) hạ lệnh cho Quân Ðội VNCH buông súng đầu hàng cộng sản vô điều kiện, để bàn giao cho cộng sản, hi vọng kiếm cho bản thân và bè lũ, phe phái, chỗ đứng chỗ ngồi mà cộng sản sẽ dành cho trong chính quyền “Cách Mạng giải phóng,” thì Tướng Nguyễn Khoa Nam đã họp các sĩ quan có trách nhiệm chỉ huy dưới quyền, và ra lệnh: anh em tùy nghi lo liệu về phần mình, trước tình thế chúng ta bị bắt buộc phải đầu hàng. Kế hoạch chiến đấu để tự cứu mình và bảo vệ vùng lãnh thổ trách nhiệm của chúng ta đã không thi hành được như anh em đã biết. Sau đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam, trong bộ quân phục tác chiến mũ sắt hai lớp, vào Văn Phòng Tư Lệnh, ngồi xuống ghế của mình, chắc là để nhìn lại lần cuối tấm bản đồ Tổ Quốc trên tường, nhìn lá cờ nhỏ nền đỏ với hai ngôi sao trắng, tượng trưng cho uy quyền của một tướng lãnh chỉ huy, để trên bàn rồi rút súng bắn vào đầu tự sát. Chắc chắn là trước khi bóp cò cho viên đạn xuyên qua đầu, vị tướng đáng kính phục này đã nói những gì với Tổ Quốc, với đồng bào, với chiến hữu của ông.
Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Ðoàn, anh hùng tử thủ An Lộc mấy năm trước, trước đó một lúc, trở về căn cứ chỉ huy phụ, nói với người vợ thân yêu: “Em ở lại nuôi con, anh phải ra đi vì thân làm tướng không thể sống nhục như thế này…” Người vợ thân yêu nói với ông “Anh Hưng! Cho em chết theo với! Tất cả chúng ta và các con cùng chết với nhau!” thì Tướng Hưng đã thuyết phục người vợ: “Không được! Cha mẹ không có quyền giết con. Em phải sống để nuôi dạy con nên người để trả thù nhà và cùng với thế hệ mai sau lấy lại Ðất Nước này! Em phải sống, dù phải chấp nhận hi sinh, khó khăn, gian khổ.” Người vợ thương yêu và can trường của vị tướng anh hùng này nói trong nước mắt: “Em nghe lời mình với hai điều kiện: “Nếu cộng sản bắt em phải xa lìa các con hay chúng làm nhục em thì em có quyền tự sát?” Tướng Hưng bằng lòng, nắm lấy tay vợ rồi chào từ biệt vợ con cùng một vài sĩ quan, binh sĩ đã có mặt từ trước tại đây để dự định liên lạc với các đơn vị thi hành kế hoạch chiến đấu cứu mình, cứu Quân Khu 4, của hai Tướng Nam và Hưng, rồi vào phòng riêng, gạt đi lời yêu cầu của người vợ xin được chứng kiến tận mắt sự ra đi của chồng.
Tướng Hưng đóng cửa lại, và một phát súng nổ. Tướng Lê Văn Hưng đã ra đi vĩnh viễn cùng với Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam, để lại cho lịch sử dân tộc Việt Nam những tấm gương bất khuất sáng ngời, như những tấm gương bất khuất của cha ông ngày trước, của những thời đại Lý Thường Kiệt phá quân ngoại xâm Nhà Tống, Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đại phá quân Mông Cổ…
Hai Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng đã cùng một số tướng lãnh khác như Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ và nhiều sĩ quan cao cấp khác của Quân Ðội VNCH đã chết theo vận nước, chớ không chịu đầu hàng hay để giặc bắt. Quân đội của quốc gia nào có những tướng lãnh anh hùng và can đảm như thế hay không?
Một số sĩ quan cao cấp, cả những cựu quân nhân bình thường của Hoa Kỳ, từng tham chiến tại Việt Nam, không muốn dư luận cũng coi mình như những kẻ khác không biết gì về cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến kỳ lạ này, về sau đã lên tiếng trên các phương tiện truyền thông đa dạng ngày nay, nói ra sự thật là: Quân Ðội VNCH nói chung, đã chiến đấu rất anh dũng và kiên cường, mặc dầu họ luôn luôn phải chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, không được chiến đấu trong những điều kiện đầy đủ, dễ dàng như quân đội Hoa Kỳ chúng ta tại Việt Nam. Ðúng như thế! Họ còn nêu rõ những điều cần thiết để cho dư luận hiểu cuộc chiến một cách đơn giản nhưng rõ ràng đúng với tinh thần trong sáng, ngay thẳng, minh bạch của những quân nhân của đất nước Hoa Kỳ luôn được coi là vĩ đại trong con mắt của thế giới loài người:
-Quân Ðội Hoa Kỳ chỉ chiến đấu khi nắm chắc được yếu tố “vượt trội về hỏa lực.” Quân Đội VNCH phải chiến đấu trong mọi trường hợp cần thiết.
-Quân đội Hoa Kỳ chỉ chiến đấu tại Việt Nam trong thời gian ngắn hạn rồi thay nhau về nước. Như thế không bị dồn vào cái thế mệt mỏi căng thẳng quá độ, thường trực về thể chất cũng như tinh thần. Còn Quân đội VNCH thì ngược lại, phải chiến đấu liên tục, không ngừng nghỉ. Sức chịu đựng của người chiến binh VNCH nó khủng khiếp đến thế nào?
-Trong khi chiến đấu cũng như lúc đóng quân trong đồn lũy, người chiến binh Hoa Kỳ luôn luôn được bảo vệ bằng những phương tiện chiến tranh dồi dào, tối tân, hiện đại nhất, cả về tấn công, phòng thủ cũng như yểm trợ. Còn người chiến binh VNCH làm sao có được như vậy! Cái mạng sống của người chiến binh Việt Nam cũng vô cùng mỏng manh, hay nói rõ hơn là dễ chết lắm.
Ðiểm nữa, cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần, thể chất, tâm lý của người chiến binh Việt Nam, là trong khi mình xả thân chiến đấu bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống của chính mình thì lúc đó gia đình, những người thân yêu phải sống ra sao? Liệu có đang kẹt trong vùng lửa đạn, chết chóc hay không? Về điểm này, người chiến binh Hoa Kỳ khỏe hơn là cái chắc, tinh thần ổn định, thoải mái hơn rõ ràng.
Bây giờ, nếu đặt người chiến binh của các cường quốc Âu-Mỹ vào vị trí, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn, thiếu thốn, khắc nghiệt của người chiến binh VNCH, thử hỏi liệu những người chiến binh ấy có thể chiến đấu được như họ hay không? Chịu được bao lâu? Chính Phủ, Quốc Hội và nhân dân các quốc gia đó chịu được mấy tháng, mấy năm?
Câu trả lời xin dành cho những nhà viết sử chân chính, cho những sĩ quan và quân nhân Hoa Kỳ từng chiến đấu anh dũng, can trường bên cạnh những người bạn chiến binh VNCH của họ từ các chiến trường Khe Sanh, Ðắc-Tô, Pleiku, Kontum, Ðồng Xoài, Bình Giả, Củ Chi, cho đến các chiến trường vùng đồng bằng sông Cửu Long, điểm tận cùng của Ðất Nước Việt Nam.
-HẾT-
***
Tài liệu tham khảo:
-The Death of a Nation. – John A. Stormer. – Liberty Bell Press. – Missouri – 1978.
-The World Almanac of The Vietnam War -John S. Bowman (General Editor). – Bison Books Corp, NewYork.-1985.
-Vietnam – The History & The Tactics.- Ashley Brown & Adrian Gilbert.- Orbis Publishing Limited, London –1982.
-Kennedy. – Theodore Sorensen. – Harper & Row . New York – 1965.
-Henry Kissinger’s Diplomacy. – Simon & Schuster .- New York, 1994.
-A Book of U.S. Presidents – George Sullivan – Scholastic Incorporation, New York – 1984.
Nguồn: https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/19-thang-sau-khong-quen-nhung-chien-si-quan-luc-vnch-2/
Wednesday, June 18, 2025
Saturday, May 17, 2025
NICK ÚT KHÔNG ĐƯỢC XEM LÀ TÁC GIẢ CỦA BỨC ẢNH "EM BÉ NAPALM"
Khanh Nguyễn

Tổ chức World Press Photo đã thông báo đình chỉ việc ghi nhận quyền tác giả của bức ảnh báo chí nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 từng được chụp, sau khi một bộ phim tài liệu được tung ra, thách thức và đòi lại sự thật cho 50 năm lịch sử báo chí bị coi là sai lầm.
Bức ảnh, có tựa đề chính thức là The Terror of War nhưng thường được gọi là Napalm Girl, vẫn là một trong những hình ảnh khó phai mờ nhất về cuộc chiến của người Mỹ ở Việt Nam. Kể từ khi được xuất bản vào tháng 6 năm 1972, nó đã chính thức được cho là của Nick Ut, một nhiếp ảnh gia Việt Nam làm việc với Associated Press ở Sài Gòn.
AP và Nick Út từ lâu đã khẳng định rằng Út, khi đó 21 tuổi, chụp bức ảnh, sau đó giành được giải thưởng Ảnh Báo Chí Thế Giới Của Năm vào năm 1973, và đưa Út trở thành một phóng viên ảnh đáng kính. Nick Út đã sống với ánh hào quang này hơn 50 năm.

Nhưng một bộ phim tài liệu gần đây đã thách thức lịch sử đó, thay vào đó đề xuất rằng bức ảnh, mô tả một bé gái chín tuổi trần truồng tên là Phan Thị Kim Phúc khi cô chạy trốn một cuộc tấn công bằng bom napalm ở làng Trảng Bàng ở miền Nam Việt Nam, được chụp bởi một người đàn ông tên là Nguyễn Thành Nghệ. The Stringer, bộ phim được công chiếu tại liên hoan phim Sundance vào Tháng Giêng, tuyên bố rằng ông Nghệ, một tài xế của NBC, người đã bán ảnh cho AP với tư cách là một người làm việc tự do, đã bị từ chối được điền tên tác giả, chỉ vì anh ta không phải là nhân viên của AP.
Bộ phim đã buộc những người có trách nhiệm của World Press Photo, nơi tiến hành cuộc điều tra của riêng mình, có một “suy ngẫm sâu sắc.” Kết quả là tổ chức này đã công bố vào Thứ Sáu ngày 16 Tháng Năm về quan điểm của mình. Một cuộc phân tích nội bộ, được thực hiện từ Tháng Một đến Tháng Năm 2025, và kết luận “dựa trên phân tích vị trí, khoảng cách và máy ảnh được sử dụng vào ngày hôm đó, và xác nhận về chuyện ‘các nhiếp ảnh gia Nguyễn Thành Nghệ hoặc Huỳnh Công Phúc có thể có vị trí chụp ảnh tốt hơn Nick Út.’”
Việc đình chỉ chỉ áp dụng cho quyền tác giả của bức ảnh và không hủy bỏ giải thưởng Ảnh của năm 1973. “Bản thân bức ảnh vẫn không thể tranh cãi,” nhóm cho biết, “và giải thưởng Ảnh Báo Chí Thế Giới Cho bức ảnh quan trọng này về một khoảnh khắc quan trọng trong lịch sử thế kỷ 20 vẫn là một sự thật.”
“Dựa trên những phát hiện này, và theo các giá trị của chúng tôi về độ chính xác, đáng tin cậy và đa dạng, chúng tôi rút ra kết luận liên quan đến việc tác giả thật là ai,” Joumana El Zein Khoury, giám đốc điều hành của nhóm, cho biết trong một thông cáo báo chí. “Điều quan trọng cần phải nói rằng bản thân bức ảnh là giá trị không thể tranh cãi và không nghi ngờ gì nữa, bức ảnh này đại diện cho một khoảnh khắc có thật trong lịch sử tiếp tục vang dội ở Việt Nam, Hoa Kỳ và trên toàn cầu.”
Bộ phim tài liệu The Stringer, do Bảo Nguyễn đạo diễn, đã tìm gặp một số nhân chứng để lập luận rằng ông Nghệ đã bán bức ảnh cho trưởng văn phòng Sài Gòn, Horst Faas, với giá $20 và một bản in, bao gồm cả anh trai của ông Nghệ, người tuyên bố rằng anh ta đã mang cuốn phim cho AP.

Con gái của ông Nghệ, Jannie, người đầu tiên liên lạc với các nhà làm phim, và một số đồng nghiệp phóng viên ảnh cũ để đặt vấn đề về quyền tác giả của bức ảnh này. Sau đó, các nhà điều tra cũng tham khảo ý kiến của các chuyên gia pháp y của Index, một tổ chức phi chính phủ Pháp, các chuyên gia này cũng nhận thấy “rất khó có khả năng” rằng Út đã chụp bức ảnh dựa trên loạt những hình ảnh khác, mà AP tiếp nhận của ông Út vào ngày hôm đó.
Ông Nghệ, người đã xuất hiện bất ngờ tại buổi ra mắt Sundance của Stringer, xác nhận lời kể của mình trong phim. Trong khi đó, ông Nick Út thì phản đối, và tiếp tục tuyên bố quyền tác giả của mình, và nói với AP rằng cuộc tranh chấp “rất khó khăn đối với tôi và đã gây ra đau đớn lớn.”
Nhưng đối với World Press Photo, tác giả của bức ảnh được chính thức khẳng định là không rõ của ai, nhưng dĩ nhiên không là của Nick Út. “Điều này vẫn còn là lịch sử gây tranh cãi, và có thể tác giả của bức ảnh sẽ không bao giờ được xác nhận đầy đủ,” nhóm nghiên cứu cho biết. “Việc đình chỉ xác nhận quyền tác giả hiện tại có hiệu lực, cho đến khi bức ảnh có được chứng minh khác.”
Monday, May 12, 2025
Wednesday, April 30, 2025
KHÔNG CÓ HÒA GIẢI KHI KHÔNG NHÌN THẤY NHAU
Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ
LTS: Hòa hợp và hòa giải dân tộc, dù đã 50 năm sau cuộc chiến, vẫn là một vấn đề nhạy cảm và chưa tìm ra lối thoát đối với người Việt Nam. Nhật báo Người Việt xin trân trọng giới thiệu bài viết đóng góp cho đề tài này của Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ, một sử gia người Mỹ gốc Việt, hiện là giáo sư nghiên cứu tại Trung Tâm Việt Nam và Lưu Trữ của đại học Texas Tech University, Lubbock, Texas. Bài viết không nhất thiết phản ảnh quan điểm của Người Việt.
![]() |
Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ. (Hình: VOA) |
Di chứng và sự cần thiết của hòa giải
Chiến tranh, cùng với những hệ lụy sâu xa và các chính sách hậu chiến, không chỉ để lại vết thương trên thân thể con người mà còn khắc sâu trong tâm khảm và ký ức của cả một dân tộc. Những di chứng ấy – đôi khi hiển hiện, đôi khi âm ỉ – đã trở thành căn nguyên của sự chia rẽ, nghi kỵ và hận thù kéo dài giữa con người với nhau, giữa người dân với chính thể, đặc biệt là giữa những bên từng ở hai chiến tuyến.
Năm mươi năm sau chiến tranh, những di chứng của thời chiến và hậu chiến vẫn còn hiện hữu – chưa được hóa giải một cách thấu đáo – tiếp tục góp phần duy trì sự chia rẽ, định kiến, nỗi sợ hãi và kỳ thị giữa người với người, giữa cộng đồng với cộng đồng. Bởi vậy, hòa giải và hòa hợp sau chiến tranh không thể chỉ là khẩu hiệu lặp lại trong các dịp kỷ niệm, mà cần là một quá trình kiên trì, đòi hỏi thời gian, sự mở lòng bao dung để cảm thông, và quan trọng hơn hết, là những hành động cụ thể và chân thành.
Phân biệt giữa hòa giải và hòa hợp
Hai khái niệm hòa giải và hòa hợp không nên bị đồng nhất hay giản lược thành một tiến trình duy nhất. Hòa giải là bước tiền đề – là hành trình can đảm để nhìn lại, nhận diện và hóa giải những khuất tất, đau thương trong lịch sử. Chỉ khi sự thật được công nhận, ký ức được lắng nghe, và con người được tôn trọng với tất cả chiều sâu của căn tính và trải nghiệm lịch sử – thì mới có thể đặt nền móng cho một sự hòa hợp thực sự.
Hòa hợp là kết quả của tiến trình ấy – khi sự khác biệt không còn là lý do để loại trừ, mà trở thành nền tảng cho một cộng đồng cùng chung sống trong tôn trọng, chấp nhận sự đa dạng đầy sắc thái cũng như phức tạp, và cùng nhau xây dựng một tương lai phong phú hơn. Hòa giải và hòa hợp chỉ có thể bắt rễ khi xuất phát từ sự tự nguyện, sự thấu hiểu, và nỗ lực chung của tất cả các bên liên quan.
Những trở ngại hiện tại
Cho đến nay, giữa người Việt với nhau, những bước tiến về kinh tế, văn hóa, thậm chí nghệ thuật đã tạo ra những cây cầu – nhưng những cây cầu ấy vẫn chưa thể bắc qua ý thức và vô thức lịch sử. Ở tầng vô thức, vẫn tồn tại sự e dè, mặc cảm, thậm chí sợ hãi – thể hiện qua cách xã hội né tránh những vấn đề “nhạy cảm” trong quá khứ: Từ miền Bắc với cải cách ruộng đất, phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đến miền Nam trước 1975 với thảm sát Huế, thảm sát Mỹ Lai, hậu quả của chất độc da cam, trại cải tạo, vấn đề lý lịch, các cuộc vượt biên, và cả sự hiện diện gây tranh cãi của những biểu tượng như lá cờ vàng – tất cả đều là những phần ký ức chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ và công bằng.
Hòa giải văn hóa – dù mang lại hy vọng – vẫn chưa chạm đến gốc rễ. Những buổi hòa nhạc Trịnh Công Sơn, các triển lãm mỹ thuật thời chiến, những bộ phim về hàn gắn… tuy đã bước đầu mở lối, nhưng nếu không được tiếp tục bằng chính sách, giáo dục, và đối thoại công khai, chúng chỉ dừng ở mức biểu tượng cảm xúc, chưa đủ để tạo ra sự hòa giải bền vững.
Tồn tại giữa con người và thể chế
Thực chất, dù không tuyệt đối, nhưng phải công tâm nhìn nhận rằng giữa con người với con người, phần lớn đã có sự hòa giải từ lâu. Ở tận cùng của ký ức và nỗi đau, ai cũng hiểu rằng cuộc chiến ấy là một cuộc tương tàn giữa huynh đệ – giữa những người không may sinh ra ở hai phía vĩ tuyến, giữa những cuộc ra đi và ở lại do hoàn cảnh đẩy đưa. Chính vì thế mới có những đối đầu đầy bi kịch giữa bạn bè, giữa người thân trên chiến trường; mới có cảnh người cha tập kết vào tù thăm đứa con ngụy sau ngày “giải phóng;” mới có những éo le như người vợ của một sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa buộc phải tái hôn với một bộ đội cộng sản để nuôi con khi chồng còn trong trại cải tạo.
Những oan nghiệt đó, theo thời gian, phần nào đã tự được hóa giải – như khi người anh từng tập kết trở về quê trông nom nhà cửa cho đứa em được đi Mỹ. Điều đó cho thấy, rốt cuộc, vấn đề không còn nằm giữa người với người, mà nằm giữa thể chế và con người – cụ thể là ở chỗ, cho đến nay, thể chế ấy vẫn chưa thực sự thể hiện một thiện chí hòa giải một cách chân thành, dù họ hoàn toàn có đủ điều kiện và khả năng để làm điều đó.
Cách tiếp cận ký ức và loại trừ chính trị
Không thể nói đến hòa giải nếu như một bên vẫn bị phủ định hoàn toàn danh tính, quá khứ và đóng góp lịch sử của mình. Việc vẫn gọi Việt Nam Cộng Hòa là “ngụy quyền,” vẫn tiếp tục tuyên truyền một lịch sử một chiều, vẫn loại trừ các biểu tượng đối lập khỏi không gian công cộng – không phải là điều vô tình, mà là một hệ thống tái sản xuất ký ức có chủ đích.
Tình trạng này không chỉ là sản phẩm của một ý thức hệ, mà còn ăn sâu vào văn hóa chính trị quyền lực – nơi mà sự chính danh được xây dựng trên sự loại trừ thay vì cộng hưởng. Việc chính quyền Việt Nam có thể dễ dàng hòa giải với các cường quốc như Mỹ hay Trung Quốc vì lý do kinh tế và địa chính trị, nhưng lại chưa thể mở lòng với chính những người anh em cùng một dân tộc, phản ánh một sự lựa chọn có tính toán trong cách tiếp cận ký ức – nơi lợi ích dường như vẫn được đặt lên trên sự thấu hiểu và phẩm giá con người, với giả định rằng đó mới là điều mang lại lợi ích lâu dài.
Khi phải sống và đối diện với thực tại của những toan tính như thế – cùng với ảnh hưởng kéo dài của chủ nghĩa thực dân và Chiến Tranh Lạnh lên các chia rẽ ý thức hệ và vùng miền – sự phân cực trong xã hội Việt Nam càng trở nên sâu sắc, không chỉ giữa người Việt với nhau, mà còn giữa con người và thể chế mà họ từng hoặc đang thuộc về. Người Việt, dù già hay trẻ, dù sống trong nước hay hải ngoại, nhiều khi bị buộc phải lựa chọn giữa hai cực đối lập, thay vì được quyền tồn tại trong sự dung hòa của đa dạng và phức tạp – vốn là bản chất thật sự của lịch sử và con người.
![]() |
Một thương phế binh VNCH tại Sài Gòn, người bị mất một phần thân thể trong Cuộc Chiến Việt Nam. (Hình minh họa: GXĐMHCG) |
Những bước nhỏ đến hòa giải
Con đường dẫn đến hòa giải không có lối tắt. Đó không thể là một cuộc “đại nhảy vọt,” bởi vì hòa giải và hòa hợp không thể đạt được bằng cách gạt bỏ quá khứ, phủ nhận nỗi đau hay những mất mát của người khác bằng những ngôn từ mang tính ngoại giao chính trị như “khép lại quá khứ, hướng đến tương lai.” Cũng không thể chỉ chờ cho thế hệ từng trực tiếp chịu tổn thương “ra đi” rồi mới bắt đầu tiến trình ấy – bởi vì không ai có thể hòa giải với một khoảng trống.
Vì vậy, dù hòa giải không thể vội vã, nhưng càng không thể trì hoãn. Điều kiện tiên quyết phải là thành ý và lòng bao dung – từ cả hai phía – để nhìn nhận sự tồn tại, nỗi đau, và giá trị lịch sử của nhau. Từ đó, các bước đi cụ thể có thể được thực hiện theo hai tầng nỗ lực: Vĩ mô và vi mô.
Ở cấp độ vĩ mô, tiến trình hòa giải cần bắt đầu từ việc nhìn lại cách chúng ta kể về lịch sử – tức là một sự nhìn nhận trung thực không chỉ về chính mình mà cả phía bên kia. Việc cải cách giáo dục lịch sử, chấm dứt mô hình kể chuyện một chiều, sẽ mở đường đưa những phần bị loại trừ trở lại như thành tố không thể thiếu của dòng chảy dân tộc.
Một quốc gia thực sự trưởng thành là quốc gia có dũng khí đối diện với ký ức – kể cả những phần tối tăm nhất. Làm được điều đó, quốc gia ấy không chỉ trưởng thành mà còn mạnh mẽ, vì đã biết mở lòng đón nhận những con người và ký ức từng bị gạt ra bên lề.
Trong tinh thần ấy, việc tổ chức các diễn đàn tự do đối thoại quốc gia, nơi những người từng ở hai bên chiến tuyến có thể lắng nghe và lên tiếng, sẽ góp phần chữa lành vết thương. Cùng với đó là các nỗ lực phục hồi danh dự cho những nhân vật từng bị loại trừ – thông qua bảo tàng, bia tưởng niệm, hay ấn phẩm mang tính giáo dục.
Một chính sách tiếp nhận và nâng đỡ công bằng, đầy nhân ái đối với những người – dù đã khuất hay vẫn sống lây lất vì di chứng chiến tranh – là bước đi ý nghĩa. Những nỗ lực tìm kiếm hài cốt, trùng tu mộ phần, hỗ trợ tài chính và y tế, nên được thực hiện với cùng một tấm lòng như dành cho tử sĩ và thương binh của chính thể hiện tại. Bởi vì họ – bất kể từng thuộc về bên nào – vẫn luôn là một phần không thể tách rời của cộng đồng dân tộc.
Ngoài việc hướng tới hòa giải với những yếu tố lịch sử giữa bên được gọi là thắng cuộc và bên thua cuộc, thì một yêu cầu cấp thiết và thực tế hơn hiện nay chính là tiến trình hòa giải giữa thể chế và người dân – không chỉ với đồng bào ở hải ngoại mà cả với đồng bào trong nước.
Một nền hòa giải thực sự đòi hỏi chính quyền cần chủ động nhìn nhận, tôn trọng, và từng bước thực hiện các giá trị về tự do và quyền công dân. Đặc biệt, cần tạo dựng môi trường công bằng, trong đó người dân có quyền tự do bày tỏ nguyện vọng, tham gia đóng góp ý kiến và xây dựng chính sách quốc gia.
Chỉ bằng cách đó, tinh thần đoàn kết dân tộc mới có thể thực sự được khơi dậy, và mọi người dân – bất kể quá khứ hay vị trí địa lý – mới có thể cùng chung tay vun đắp cho một tương lai chung, vững mạnh và bao dung hơn cho đất nước.
Ở cấp độ vĩ mô, những hành động nhỏ từ cộng đồng và cá nhân cũng vô cùng quan trọng. Các sáng kiến văn hóa xã hội từ trong và ngoài nước cần được khuyến khích như những nỗ lực phục hồi ký ức bị lãng quên. Việc tạo ra không gian kể chuyện và lắng nghe – từ bảo tàng, nghệ thuật, podcast, đến phỏng vấn – sẽ giúp người Việt các thế hệ chia sẻ trải nghiệm của mình. Đồng thời, đầu tư vào giáo dục và hỗ trợ tâm lý cho thế hệ trẻ là điều cấp thiết để các em hiểu rằng lịch sử không chỉ là thắng thua, mà là câu chuyện của con người – với đầy đủ tổn thương, giằng xé, và phẩm giá.
Kết luận
Năm mươi năm sau chiến tranh, hòa giải và hòa hợp không thể tiếp tục là những lời nói êm tai hay khẩu hiệu vang vọng trong lễ kỷ niệm. Đã đến lúc chúng phải trở thành hành động – cụ thể, chân thành và có ý nghĩa – để ký ức thôi là gánh nặng, mà trở thành nền tảng cho một tương lai chung.
Muốn hòa hợp, phải hòa giải. Muốn hòa giải, phải hóa giải. Muốn hóa giải, phải nhìn nhau như những con người mang ký ức, nỗi đau và ước mơ. Không có hòa giải nào diễn ra khi một bên tiếp tục phủ định sự hiện diện và giá trị của bên kia, dù trong quá khứ hay hiện tại. Nhưng nếu bắt đầu từ lòng trắc ẩn, từ những cuộc đối thoại chân thành và chính sách mang tính chữa lành – thì hòa hợp không phải là điều viển vông, mà là một tương lai khả dĩ. [đ.d.]
Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/little-saigon/khong-co-hoa-giai-khi-khong-nhin-thay-nhau/
Saturday, April 26, 2025
CHO NGƯỜI NẰM XUỐNG TRÊN QUÊ HƯƠNG
Phan Nhật Nam
Cảm giác Sự Chết vốn sẵn có
từ lâu qua thân phận Người Lính trên Quê Hương Miền Nam Việt Nam. Đấy là Năm
1965, với cơn mưa u uất mùa hạ Miền Nam, nơi Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp. Mưa
không đủ lớn, không dài lâu để cho ta có cảm giác được tẩy rửa, cuốn trôi. Mưa
âm âm, ngột ngạt làm bốc dầy thêm mùi xác chết của những đơn vị gồm Tiểu Đoàn
2, Trung đoàn 7 Sư đoàn 5 Bộ Binh; Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân; và Tiểu Đoàn 7
Nhẩy Dù với những người lính mà sức chịu đựng dường như vô hạn dưới khối nặng của
thùng đạn, ba-lô, nón sắc, vũ khí họ mang trên vai, vác lên lưng, để từng ngày
cúi gầm mặt bước xuống vùng sình lầy mênh mông, trèo lên dốc đá núi thăm thẳm,
lội xuyên rừng rậm ngút ngàn không tiếng nhỏ than van, ghìm lại hơi thở dài nặng
nhọc... Tất cả những người lính cao thượng khắc kỷ vừa kể ra vào những ngày của
tháng 6 năm 1965 ấy đã là những xác chết căng cứng, da tím sẫm bốc mùi xanh xao
tanh tưởi... Những khuôn mặt, dạng người tinh anh tươi trẻ của tuần, tháng trước
biến dạng thành những khối thịt ủng lầy máu sẫm, đất bùn đỏ, nhầy nhụa thêm bởi
thấm mưa của bao ngày nằm nơi đụng trận, một chốn gọi là xã Đồng Xoài, Quận Đôn
Luân, Tỉnh Bình Dương, nơi chỉ xa Sài Gòn khoảng năm-mươi cây số đường chim
bay.